Vụ công xã làm cho Mác trở thành một “quái vật” trước dư luận, nhất là trước dư luận phản động. Mác đứng đầu “Quốc tế cộng sản” một tổ chức âm mưu vĩ đại chống lại cả thế giới, là kẻ thù của nhân loại. Không làm gì được Mác, những kẻ thù phao tin đồn nhảm, xuyên tạc vu khống Mác. Họ bịa những truyền đơn tố cáo Mác là tay sai của Bismark, do đó Bismark mới là trùm thực sự của Quốc tế cộng sản và cũng chính Bismark đã gây ra vụ Công xã. Hoặc tung tin Mác làm giàu bằng cách thâm thụt quỹ của Quốc Tế thợ thuyền đóng góp, và sau cùng, một tờ báo khuynh hướng theo Bonaparte loan tin Mác đã chết. Khi viết thư cho người bạn, Mác đã nhắc tới thái độ đê tiện của những kẻ thù Mác: “họ dùng cái sai lầm như khí giới hiệu nghiệm nhất để chống đối “Quốc tế”; với những ngài lương thiện bảo vệ tôn giáo, trật tự, gia đình và tư hữu, tội xuyên tạc không phải là điều đáng trách”. “Tuy thất bại, công xã vẫn tác dụng sâu xa vào việc xác định đường lối mới của Quốc tế cộng sản”. Lần đầu tiên, phong trào thợ thuyền đứng lên tranh đấu cướp chính quyền, đánh dấu một khởi điểm mới, có tầm quan trọng lịch sử toàn diện như Mác đã nhận định. Trước Công xã, “Quốc tế” thường chỉ bận tâm về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi thợ thuyền như tranh đấu giảm giờ làm việc, tăng lương, nâng đỡ những thợ đình công, thất nghiệp. Sau Công xã, Quốc tế không thể giới hạn phạm vi hoạt động vào những tranh đấu chỉ có hậu quả chính trị một cách gián tiếp. Trái lại, Quốc tế phải trở thành một phong trào tranh đấu chính trị công khai, chính thức để cướp lấy chính quyền, hoặc có chân trong những guồng máy chính quyền vì tranh đấu chính trị là một lợi khí cần thiết giải phóng kinh tế, xã hội cho giai cấp công nhân. Căn cứ vào sự chuyển hướng mới, “Quốc tế” cũng cần tổ chức lại nội bộ nhằm xiết chặt hơn những liên hệ giữa các khu bộ, mà trước đây vẫn hoàn toàn được tự trị. Nhưng trong khi Quốc tế sửa soạn thực hiện những cải tổ, chỉnh đốn qui mô để có thể bành trướng mau lẹ khắp Âu châu như Mác và Engels ước mong, thì Quốc tế lại gặp những khó khăn đưa đến chỗ chia rẽ và tan vỡ. Hai nước đi tiền phong trong phong trào thợ thuyền Quốc tế là Pháp và Anh sau công xã, không còn phải là lực lượng nòng cốt của “Quốc tế” nữa. Thợ thuyền Pháp, nhất là thành phần lãnh đạo, bị tổn thất nặng nề trên chiến trường trong vụ công xã, hay chết lần mòn trong các nhà tù, trại giam. Còn thợ thuyền Anh trái ngược lại, bắt đầu bước vào một giai đoạn tương đối thoả mãn những nguyện vọng liên hệ trực tiếp đến nếp sống vật chất vì đà phát triển thịnh vượng của kỹ nghệ, do đó không cảm thấy cần thiết lao mình vào những tranh đấu chính trị quyết liệt, một đường lối mới do Quốc tế đề ra. Những nước thuận lợi hơn cả cho một cuộc vùng lên của thợ thuyền như Ý, Áo, Tây Ban Nha, thì phong trào công nhân lại chưa được tổ chức chặt chẽ. Nhưng khó khăn lớn lao hơn cả là những hoạt động của Bakounine. Trước nhu cầu “thống nhất lãnh đạo” tập trung quyền hành vào trung ương để thực hiện tranh đấu chính trị hiệu nghiệm, Bakounine cho rằng ảnh hưởng của mình sẽ bị suy yếu hay bị loại bỏ. Bakounine vận động khu bộ Thuỵ sĩ đứng dậy chống “khuynh hướng độc tài” của Hội đồng Trung Ương, gây sự nứt rạn chia rẽ trong khu bộ. Sau đó, Bakounine còn trách nhiệm gây ra một vụ án không những làm tổn thương nặng cho uy tín của “quốc tế” mà còn góp phần làm cho nó suy sụp. Bakounine quen biết với một thanh niên Nga tên là Netchaiev, một thứ lưu manh cách mạng đã bịa chuyện bị bắt giam và vượt ngục để được đề cao là anh hùng cách mạng trốn khỏi nước Nga. Netchaiev tự xưng là đại biểu của một tổ chức cách mạng bí mật Nga, có nhiệm vụ bắt liên lạc với các tổ chức cách mạng Nga lưu vong. Bakounine dù biết Netchaiev nói dối lường gạt nhưng vẫn tin dùng, và coi như một đồng chí lý tưởng có thể hướng vào âm mưu. Khủng bố bạo động rất hợp với tâm tính của Bakuonine và Netchaiev. Sau mấy tháng ở gần Bakounine để hấp thụ một căn bản lý thuyết cho những hoạt động cách mạng lưu manh: Mục đích biện chính mọi phương tiện, bất cứ cái gì gây được rối loạn, có lợi cho cách mạng đều tốt và được phép làm, chỉ có một lợi khí tranh đấu cách mạng là phá hoại, tiêu diệt, Netchaiev trở lại Nga với tư cách đại diện của “Ủy ban trung ương liên hiệp cách mạng” có chữ ký của Bakounine chứng nhận, để lập cơ sở, tìm đồng chí làm loạn. Một thanh niên xưng tên là Ivanov không tin những mánh khoé lừa bịp của Netchaiev và rút lui. Thế là Netchaiev quyết định kết án anh ta là “phản bội” và thủ tiêu anh ta một cách dã man. Hoạt động này bị báo chí phanh phui và tố cáo ầm lên, các người cách mạng Nga chân chính cũng tìm cách trừng trị Netchaiev nhưng tên này trốn ra ngoại quốc, được Bakounine, biết rõ mọi hoạt động của hắn ta, chẳng những không khiển trách mà còn ca tụng và cho hắn ta như người cách mạng lý tưởng. Mác được những người dân Nga, như Lopatine Outine cho biết tất cả sự thực về hành động của Bakounine, Netchaiev và cương quyết chống lại nhóm theo Bakounine vì những hành động của nhóm này có thể làm sụp đổ Quốc tế. Chỉ nguyên một vụ như vụ Netchaiev cũng đủ làm tiêu diệt uy tín của Quốc tế ở khắp Âu-Châu. Do đó Quốc tế không thể cho phép những phần tử lợi dụng danh nghĩa Quốc tế hành động theo những đường lối riêng biệt hoàn toàn trái ngược với tinh thần và mục tiêu của Quốc tế. Nhưng Mác lại gặp những khó khăn lủng củng chia rẽ trong nội bộ lãnh đạo. Ecurius, một người được Mác tín nghiệm và đề cử vào Hội đồng trung ương, vì túng thiếu, nên thường tiết lộ những tin tức, quyết định bí mật của Hội đồng cho báo chí ngoài đảng để kiếm tiền, làm cho hội đồng nghi kỵ, chia rẽ nhau. Rồi những thông cáo của nhóm theo Bakounine hội họp ở Sonvillers công khai đả kích Hội-đồng trung ương, được các báo hữu phái trích đăng gây xúc động nhiều trong giới lao động trước sự chia rẽ, nứt rạn của lãnh đạo. Nhóm Bakounine cũng yêu cầu Hội đồng trung ương triệu tập Hội nghị. Những chia rẽ, đối lập, tranh chấp lần lượt nổ ra về địa điểm hội nghị, về quyền cử đại diện ủy nhiệm, về quyền hạn của hội đồng trung ương, về việc rời trụ sở sang Nữu-Ước, và sau cùng về việc khai trừ những đảng viên lầm lỗi. Bakounine bị khai trừ, trụ sở rời sang Nữu Ước, tranh đấu chính trị là đường lối mới Quốc tế, đó là những điểm được đa