BÚT PHÁP VÀ BÚT CHIẾN CỦA MARX

Có một cách đặt vấn đề, một lối phân tích của Mác phân biệt Mác với tất cả những nhà tư tưởng đương thời[1]. Cách đặt vấn đề đó càng độc đáo và tác dụng mãnh liệt vào tâm tư người đọc vì một cách sử dụng ngôn ngữ của Mác.
Để đánh đổ một ý kiến đối nghịch hay để trình bày một quan niệm của mình, không những ngôn ngữ diễn tả cần phải trong sáng rõ ràng, mạch lạc, ngắn gọn mà còn cần phải đập mạnh vào tâm tư người đọc, làm cho người đọc hoặc bị tê liệt, hoặc bị quyến rũ; muốn thế, không gì xây dựng những câu văn thành những công thức mà lý tưởng hơn cả là đạt tới sự chặt chẽ của những công thức toán học. Những kiểu nói công thức theo tỷ lệ nghịch thuận, hoặc theo lối đảo ngữ thường được Mác sử dụng một cách rất tài tình và đã trở thành những châm ngôn nổi tiếng.
Mác đã lược tóm tất cả tình cảnh sa đọa của người thợ làm việc trong chế độ tư bản bằng công thức sau đây:
Thế giới sự vật càng được giá bao nhiêu, thì thế giới con người càng mất giá đi bấy nhiêu” (avec la mise en valeur (verwertung) du monde des choses, progresse en raison directe la perte en valeur, la dévaluation du monde des hommes).
Người thợ trở thành một thứ hàng càng rẻ mạt khi người thợ càng sản xuất thêm nhiều hàng”.
Sản phẩm của lao công càng văn minh, người thợ càng trở thành man rợ; lao công càng mạnh, người thợ càng yếu; lao công càng giàu có về trí tuệ, người thợ càng mất trí tuệ và nô lệ thiên nhiên. Lao công tạo ra vẻ đẹp, nhưng đối với người thợ, lao công đưa đến sự què quặt. Lao công tạo ra tinh thần, nhưng đối với người thợ nó tạo ra sự đần độn. Thế giới bên ngoài mà người thợ tạo ra trước mặt anh ta càng vĩ đại bao nhiêu, thì chính anh ta và thế giới bên trong của anh ta càng trở thành nghèo nàn bấy nhiêu.
“Sự thực hiện lao công xuất hiện như một phi thực làm cho người thợ phi thực đến nỗi chết đói
”. (La réalisation du travail apparait comme déréalisation si bien que l’ouvrier est déréalisé jusqu’à là mort par la faim)
Kinh tế tư bản là phi luân bởi chính những mục đích cao cả giả dối của nó.
Cái nhân đạo ở ngoài kinh tế chính trị, và cái vô nhân đạo ở trong kinh tế chính trị
Cái vòng lẩn quẩn của kinh tế chính trị; mục đích là tự do tinh thần. Vậy, đối với đa số, là lệ thuộc, vắng bóng mọi niềm vui tinh thần. Những nhu cầu vật chất không phải là mục đích duy nhất. Vậy, những nhu cầu vật chất trở thành mục đích duy nhất của đa số. Nhưng ngược lại mục đích là hôn nhân. Vậy, với đa số đó chỉ là đĩ điếm; mục đích là hữu sản. Vậy, đó là sự phá sản của đa số”.
Những đảo ngữ nổi tiếng:
Proudhon viết “Triết lý về sự lầm than” với một thái độ phê phán lý thuyết dựa vào những khái niệm luân lý, triết lý được coi như những chân lý vĩnh cửu (công bằng, trật tự…) Mác vạch ra tính cách ảo tưởng lầm than của thái độ phê phán suông: “Sự lầm than của Triết lý”.
Nhấn mạnh vào sự cần thiết của lý luận, phê phán trong công cuộc tranh đấu, nhưng sự cần thiết đó không phải xuất phát từ một say mê lý luận để lý luận, mà là sự say mê tranh đấu:
Tranh đấu chống lại một tình trạng xã hội, phê bình không phải là một say mê của đầu óc, nhưng là đầu óc của say mê”.
