Dịch giả: Huy Tưởng
Chương 1
Người có trái tim trên miền cao nguyên

Khởi viết vào khoảng tháng tám năm 1935, sau chuyến đi Châu Âu lần đầu tiên, tôi cho đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn chương Hoa Kỳ. Truyện phóng khoáng, nhẹ nhàng, linh hoạt, độc lập, mới mẻ, dị thường mà chân thật, ngộ nghĩnh mà lịch duyệt. Nếu phải làm cái gì như một Thánh kinh của đời sống thế kỷ hai mươi – quy tụ những tuyệt phẩm của tất cả các nhà văn thế giới hiện đại – thì truyện này hẳn xứng đáng có một chỗ trong tuyển tập đó. Đặc biệt, tôi tiến dẫn truyện này cho những nhà văn chưa xuất bả hoặc đã xuất bản quá nhiều, vì tôi tin, nó sẽ cho nhà văn chưa hề xuất bản thấy rằng phải bắt đầu ra sao, và nhà văn xuất bản quá nhiều rằng chính loại văn giản dị nhất sẽ là những gì tuyệt hảo và chân chính nhất. Ba mươi ba năm sau khi truyện được viết ra, tôi thấy lẽ ra tôi không nên viết nó, mặc dầu nếu có một người nào đó viết thì tôi hài lòng hơn. Truyện đáng được viết, nó sẽ tồn tại và sống đời riêng biệt.
 
Năm 1914, khi ấy tôi chưa đầy sáu tuổi, có một ông già đi dọc xuống đại lộ San Benito, thổi một khúc độc tấu bằng kèn và dừng lại trước cửa nhà chúng tôi. Tôi chạy ngay ra ngoài sân, đứng chờ bên bờ giếng, đợi xem ông thổi lại lần nữa, nhưng không. Tôi nói, Cháu thích nghe bác thổi một bản nữa quá, và ông già nói, Này cậu bé, cậu có thể rót một ly nước cho một ông già mà trái tim không ở đây, nhưng ở tận miền cao nguyên, được chứ?
Tôi nói, Cao nguyên nào?
Ông già nói, Cao nguyên Scotch, rõ chưa?
Tôi nói, Thế trái tim bác đang làm gì nơi miền cao nguyên Scotch?
Ông già nói, Trái tim ta đang đau khổ ở đó. Cháu rót cho ta một ly nước lạnh được không?
Tôi hỏi, Chứ má của bác ở đâu?
Ông già nói, Bà cụ của ta ở Tulsa, Oklahoma, nhưng trái tim bà thì không ở đó.
Tôi hỏi, Thế tim bà cụ ở đâu?
Ông già nói, Ở miền cao nguyên Scotch luôn. Này cậu bé, ta khát quá.
Tôi nói, Làm sao mà các người trong gia đình bác lại cứ để trái tim nơi miền cao nguyên hoài vậy?
Ông già nói, Chúng tôi vậy đấy. Hôm nay ở đây rồi mai lại biến.
Tôi thắc mắc hỏi, Hôm nay ở đây rồi mai lại biến. Bác nói vậy là sao?
Ông già nói, Rày đây mai đó. Sống giây phút này rồi chết giây phút sau.
Tôi hỏi tiếp, Thế má-của-má bác ở đâu?
Ông già nói, Ở trên Vermont, một tỉnh nhỏ gọi là White River, nhưng trái tim của cụ thì không ở nơi đó.
Tôi nói, Thế trái tim già nua khô héo của cụ cũng ở nơi miền cao nguyên chứ?
Ông già nói, Ngay nơi miền cao nguyên. Này con, ta chết khát mất.
Bố tôi bước ra ngoài hiên và gầm lên như một con sư tử vừa bừng thức dậy khỏi những giấc mơ dữ dội.
Johnny, ông rống lên, Tránh xa cái lão già dịch đó. Múc cho lão một vại nước trước khi lão sụp chết. Tư cách của mày để đâu rồi hả?
Tôi nói, Thế đôi khi người ta không thể thử khám phá ra một cái gì nơi một kẻ tứ chiếng giang hồ sao, bố?
Bố tôi nói, Lấy ngay cho ông cụ chút nước. Mẹ kiếp, đừng có đứng ngay đơ ra như thằng phỗng. Lấy nước cho ông ta uống kẻo ông ta té xỉu xuống bây giờ.
Tôi nói, Bố lấy đi. Bố chả làm gì cả.
