Hồi chuông đường đột trên chiếc máy màu đỏ đã lôi Powell ra khỏi trạng thái mơ ngủ vừa thấp thỏm, vừa bồn chồn. Ông vồ lấy ống nghe, trước lúc hồi chuông thứ hai kịp ngân lên. Mấy nhân viên đang có mặt trong phòng lập tức bắt tay vào việc “dò tìm”, nghĩa là dùng máy dò số, để xác định hồi chuông ấy từ đâu gọi về và chuẩn bị ghi âm lại cuộc đàm thoại. Để tâm trí vào hai tai, Powell chỉ còn nhận thấy lờ mờ bóng họ đi lại tất bật trong căn phòng còn tranh tối tranh sáng, lúc mặt trời còn chưa lên hẳn. Ông hít một hơi thở rõ dài, rồi đĩnh đạc nói: 493 – 7289 đây. Giọng nói ở đầu dây đằng kia, bị cố làm cho lạc tiếng đi, khẽ vọng đến bên tai Powell, khiến ông có cảm tưởng như người đó hẳn đang từ cõi xa xăm nào đó gọi về… Thần Ưng đây. Powell bắt đầu cuộc trò chuyện đã được chuẩn bị hết sức chu đáo từ mấy hôm nay: Thần Ưng, tôi nhận ra giọng anh. Trước tiên, anh hẵng nghe tôi nói đã. Nghe cho kỹ đấy. Địch đã cho người lọt vào Cục chúng ta. Hắn là ai, chúng tôi chưa biết đích xác, nhưng chúng tôi hoàn toàn tin chắc là anh chẳng hề dính dáng một mảy may nào tới kẻ đó – Powell nhận được ngay những lời phản đối của người ở đầu máy đằng kia, nhưng ông lập tức nói át đi. – Anh đừng phí thời giờ thanh mình về sự vô tội của anh, Thần Ưng ạ. Chúng tôi chỉ coi đó là giả thuyết để làm việc thôi mà. Hơn nữa, anh hoàn toàn vô can. Bây giờ thì anh nói đi – tại sao anh bắn Wazerby, khi ông ta đưa người kia đến đón anh? Giọng Thần Ưng pha chút ngạc nhiên: Ơ kìa, thế Chim Sẻ không kể lại à? Chính hắn, chính tên Wazerby đó, đã bắn tôi trước! Chính hắn là kẻ đã ngồi trong chiếc ô tô đỗ cạnh trụ sở “Hội” hôm sáng thứ Năm. Hắn lại dùng cũng chính chiếc xe ấy để đón tôi đấy. Chim Sẻ bị giết rồi. Anh ấy bị hạ sát ngay tại chỗ, tại chính cái con hẻm đó. Tôi không… Chúng tôi biết. Chúng tôi biết chắc là Wazerby đã bắn ông ấy. Hơn nữa, chúng tôi cũng biết ít nhiều về anh và cô bạn của anh. – Powell ngừng một lát, để người nghe hiểu rõ những điều vừa nghe. – chúng tôi có dò được dấu vết của anh và đã đến được tận căn phòng cô bạn nọ. Chúng tôi cũng đã thấy tận mắt cái xác chết nằm tại đó. Anh giết hắn, phải không Thần Ưng? Chính hắn đã ra tay trước. Suýt nữa thì cả hai chúng tôi đã đi đời. Anh có bị thương tích gì không? Không. Hiện giờ, tôi chỉ thấy hơi mệt trong người, và hơi chóng mặt. Anh hiện không bị ai rình rập đấy chứ? Có lẽ thế. Ít ra là trong lúc này. Powell đang trong trạng thái cực kỳ căng thẳng. Ông chồm hẳn người về phía trước, chuẩn bị nêu ra một câu hỏi mà ông có cảm tưởng sẽ chẳng ăn thua mấy, nhưng lại rất đỗi quan trọng đối với toàn bộ công việc đang mưu tính: Anh có hình dung được chút đỉnh gì về nguyên do của cuộc tiến công khủng khiếp vào tiểu ban của anh không? Có. Bàn tay ướt nhoét mồ hôi vì căng thẳng của Powell càng giữ chặt thêm cái ống nghe, trong suốt thời gian Malcolm vội vã thuật lại với ông về chuyện mất sách và chuyện nhập nhằng về hoá đơn cùng sổ sách tài vụ, mà Heidegger đã phát giác được. Khi Malcolm ngừng nói, Powell kinh ngạc hỏi thêm: Hoá ra anh không hiểu tí nào về nội vụ à? Hoàn toàn không. Thôi được, ta sang chuyện khác. Anh có định tìm cách đưa tôi về nơi an toàn không đấy? Powell hiểu là đã đến lúc phải tiến thêm bước nữa, bước quyết định. Anh biết đây, ở đây có một chút mắc míu nhỏ. Không phải chúng tôi không thực sự muốn cho anh sớm thoát nạn đâu, Thần Ưng ạ. Vấn đề là ở chỗ: lúc này, kẽ đang nói chuyện với anh đây không phải là chỉ huy trưởng bộ phận “Báo