Hoặc nhấn mạnh vào sự cần thiết gắn liền lý luận với thực tiễn tranh đấu. Lý luận là một võ khí tinh thần, nhưng phải đi đôi với võ khí thực sự: “Võ khí phê bình không thể thay thế cho sự phê bình bằng võ khí; lực lượng vật chất phải được đánh đổ bằng một lực lượng vật chất”.
Trong viễn tượng đó, Triết lý hiểu theo nghĩa lý luận phê phán, phác hoạ đường lối, và vô sản hiểu theo nghĩa lực lượng thực hiện đường lối, thì triết lý và vô sản là một: “Cũng như triết học tìm thấy ở vô sản khí giới vật chất của mình thế nào thì vô sản cũng tìm thấy ở Triết học khí giới tinh thần của mình thế ấy… Triết học là cái đầu của mọi cuộc giải phóng nhân loại. Vô sản là con tim của cuộc giải phóng đó. Triết lý không thể thực hiện nếu không xóa bỏ được vô sản, vô sản không thể được xóa bỏ nếu không thực hiện được triết học”.
Sứ mệnh lịch sử của vô sản, như một tầng lớp chịu đựng mọi bóc lột áp bức, là chấm dứt tình cảnh bóc lột, chấm dứt tình cảnh bóc lột là chấm dứt chế độ quyền tư hữu; chấm dứt chế độ quyền tư hữu là chấm dứt xã hội giai cấp đã đẻ ra giai cấp vô sản; không phải để đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp phổ biến, nhưng là để tiêu diệt mọi giai cấp…
Vô sản thực hành bản án mà chế độ tư hữu đã tự buộc mình khi tạo ra vô sản, đồng thời vô sản cũng thực hành bản án mà vô sản đã tự buộc mình khi tạo ra sự giàu có cho người khác và sự lầm than cho chính mình. Sau thắng lợi, vô sản không tự tôn thành giai cấp phổ biến của xã hội, vì nó đã chỉ thắng lợi bằng cách tự tiêu diệt và tiêu diệt giai cấp đối lập. Trong trường hợp đó, vô sản sẽ biến mất với chế độ tư hữu mà nó là sản phẩm”.
Trong công cuộc giải phóng con người, phải gạt bỏ tôn giáo vì tôn giáo là phản ảnh vong thân, là thuốc phiện ru ngủ những kẻ lầm than trong những ước mơ chỉ là ảo tưởng.
Nền tảng của phê bình tôn giáo là như sau: con người làm ra tôn giáo; không phải tôn giáo làm ra con người”.
“Lầm than tôn giáo, một đàng là biểu lộ của lầm than đích thực, đàng khác cũng là sự phản kháng chống lại lầm than đích thực
”.
Nhưng phê bình tôn giáo mà lại dùng những khái niệm tôn giáo thì cũng vẫn ở trong tôn giáo (trường hợp Luther) hay dùng những khái niệm tâm lý, xã hội triết lý (trường hợp Feuerbach, Bauer…) nhằm đả phá tôn giáo cũng vô ích vì không đả động đến những điều kiện đã đẻ ra tôn giáo.
Nhận định về Tin lành (như một phê bình công giáo La Mã), Mác viết:
Luther đã thắng sự nô lệ dựa vào lòng sùng kính nhưng chỉ để thay thế sự nô lệ dựa vào sùng kính bằng nô lệ dựa vào niềm tin. Ông ta đã bẻ gãy lòng tin vào quyền bính, vì đã thiết lập quyền bính dựa vào lòng tin. Ông đã cải tạo những linh mục thành giáo dân vì đã biến những giáo dân thành linh mục. Ông đã giải thoát con người khỏi cái vẻ đạo đức bề ngoài, vì đã coi đạo đức là yếu tính của con người. Ông đã làm rơi những xiềng xích buộc trói thân xác vì đã xiềng xích hóa được tâm hồn rồi”.