Không làm gì à? Bố tôi nói. Sao, mẹ kiếp mày thằng Johnny, mày thừa biết là tao đang soạn một bài thơ trong óc chứ?
Tôi nói, Sao bố lại nghĩ là con phải biết chứ? Bố chỉ đứng ì trên hiên nhà, tay áo xắn lên. Sao bố lại cho là con đã biết?
Bố tôi nói, À, thì mày phải biết, thế thôi.
Chào bác, ông già nói với bố tôi. Thằng con bác vừa cho tôi biết khí hậu ở đây mới trong lành thơm thảo làm sao!
(Chúa ơi, tôi kêu hoảng lên trong đầu. Tôi chẳng hề nói gì với ông già về thời tiết cả. Chứ ổng nghe cái chuyện đó ở đâu ra vậy cà?)
Chào bác, bố tôi nói. Mời bác vào nghỉ một lát. Chúng tôi rất hân hạnh được mời bác cùng dùng chút cơm trưa.
Ông già nói, Thưa ngài, tôi sắp chết đói. Tôi xin vào ngay.
Tôi hỏi ông già, Bác có chơi được bản "Chỉ uống mừng ta bằng đôi mắt em" được không? Cháu thích nghe bác thổi bài đó. Cháu khoái bài đó quá chừng. Có thể nói là cháu mê bài đó nhất thế gian.
Ông già nói, Này con, khi nào con bằng tuổi ta, con sẽ biết rằng bài ca chưa phải là cái gì quan trọng lắm đâu, chính cơm gạo mới là nhất hạng.
Tôi nói, Dù sao cháu cũng thích nghe bác thổi bài đó lắm.
Ông già bước lên hiên nhà bắt tay bố tôi.
Ông già nói, Tôi tên là Jasper MacGregor. Tôi là diễn viên.
Bố tôi nói, Rất sung sướng  được quen biết bác. Johnny, lấy cho ông MacGregor một vại nước.
Tôi đi vòng đến giếng, múc một ít nước lạnh vào cái vại và đem đến cho ông già. Ông tu một hơi dài hết sạch. Bắt đầu tươi tỉnh để thong thả nhìn quanh phong cảnh, nhìn trời, nhìn đại lộ San Benito dưới ráng chiều sắp tắt.
Ông nói, Tính ra là tôi xa nhà có đến năm ngàn dặm. Bác có nghĩ rằng chúng ta nên ăn một chút bánh mì và phó mát để tôi có thể cầm cự tạm sống được không?
Bố tôi nói, Johnny, chạy ngay ra tiệm lấy một ổ bánh mì Pháp và một cân phó mát.
Tôi nói, Bô đưa tiền đây.
Bố tôi nói, bảo ông Kosak cho mình nợ đi vậy. Bố chẳng còn một xu dính túi.
Tôi nói, Ông ta không cho mình nợ đâu. Ông Kosak chán cho mình nợ lắm rồi. Ông ta phiền mình lắm. Ông ấy bảo mình không chịu làm việc và cũng chẳng  bao giờ chịu trả nợ. Nhà mình còn nợ ông ấy bốn mươi xu.
Bố tôi nói, Đi ngay xuống tiệm và nói sao cho ra lẽ với ông ấy. Mày biết đó là việc của mày mà.
Tôi nói, Ông Kosak chẳng chịu nghe lý lẽ gì đâu. Ổng nói ổng chả cần biết quái gì cả, ổng chỉ muốn bốn mươi xu thôi.
Bố tôi nói, Xuống tiệm đi và làm sao để ông ấy đưa cho mày một ổ bánh mì và một cân phó mát. Mày làm được chuyện đó mà, Johnny.
Ông già nói theo, Đi xuống tiệm và bảo ông Kosak đưa cho mày ổ bánh cùng phó mát, đi con.
Bố tôi nói, Đi đi Johnny. Mày chưa từng bao giờ rời khỏi tiệm mà không có được thực phẩm, để coi, chỉ mười phút nữa là mày sẽ trở về đây với đầy đủ thức ăn cho một ông vua.
Tôi nói, con không biết đâu. Ông Kosak bảo mình muốn chơi trò đuổi bắt với ông ấy. Ông ta muốn biết bố đang làm những thứ việc gì.
Bố tôi nói, Ờ, cứ đến bảo với ông ấy, bố chả giấu làm gì, bố là nhà thơ. Bảo với ông Kosak là bố tôi làm thơ tối ngày.