số Hội nghị tán thành nhưng Quốc tế vẫn không tránh khỏi những chia rẽ, phân tán do những mâu thuẫn về quyền lợi, về tham vọng gây ảnh hưởng, muốn chỉ đạo giữa các lãnh tụ, các khu bộ. Hội đồng trung ương được thuyên chuyển sang Nữu-Ước theo đề nghị của Mác, vì ở đó, giai cấp công nhân đang thành hình và phát triển mau lẹ, đồng thời để tránh những áp lực của các khu bộ ở Âu châu: nhưng trái lại, Mác cũng không còn lãnh đạo, chi phối được Hội đồng trung ương. Một năm sau Hội đồng ở La Haye, Mác mới thấy “Quốc tế” càng ngày càng đi đến chỗ tan rã, phân tán và nhìn nhận đã tính toán sai lầm về việc chuyển trụ sở của Hội đồng Trung ương sang Mỹ trong khi “Quốc tế” hấp hối, và chưa có điểm gì báo hiệu cho phép hy vọng một phục hưng phong trào quốc tế thợ thuyền thì Mác cũng mắc bệnh nặng. Sau nhiều năm chật vật, vì cực khổ về đời sống gia đình, sau những khó nhọc mệt mỏi vì tranh đấu cho phong trào thợ thuyền, lãnh đạo, bảo vệ Quốc tế cộng sản, cộng với những cố gắng quá mức để hoàn thành bộ “Tư bản” Mác kiệt sức và đau gan, một bệnh kinh niên của Mác. Kể từ 1873, Mác không bao giờ lấy lại được sức khỏe để làm việc như trước. Tuy nhiên Mác không thể bỏ dở việc soạn thảo bộ Tư bản tập hai và tập ba. Lúc này, Mác cũng đặc biệt chú ý đến tình hình nước Nga. Mác học tiếng Nga để có thể nghiên cứu những tài liệu, thống kê liên quan đến vấn đề địa tô, chế độ nông nghiệp bên Nga; càng đi sâu vào những tài liệu trên, Mác càng thấy một cuộc cách mạng đánh đổ Nga hoàng sẽ làm bùng lại những cuộc cách mạng ở Âu-châu. Mác đã viết cho Sorge: “Tất cả những tầng lớp xã hội Nga đều đang phân hóa, tan rã về mọi phương diện, kinh tế, luân lý, trí thức, và lần này cách mạng sẽ khởi đầu từ phương Đông”. Khi cuộc chiến tranh Nga Thổ xảy ra, Mác hy vọng Thổ sẽ đánh bại được Nga hoàng và do đó tạo điều kiện thuận tiện cho cách mạng bùng nổ. Nhưng trái với sự tiên đoán mong đợi của Mác, Thổ bị thua, và chế độ chuyên chế Nga hoàng cũng chưa đến chỗ suy nhược như Mác đã nhận định. Tuy Quốc tế cộng sản không còn hoạt động, nhưng Mác vẫn giữ liên lạc với những bạn bè cũ, góp ý kiến, khuyến khích, nâng đỡ những sáng kiến Mác chấp thuận. Mùa hè 1881, gia đình Mác sang Pháp để thăm các con gái đã kết bạn với những người xã hội Pháp như G. Longuet, Paul Lafargue. Khi về Luân đôn, Bà Mác lâm bệnh và mất ngày 2-12-1881. Mác đã biết từ lâu không thể cứu sống được người bạn đường, tuy vậy Mác vẫn đau khổ nhiều vì cái chết của bà Mác. Mác cũng ốm liệt không thể dự đám tang vợ vì bị chứng sưng màng phổi. Từ đó Mác không còn làm được gì vì bị mất ngủ, yếu mệt. Ngày 11-1-1883 con gái lớn lấy G. Longguet đột nhiên chết ở Paris. Mác buồn ở lặng mấy ngày liền không nói một lời. Bệnh càng ngày càng trầm trọng. Mác mất ngày 14-3-1883 và ngày 17-3 được chôn cất ở nghĩa địa Highgate: Liebknecht đọc điếu văn, đại diện cho thợ Đức, Lafargue đại diện cho thợ Pháp, và Engels, đại diện cho thợ toàn thế giới. Mác chết đi không được nhìn thấy những cố gắng tranh đấu của Mác. 35 năm sau, nhờ Lénine, chủ nghĩa Mác mới thực sự tác dụng vào lịch sử thế giới và vẫn còn tiếp tục tác dụng vào lịch sử cho đến nay.