Tin lành chống lại công giáo [vì công giáo] đã trở thành cái đạo nô lệ dựa trên tôn sùng (ảnh tượng…) đòi hỏi vâng phục quyền bính giáo sĩ, và quá chú trọng vào những tổ chức đạo đức bên ngoài, những kỷ luật đối với thân xác mình để đề cao một đạo chỉ dựa vào đức tin đời sống bên trong… Nhưng thực ra Tin lành chỉ là một cải biến, một chỉnh lý tôn giáo, vì vẫn giữ nguyên vẹn những đòi hỏi tôn giáo, chỉ thay đổi cách thế giữ đạo mà thôi (thay lòng sùng kính ảnh tượng bằng sùng kính đức tin, thay lòng tin vào quyền bính giáo sĩ bằng quyền bính của lòng tin, thay linh mục bằng giáo dân nhưng chỉ là gán cho giáo dân (mục sư) chức linh mục…
Phê phán thái độ phê phán của Feuerbach, Bauer, Mác viết:
Chúng tôi không biến những vấn đề đời thành những vấn đề thần học. Chúng tôi biến những vấn đề thần học thành vấn đề đời. Sau bao nhiêu năm, lịch sử đã được giải quyết bằng mê tín, chúng tôi giải quyết mê tín bằng lịch sử. Vấn đề tương quan giữa giải phóng chính trị và giải phóng tôn giáo đối với chúng tôi trở thành vấn đề tương quan giữa giải phóng chánh trị và giải phóng nhân loại
và sau cùng đây là công thức về nhân bản cộng sản vô thần:
Vô thần, với tư cách là một hủy diệt (aufhebung) Thượng đế, là sự hình thành của chủ nghĩa nhân bàn lý thuyết. Cộng sản, với tư cách là một hủy diệt tư hữu, là một đòi lại cuộc sống của nhân loại thực sự như tư hữu của mình, một đòi lại thuộc về lãnh vực của chủ nghĩa nhân bản thực tiễn. Nói cách khác, vô thần là chủ nghĩa nhân bản tiến tới bằng sự xóa bỏ tôn giáo và cộng sản là chủ nghĩa nhân bản tiến lên bằng sự xóa bỏ tư sản”.
hay:
Cộng sản là một xóa bỏ tư sản coi như một phân ly giữa người với người, vậy cộng sản là một phục hồi thực sự bản chất con người bởi con người và cho con người, vậy coi như một trở về con người với chính nó, với tư cách là một con người nhân loại, một trở về đầy đủ, ý thức bằng cách duy trì mọi phong phú của những phát triển về trước của nó”.
Đối với những lý thuyết thù địch cần đánh đổ, phê bình của Mác là một tố cáo: tố cáo tính cách hình thức, lừa dối, sai lầm, ảo tưởng của những lý thuyết, chủ nghĩa, tôn giáo bằng cách vạch ra những mâu thuẫn nội tại của chúng và nhằm tiêu diệt chúng bằng cách tiêu diệt những điều kiện tạo ra chúng (sẽ bàn trong chương về phương pháp).
Đối với đồng chí nhưng đã đi lệch đường, Mác cũng không chút thương hại, và phê bình ở đây là một bút chiến, với một thái độ châm biếm, chế riễu, khinh bỉ đôi khi thật tàn nhẫn. Mác không phân biệt người với lý thuyết, không chủ trương tìm hiểu, đối thoại, nhưng chỉ nhằm tranh thủ chân lý và do đó không ngần ngại làm nhục, tổn thương con người hay đè bẹp đối phương.
Chẳng hạn Mác phê bình Bruno Bauer, người bạn, đồng chí cũ về thái độ duy tâm trừu tượng của Bauer khi phân tách những vấn đề thực tại. Ngay cái tựa cũng đã ngụ ý chế riễu một cách khinh bỉ rồi; Mác gọi tất cả những bạn bè của Bauer là đồng bọn, là “Thánh gia” hay “Phê bình việc phê bình phê bình chống lại B. Bauer và đồng bọn”.
Một vài cái đề các chương ngụ ý mỉa mai.
- Sự sâu xa của phê bình phê bình hay phê bình phê bình dưới ngòi bút của Jungnitz (Chương II).
- Phê bình phê bình như một bình an của trí thức hay là phê bình phê bình dưới ngòi bút của Edgar (chương IV).
- Phê bình phê bình buôn bán những bí nhiệm, hay phê bình dưới ngòi bút của Szeliga (chương V).