Tôi nói, Thì cũng tạm được, nhưng con không tin là ông ta sẽ cảm kích gì lắm đâu. Ông ấy nói bố không bao giờ chịu đi tìm việc như những người thất nghiệp khác. Ông ấy nói bố lười và không tốt.
Bố tôi nói, Cứ đi xuống tiệm và bảo với lão ấy là lão điên rồi Johnny ạ. Mày đi xuống tiệm và nói thẳng với thẳng chả rằng bố mày là một trong những thi sĩ vô danh vĩ đại nhất hiện tại thế.
Tôi nói, Có thể ông ấy sẽ không thèm để ý, nhưng con sẽ đi. Con sẽ cố hết sức. Mình chẳng còn gì trong nhà cả sao, bố?
Bố tôi nói, Chỉ có bắp rang. Mình ăn toàn bắp rang đã bốn bữa liên tiếp rồi Johnny ạ. Mày phải mua bánh mì và phó mát nếu như mày muốn bố làm xong bài thơ tầm cỡ này.
Tôi nói, con sẽ cố hết sức.
Ông MacGregor nói, Đừng có lâu quá, nghe con. Ta xa nhà đến năm ngàn dặm.
Tôi nói, Cháu sẽ chạy một mạch.
Bố tôi nói, Nếu dọc đường mày có kiếm được chút tiền còm nào, nhớ là chia đôi đấy nhé con.
Tôi nói, Được thôi.
Lấy hết sức, chạy một hơi đến tiệm ông Kosak, nhưng tôi chẳng kiếm được tí tiền nào dọc đường, không lấy một xu.
Tôi vào tiệm và ông Kosak mở tròn mắt ra ngó.
Tôi nói, Ông Kosak ơi, nếu như ông ở Trung Hoa và chẳng có lấy một người thân thuộc, tiền nong cũng nhẵn láng, hẳn ông sẽ mong một người đạo Thiên Chúa nào đó cho ông một cân gạo, phải không nào?
Ông Kosak nói, Ái chà chà, nói thiệt đi con, chứ mày muốn gì nào?
Tôi nói, Cháu chỉ muốn nói chuyện một chút thôi mà. Ông hẳn mong một người giống Arya giúp đỡ chút đỉnh qua cơn thắt ngặt, phải không ông Kosak?
Ông Kosak nói, Mày có bao nhiêu tiền?
Tôi nói, Không phải là vấn đề tiền nong ông Kosak ạ. Cháu đang nói chuyện ở Trung Hoa và cần sự giúp đỡ của người da trắng.
Ông Kosak nói, Tao cóc biết quái gì hết.
Tôi nói, Ở Trung Hoa làm sao mà ông nghĩ vậy được?
Ông Kosak nói, Tao đã nói là tao không biết. Tao làm cái quái gì ở Trung Hoa cơ chứ?
Tôi nói, Ồ, giả sử như ông đi du lịch bên đó, và chẳng may bị đói, thân cô thế cô nơi đất khách. Hẳn là ông không mong một người lương thiện nào đó đuổi ông đi mà không tặng kèm theo cho ông một cân gạo, phải không nào?
Ông Kosak nói, Tao không mong vậy, nhưng mình có ở Trung Hoa đâu Johnny, cả  bố mày cũng vậy. Tao không bán chịu thực phẩm cho mày nữa đâu vì tao thừa biết mày sẽ không có tiền để trả.
Tôi nói, Ông Kosak ạ, ông hiểu lầm cháu mất. Cháu có nói gì về thực phẩm đâu. Cháu chỉ nói về những người ngoại đạo chung quanh ông ở Trung Hoa và ông thì đói sắp đi đoong.
Ông Kosak nói, Đây không phải là Trung Hoa. Ở cái xứ này thì phải ra khỏi nhà mà kiếm ăn, ai cũng làm việc.
Tôi nói, Ông Kosak, giả sử như ông cần một ổ bánh Pháp và một cân phó mát để ông còn sống được trên đời, ông có ngần ng.ai phải xin một nhà truyền  giáo những thứ đó không?
Ông Kosak nói, Ngần ngại lắm chứ. Tao hẳn sẽ ngượng tím mặt đi mất, đâu có dám.
Tôi nói, Mặc dù ông biết là ông sẽ trả lại cho họ hai ổ bánh Pháp và hai cân phó mát, đúng không?
Ông Kosak nói, Đúng, mặc dù vậy.
Tôi nói, Đừng như vậy ông Kosak ạ. Đó là nói theo kiểu tiêu cực và ông cũng biết vậy. Thế là ông chỉ còn có cái chết, ông sẽ qua đời ở Trung Hoa xa hút đó mất, ông Kosak ơi.
Ông Kosak nói, Có chết tao cũng cóc cần, mày và bố mày phải trả tiền bánh và phó mát. Sao bố mày không đi kiếm lấy một việc làm?
Tôi nói, Ông Kosak, thế ông có được mạnh khoẻ không?
Ông Kosak nói, Mạnh, Johnny ạ. Thế mày thì sao?
Tôi nói, Nhất rồi, ông Kosak ạ. Còn mấy đứa nhỏ ra sao rồi?
Mạnh khoẻ cả. Ông Kosak nói, Thằng bé Stepan bắt đầu chập chững đi rồi đấy.
Tôi nói, Ghê quá nhỉ, còn Angela thì sao?
Angela đang bắt đầu tập hát. Ông Kosak nói, Còn bà của mày sao rồi?
Bà cháu thấy khoẻ lắm. Tôi nói, Bà cũng bắt đầu hát. Bà cho rằng thà làm một tài tử nhạc kịch còn hơn là làm một hoàng hậu. Thế bác gái Marta, vợ yêu của bác, cũng mạnh giỏi cả chứ?
Ồ, mạnh lắm. Ông Kosak nói.
Tôi nói, Cháu không sao nói cho hết niềm vui sướng của mình khi được  biết trong nhà bác ai nấy đều mạnh khoẻ cả. Cháu tin, một ngày kia Stepan sẽ trở thành một nhân vật có tầm cỡ.
Ông Kosak nói, Tao cũng mong như vậy. Tao sẽ cho nó học một mạch đến hết ban trung học và lo cho nó hết thảy mọi dịp may mà đời tao không có được. Tao không muốn nó mở tiệm tạp hoá chút nào.
Tôi nói, Cháu tin nơi Stepan lắm.
Ông Kosak nói, Mày muốn những gì hở Johnny? Thế mày có bao nhiêu tiền?
Tôi nói, Ông Kosak ạ, ông thừa biết là cháu đến đây đâu có để mua gì đâu. Ông quá rõ là cháu thích thith nói vài chuyện triết lý êm ả với ông. Ông cho cháu một ổ bánh Pháp và một cân phó mát.
Ông Kosak nói, Mày phải trả tiền mặt đó Johnny ạ.
Tôi nói, thế còn Esther, cô con gái xinh đẹp của ông có mạnh không?
Ông Kosak nói, Esther mạnh lắm Johnny ạ, nhưng mày phải trả bằng hiện kim thôi. Mày và  bố mày là những công dân ẹ nhất nước.
Tôi nói, Esther mạnh là  cháu mãn nguyện rồi. Nhà nghệ sĩ Jasper MacGregor đang ở chơi nhà cháu, ông ta là một diễn viên vĩ đại.
Ông Kosak nói, tao chưa từng nghe danh tánh ông ấy.
Và một chai bia cho ông MacGregor, tôi nói.
Ông Kosak nói, Tao không thể cho mày thêm một chai bia nữa đâu.
Tôi nói, Chắc chắn là ông cho được.
Ông nói, không thể. Tao chỉ cho mày lấy một ổ bánh mì cũ và một cân phó mát, chỉ vậy thôi. Thế khi bố mày làm việc thì ông ấy làm những gì?
Tôi nói, bố cháu làm thơ, ông Kosak ạ. Đó là công việc duy nhất của bố cháu. Bố cháu là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế giới.
Ông Kosak nói, Thế khi nào lão ấy kiếm ra tiền?
Tôi nói, bố cháu chả bao giờ kiếm được tiền. Chúng ta không thể cùng lúc vừa có cái này vừa có cái kia được.
Ông Kosak nói, Tao chẳng ưa thích gì cái việc đó, Johnny ạ, sao bố mày không làm việc như những người khác?
Tôi nói, Bố cháu làm việc chăm hơn bất cứ ai. Bố cháu làm việc gấp đôi người thường.
Ông Kosak nói, Thế là mày nợ tao thêm mười lăm xu nữa đấy, Johnny nhé. Lần này tao cho mày lấy ít đồ, nhưng đủ rồi đấy nhé con, đừng hòng.
Tôi nói với lại, Bảo với Esther là cháu quý nó lắm.
Được rồi, ông Kosak nói.