- Phê bình tuyệt đối hay phê bình dưới ngòi bút của Bruno…
Khi phê bình khiêu vũ, Szeliga đã chỉ coi khiêu vũ như một phạm trù chung chung để tìm hiểu tại sao xã hội chấp nhận khiêu vũ mặc dầu trai gái từng đôi ôm nhau và có thể có vẻ “được kích thích, cảm khoái mà dư luận không coi những va chạm ôm ấp đó như khiêu dâm”.
Mác mỉa mai Szeliga: Ông Mục sư (Mác gọi nhà phê bình là mục sư) không nói tới những lối nhảy dâm đãng “can can” polka, (điệu vũ của miền Bohême) nhưng chỉ nói tới khiêu vũ chung chung, đến phạm trù khiêu vũ, một phạm trù không khiêu vũ ở đâu cả, trừ trong bộ óc phê bình của ông mục sư. Chỉ cần ông quan sát một chút một điệu nhảy theo lối “nhà tranh” ở Paris cũng đủ để tinh thần ki tô giáo Nhật Nhĩ Man của ông phẫn nộ vì tính cách ngổ ngáo hồn nhiên, lời nhạc bộ điệu khiêu dâm của nó[2].
Bàn về vai trò của lịch sử, Bruno viết: “Lịch sử để làm gì, nếu không phải để minh chứng cho chúng ta thấy những chân lý rất đơn giản trong các chân lý, như sự xoay quanh mặt trời của quả đất”.
Mác chế riễu: “Cũng như trước mắt những nhà cứu cách luận xưa, cây cối chỉ có để cho súc vật ăn, và súc vật để cho loài người ăn, lịch sử chỉ có để dùng vào việc ăn trên lý thuyết, tức là sự chứng minh”.
Con người có để cho lịch sử có, và có lịch sử để cho có chứng minh các chân lý. Dưới một hình thức phê bình quá tầm thường như thế, thật ra đó chỉ là nhắc lại một thứ đạo lý trừu tượng cho rằng con người và lịch sử có để cho chân lý có thể biết mình là chân lý. Do đó lịch sử cũng như chân lý đều trở thành một cá nhân riêng biệt, một chủ thể siêu hình mà những con người cụ thể chỉ là những đại diện. Chính vì thế mà nhà phê bình tuyệt đối đã viết những câu: “Lịch sử không cho phép người ta bất xét đến nó. Lịch sử đã cố gắng rất nhiều[3]. Mác gọi Bauer là nhà thần học, là loài bò sát nhai lại những kiến thức của Hegel mà không tiêu nổi[4].
Để kết luận hơn 400 trang phê bình, Mác tiêu diệt đối phương bằng cách làm cho đối phương trở thành lố bịch.
Chương IX: Phán đoán sau cùng của phê bình.
Bằng hai lần, phê bình, nhờ Rodolphe, đã cứu vãn thế giới khỏi suy sụp, nhưng chính là đem lại sự suy sụp cho thế giới”.
“… Và tôi thấy, tôi nghe thấy một thiên thần khỏe mạnh, ông Hirzel, bay trên trời từ Zurich. Ông cầm trong tay một quyển sách nhỏ mở ra, tựa giống tập 5 của “tạp chí văn học” Allgemeine Literaturzeitung”[5], và ông đặt chân phải trên đám đông, còn chân trái trên Charlottenbourg; và ông kêu lớn tiếng như sư tử gầm thét, và lời ông bay đi như những bồ câu và lên cao tận miền “Bi thảm”, tới những khía cạnh sáng loáng của phán xét sau cùng theo lối phê bình…
 “… Và trong khi thiên thần kêu gọi, bẩy sấm chớp rền vang tiếng kêu của chúng:
Dies irae, dies illa.
Solvet saeclum in favilla
Judex ergo cum sedebit,
Quidquid latet apparebit,
Nil inultum remanebit,
Quid sum miser tunc dicturus... [6]
Các bạn sẽ nghe thấy những tiếng chiến tranh và những lời chiến tranh. Điều đó phải xảy ra trước đã. Vì có những Ki-tô giả và Tiên tri giả, các ông Buchez, Roux de Paris, Friedrich, Rohmer và Rohmer de Zurich, và họ sẽ nói: Đây là đấng Ki-tô! Nhưng lúc đó dấu hiệu của anh em Bauer sẽ xuất hiện trong phê bình, và chúng ta sẽ  được chứng kiến sự thực hiện câu ngạn ngữ của dân quê:
Khi những con bò đi song đôi
Việc cày ruộng sẽ dễ dàng hơn.
 
°
Bình luận lịch sử
Theo chỗ chúng tôi biết sau đó, thì không phải thế giới bị tiêu diệt nhưng là tạp chí “Phê bình văn học” (Kritische Literaturzeitung)[7].
Proudhon cũng là một người bạn của Mác. Mác đã từng đàm đạo thâu đêm với Proudhon về Hegel, về xã hội chủ nghĩa, và đã tha thiết viết thư mời Proudhon cộng tác trong việc thành lập một phong trào xã hội chủ nghĩa giữa các nước Đức, Pháp, Anh – mà công việc đầu tiên là thiết lập những liên lạc, trao đổi ý kiến về đường lối, lý thuyết, sửa soạn cho hành động sau này. Nhưng khi Proudhon xuất bản cuốn “Triết học về lầm than” (Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế), Mác đã phản ứng ngay, có lẽ vì cảm thấy mình bị Proudhon ám chỉ và do đó đã không nể nang “đập nát” không những tư tưởng mà cả uy tín quốc tế của Proudhon. Dĩ nhiên là sau khi “Lầm Than về Triết lý” ra đời, tình bạn giữa hai người bị tan vỡ… Ngay lời tựa, Mác đã xỏ đau Proudhon bằng những lời sau đây:
Ông Proudhon phải cái không may là không được biết đến ở Âu châu. Ở Pháp, ông có quyền được coi như một nhà kinh tế tồi vì được hiểu lầm là một triết gia Đức giỏi. Ở Đức, ông có quyền được coi như một triết gia Đức dở, vì được hiểu lầm là một trong những kinh tế gia Pháp nổi tiếng nhất. Chúng tôi, với tư cách vừa là người Đức, vừa là kinh tế gia, chúng tôi muốn phản đối hai điều sai lầm trên”.
Độc giả sẽ hiểu cho, trong việc làm bội bạc này, đôi khi chúng tôi phải bỏ qua sự phê bình ông Proudhon để giới thiệu Triết lý Đức, đồng thời cũng phác hoạ vài nét lớn về kinh tế học. Bruxelles 15-9-1847. Karl Marx.
Trang sau, hình như cho rằng lời tựa trên chưa đủ làm nhục Proudhon, nên Mác viết thêm:
Cuốn sách của ông Proudhon, không phải chỉ là một bộ khảo luận về kinh tế học, một cuốn sách thường mà còn là một kinh thánh: “Những mầu nhiệm”, “Những Bí mật rút ra từ đáy lòng Thiên Chúa”, “Những Mặc Khải” chả còn thiếu gì trong cuốn đó. Nhưng vì ngày nay, những tiên tri được người ta bàn cãi một cách thận trọng hơn là những tác giả đời, nên độc giả buộc phải chịu cùng với chúng tôi bước qua sự thông thái khô khan và tối tăm của “Sáng thế ký” (Kinh thánh) để sau đó vươn lên cùng với ông Proudhon đến những miền thanh cao và hiệu nghiệm của chủ nghĩa siêu xã hội”.
Chương đầu, Mác chế riễu Proudhon đã khám phá ra kinh tế học như một khoa học như thế nào, để rồi chương hai chứng minh tính cách siêu hình của thứ kinh tế học đó. Mác mở đầu chương hai về “Phương pháp” như sau:
Chúng ta đang ở giữa nước Đức. Chúng ta sẽ phải nói tới siêu hình học, mà chính là nói về kinh tế học. Và về điểm đó, chúng ta chỉ việc phải theo dõi những “mâu thuẫn” của Ông Proudhon. Lúc nãy, Ông đã buộc chúng ta nói tiếng Anh, trở thành người Anh cà-là-mèng. Bây giờ, màn thay đổi, Ông Proudhon đưa chúng ta về tổ quốc yêu quý của chúng ta và buộc chúng ta lấy lại tư cách người Đức, dù chúng ta muốn hay không.
“Nếu người Anh biến người thành mũ, người Đức biến mũ thành ý tưởng. Người Anh là Ông Ricardo, nhà ngân hàng và nhà kinh tế lỗi lạc, còn người Đức là Ông Hegel, giáo sư triết học ở đại học Berlin.