Tôi nói, Cháu về ông Kosak ơi.
Ông Kosak nói, Ờ thôi về đi Johnny.
Tôi chạy về nhà với ổ bánh mì Pháp và cân phó mát.
Bố tôi và ông MacGregor đứng tràn ra ngoài đường đợi xem tôi có trở về với thức ăn hay không. Họ chạy nửa dãy phố về phía tôi, và khi thấy đã có thức ăn, họ an nhàn quay về, bà tôi cũng đang đợi. Bà chạy vào nhà và dọn bàn ra.
Bố tôi nói, Tao biết mày sẽ được việc mà.
Tôi cũng tin vậy, ông MacGregor phụ hoạ.
Tôi nói, Ông ấy nói mình phải trả năm mươi xu. Ổng sẽ không bán chịu nữa đâu.
Bố tôi nói, Đó là một ý kiến. Thế mày nói những gì vậy Johnny?
Tôi nói, Trước hết về một cái đói sắp chết ở tận xứ Trung Hoa, sau đó con hỏi thăm cả gia đình.
Bố tôi hỏi, Thế mọi người mạnh cả chứ?
Tôi nói, Mạnh cả.
Vậy là tất cả chúng tôi quây quần trong nhà, ăn ngon lành ổ bánh và cân phó mát, mỗi người uống hai hay ba lít nước, và sau khi không còn gì cả, ông MacGregor lại nhìn quanh nhà bếp xem có còn gì ăn được không.
Ông hỏi, Cái hộp sắt xanh trên kia. Có gì trong đó vậy Johnny.
Tôi nói, Bi.
Ông hỏi tiếp, Cái chậu kia nữa. Có gì lót lòng được không?
Tôi nói. Dế.
Ông nói. Còn cái chum lớn bên góc đó. Có cái gì ngon lành trong đó không?
Tôi nói, Cháu nuôi một con rắn.
Ông MacGregor nói, Được quá! Cho ta một miếng rắn luộc đi, thế là xịn rồi còn gì.
Tôi nói, Ối! Làm sao mà bác ăn rắn đó được.
Ông MacGregor nói, Johnny, tại sao lại không chứ? Tại sao không mới được? Ta nghe nói dân Bornéo và các xứ khác xực tuốt tuột cả rắn lẫn cào cào. Chứ cháu không có đây đến cả chục con cào cào mập ú đấy sao, Johnny?
Tôi nói, Có mỗi bốn con thôi mà.
Ông MacGregor nói, Được rồi, đem ra đây coi Johnny. Khi nào no nê khoẻ khoắn, ta sẽ chơi thật tuyệt để tặng cho cháu bản "Chỉ uống mừng ta bằng đôi mắt em". Ta đói khiếp lắm, cháu Johnny ạ.
Tôi nói, Cháu cũng vậy, nhưng bác không được giết con rắn đó đâu nhé.
Bố tôi ngồi nơi bàn, tay ôm đầu mơ mộng. Bà tôi lệt bệt đi ngang, nghễnh ngãng hát một điệu nhạc quen, có lúc rống tướng lên bằng một thứ tiếng Ý lơ lớ, Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì ai…
Bố tôi nói, Chơi chút nhạc được chứ? thằng nhỏ chắc chịu lắm.
Tôi nói, Cháu thích lắm ông MacGregor ạ.
Ông MacGregor nói, Được thôi mà, Johnny.
Rồi ông đứng lên và bắt đầu thổi kèn, ông thổi to hơn bất cứ một nhạc công nào, khiến cho những người chung quanh xa hàng dặm cũng nghe được và cảm thấy hứng khởi một cách lạ thường. Có tất cả mười tám người hàng xóm tụ tập trước nhà chúng tôi, và vỗ tay hoan hô dậy một góc trời khi MacGregor thổi xong một khúc độc tấu.
Bố tôi dẫn ông MacGregor ra trước hiên, và nói, Xin chào bà con, tôi muốn bà con được tận mắt trông thấy Jasper MacGregor, một diễn viên kịch Shakespeare vĩ đại nhất thời nay.
Mấy người láng giềng chân  chất và lương thiện chả nói gì cả, chỉ ông MacGregor nói, Tôi nhớ như in lần đầu tiên xuất hiện ở Luân Đôn vào năm 1867, vậy mà như thể mới hôm qua đây, đúng là bóng câu qua cửa sổ. Và ông tiếp tục ba hoa về nghiệp dĩ  của mình, thao thao bất tuyệt.