Louis XV, ông vua cuối cùng, tiêu biểu cho sự suy đồi của nền quân chủ Pháp, đã tuyển mộ một y sĩ ở bên cạnh mình; vị y sĩ đó đã là nhà kinh tế học đầu tiên của nước Pháp. Vị y sĩ đó, nhà kinh tế học đó tiêu biểu cho sự thắng lợi tất nhiên như một khoa học, và đã lược tóm khoa đó trong “Bảng Kinh Tế” nổi tiếng. Trừ một nghìn lẻ một bình luận đã in bảng tóm đó, chúng ta còn có một bình luận của chính y sĩ. Đó là “Phân tích bảng kinh tế” kèm theo “Bảy nhận xét quan trọng”.
Ông Proudhon là một y sĩ Quesnay khác. Đó là ông Quesnay của khoa siêu hình về kinh tế.
Vậy mà siêu hình học, toàn bộ Triết học, theo Hegel đều thu gọn vào phương pháp. Do đó chúng ta phải tìm cách làm sáng tỏ phương pháp của ông Proudhon cũng tối tăm không kém “Bảng kinh tế”. Chính vì thế mà chúng tôi đưa ra 7 nhận xét ít nhiều quan trọng. Nếu bác sĩ Proudhon không hài lòng về những nhận xét của chúng tôi, thời xin ông cứ làm linh mục Bandeau và sẽ đưa ra “giải thích về phương pháp kinh tế siêu hình
[8]”.
 Trong một đoạn lược tóm tất cả quan điểm phê bình của mình, và cũng là đoạn Proudhon ức hơn hết, vì nó đụng chám tới chủ trương mà Proudhon đề ra, và lấy làm hãnh diện, về chủ trương đòi vạch ra một con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa cộng sản, Mác mỉa mai…
Mỗi một tương quan kinh tế đều có khía cạnh tốt và khía cạnh xấu: đó là điều duy nhất Proudhon không phủ nhận. Khía cạnh tốt, ông thấy do những nhà kinh tế trình bày và khía cạnh xấu, do những người theo xã hội chủ nghĩa tố cáo. Ông mượn ở các nhà kinh tế sự cần thiết có những tương quan vĩnh cửu, ông mượn ở các người theo xã hội chủ nghĩa ảo ảnh chỉ nhìn thấy trong lầm than sự lầm than. Ông đồng ý với cả đôi bên bằng cách dựa vào uy tín của khoa học. Đối với ông, khoa học chỉ còn là một công thức với những tầm thường, tỷ lệ mỏng manh… Ông Proudhon khoe đã phê phán cả kinh tế học lẫn cộng sản là như thế đó: ông ở dưới cả hai. Ở dưới các nhà kinh tế vì với tư cách triết gia, có trong tay một công thức ảo thuật, ông đã tưởng rằng có thể cho phép mình không cần đi vào những chi tiết thuần túy kinh tế; ở dưới các nhà xã hội chủ nghĩa, vì ông không đủ can đảm, cũng không đủ hiểu biết để vươn tới, dù chỉ bằng lý thuyết suông, và vượt khỏi nhãn giới trưởng giả.
Ông muốn là một tổng hợp, nhưng thực ra chỉ là một sai lầm hỗn hợp…
Ông muốn làm người khoa học đứng trên cả trưởng giả và vô sản. Ông chỉ là một người tiền tư sản, luôn luôn bập bềnh giữa Tư bản và Lao động, giữa kinh tế học và cộng sản[9].
Chú thích:
[1] sẽ đề cập trong chương III tập II: Phương pháp mác-xít.
[2] Thánh gia. Oeuvres 4. tập II. Trg. 119
[3] Thánh gia. Oeuvres 4. tập II. Trg. 140
[4] Thánh gia. Oeuvres 4. tập II. Trg. 184
[5] Tạp chí do nhóm Bruno Bauer chủ trương. Herzel là biên tập viên của tòa báo ở Zurich.
[6] Kinh cầu hồn bằng La ngữ hát lúc làm phép xác trong nghi lễ công giáo…
[7] Thánh gia. Tập III trg 122
[8] Misère de la Philosophie Ed. Sociales trang 83-84
[9] Misère de la Philosophie Ed. Sociales trang 16