Bác thợ mộc Rufe Apley rụt rè nói, Thổi thêm cho vài bản nữa được không, ông MacGregor?
Ông MacGregor nói, Nhà chú còn quả trứng nào không?
Rufe nói, Có chứ. Có cả một chục cơ.
Ông MacGregor nói, Thế chú về lấy một quả thôi, có gì bất tiện không nhỉ? Khi chú trở lại, ta sẽ thổi một bản làm tim chú muốn nhảy lên vì hân hoan lẫn buồn đau.
Rufy hăng hái nói, Tôi đi lấy ngay.
Ông MacGregor hỏi Tom Baker xem nhà anh ta còn chút xúc xích nào không, Tom nói còn, và ông MacGregor hỏi Tom có thấy tiện về nhà lấy một chút xúc xích đem qua đây không, và khi anh ta trở lại tasẽ thổi một bài ca mà chắc chắn sẽ khiến thay đổi cả lịch sử đời anh, Tom ạ. Và Tom về nhà lấy xúc xích. Ông  MacGregor tiếp tục hỏi từng người trong bọn họ, xem nhà ai còn những gì ăn ngon không, mọi người đều nói có, và cùng về nhà lấy những gì nho nhỏ mà ngon miệng, để chỉ đợi nghe bản nhạc mà theo như ông MacGregor nói là sẽ tuyệt vời hết ý.
Và khi tất cả những bạn láng giềng tốt  bụng trở lại nhà chúng tôi với những gì nho nhỏ mà ngon miệng đó, ông MacGregor bắt đầu nâng kèn lên môi, trau chuốt thổi bài "Trái tim tôi ở tận miền cao, nào có ở đây" đã khiến cho những người láng giềng hiền hoà đa cảm đó khóc, khóc lặng lẽ trên đường về nhà.
Ông MacGregor đem tất cả các đồ ăn ngon vào nhà bếp, và chúng tôi lại ăn uống vui vẻ, phè phỡn: một quả trứng, một xúc xích, một tá hành, hai loại phó mát, bơ, bánh, cà chua, dưa hấu, trà và nhiều món ngon khác.
Chúng tôi chè chén no nê, bụng căng phình, và ông MacGregor nói với cha tôi, Thưa ngài kính mến, nếu ngài không cảm thấy phiền, bỉ nhân xin được tá túc lại nhà ngài trong vài hôm tới đây.
Cha tôi cung kính nói, Thưa ngài, xin ngài cứ tự nhiên lưu lại tệ xá, nhà là nhà chung của chúng ta mà.
Và ông MacGregor ở lại nhà chúng tôi mười bảy ngày đêm tất cả.
Vào buổi chiều thứ mười tám, một người từ Viện Dưỡng Lão đến nhà chúng tôi, và nói, Tôi muốn tìm cụ Jasper MacGregor, một diễn viên.
Bố tôi hỏi, Ông muốn gì nào?
Người thanh niên nói, Tôi là người của Viện Dưỡng Lão, và muốn đưa ông MacGregor trở lại viện, trong hai tuần nữa chúng tôi sẽ tổ chức cuộc trình diễn thường niên, và chúng tôi cần một diễn viên.
Thế là ông MacGregor ngồi bật dậy và đi mất với người thanh niên kia.
Chiều hôm sau, đói trở lại.
Và bố tôi nói, Johnny, xuống tiệm ông Kosak kiếm chác chút gì ăn coi. Bố biết mày thừa sức xoay sở. Lấy bất cứ gì cũng được.
Tôi nói, Ông Kosak muốn năm mươi lăm xu. Ông ấy chẳng cho không nữa đâu.
Bố tôi nói, Đi đi Johnny. Mày biết mày có tài làm cho nhà quý phái ấy cho mình chút gì lót bụng mà.
Thế là, tôi lục tục đến tiệm ông Kosak và bàn tiếp các vấn đề Trung Hoa còn bỏ dở, và tôi vất vả lắm mới rời tiệm với một hộp kê và nửa lon si rô, dù sao thì tôi cũng đã hoàn thành nhiệm vụ.
Bố tôi nói, Johnny ơi, đồ ăn kiểu này sẽ nguy hiểm cho bà cụ lắm.
Nhưng sáng hôm sau chúng tôi nghe bà tôi ca hát, giọng đẹp như một con kim tước.
Và bố tôi làu bàu trong miệng, Làm thế quái nào mà viết cho được bài thơ vĩ đại về kê cơ chứ?