động”. Malcolm thấy bụng nôn nao, mặc dù anh đang ở cách xa Tổng hành dinh những năm dặm đường, tại một trạm điện thoại công cộng, kế bên khách sạn Holiday Inn. Anh chưa kịp đáp gì, thì Powell đã nói tiếp: Lúc này, tôi chưa thể đi sâu vào các chi tiết. Tuy thế, mong anh hãy tin chúng tôi. Vì kẻ thù đã len lỏi được vào Cục và theo chúng tôi hình dung, mức độ rất trầm trọng, nên chúng tôi quyết định phải tự đứng ra điều tra. Chúng tôi đã lắp đặt một thiết bị đặc biệt vào đường dây điện thoại “Báo động”, để nhờ đó, bắt liên lạc với anh. Khoan hẵng bỏ máy xuống, Thần Ưng nhé! Chúng tôi phải tìm cho ra kẻ “hai mặt” đó trong Cục, để làm sáng tỏ thực chất mọi chuyện. Anh chính là niềm hy vọng duy nhất của chúng tôi đấy. Vì thế, chúng tôi mong anh giúp chúng tôi phanh phui vụ này. Anh chẳng còn lối thoát nào nữa đâu, Thần Ưng ạ. Quỷ quái ở đâu ra thế này! Có thể là anh thực sự làm việc ở một Cục khác, nhưng cũng có thể là không, ai biết được? Nếu đã vậy, thì tôi còn biết giúp gì cho các anh đây? Đó hoàn toàn không phải là việc của tôi. Lâu nay, tôi chỉ toàn ngồi đọc truyện trinh thám thôi, chứ chẳng nhúng tay vào những trò quỷ quái ấy bao giờ. Thần Ưng, anh nên nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra với anh, - giọng Powell trở nên lạnh lùng. – Anh chả gặp may mãi được đâu, Malcolm ạ. Ngoài chúng tôi ra, anh còn đang bị những kẻ khác sừng sỏ hơn và năng nổ hơn săn lùng nữa. Anh nói đúng: việc này quả không liên quan gì đến anh thật. Có điều anh hãy nhớ là đến một lúc đẹp trời nào đó, kẻ đáng sợ ấy nhất định sẽ chộp được anh. Nếu không có chúng tôi giúp, thì bây giờ anh chỉ còn trông mong vào một khả năng để sống sót thôi, Thần Ưng ạ; ai đó trong đám nhân viên an ninh trung thực sẽ tìm được anh trước kẻ kia. Sự tình bây giờ là thế này: nếu chúng tôi là nhân viên an ninh thực thụ, chỉ muốn điều tốt cho anh, thì mọi chuyện cố nhiên là êm thắm rồi. Còn như chúng tôi chỉ là những kẻ trá hình, thì ít ra anh cũng biết trước là chúng tôi muốn gì ở anh. Đằng nào thì thế vẫn tốt hơn là nhắm mắt làm liều. Hơn nữa, hễ không thích, thì bất cứ lúc nào anh cũng có thể bỏ ngoài tai những lời chỉ dẫn của chúng tôi kia mà. Và đây là lý lẽ cuối cùng, có ý nghĩa quyết định. Chúng tôi đang giám sát đường dây liên lạc giữa anh với Cục, tôi muốn nói đến đường dây của bộ phận chỉ huy “Báo động” ấy. Ngoài ra, một nhân viên của chúng tôi đang thường xuyên nghe trộm các tuyến liên lạc điện thoại thông thường của Cục nữa (của đáng tội, điểm này Powell có hơi phóng đại). Cho nên, khả năng duy nhất để trở về bình yên là anh tự vác xác đến Langley. Tôi tin chắc anh không dại gì mà làm chuyện đó, nghĩa là cứ đơn phương độc mã quay về Tổng hành dinh. Đúng không nào? Powell ngừng một lát, nhưng không chờ trả lời, ông đã tiếp luôn: Tôi hỏi thế thôi,, chứ tôi biết mười mươi, anh sẽ trả lời ra sao rồi. Việc tôi đề nghị không nguy hiểm gì cho anh lắm đâu. Trên đại thể, tôi chỉ muốn anh cứ tiếp tục ẩn náu, để khiến kẻ thù của chúng ta phải “mất ăn mất ngủ”, nghĩa là làm cho chúng phải gấp gáp xuất đầu lộ diện. Bây giờ, ta hẵng cứ tạm bằng lòng như thế đã, vì đến hôm nay, ta chỉ biết có vậy thôi. Powell vắn tắt thuật lại cho Malcolm hết thảy những thông tin nhóm ông thu thập được. Lúc ông kể xong, viên cộng sự chịu trách nhiệm dò số máy, vội vã đến bên ông, im lặng nhún vai ra cách bảo: “chưa dò ra”. Sửng sốt, Powell lại tiếp: Thực ra, còn một cách nữa để chúng ta liên lạc với nhau. Anh biết nguyên tắc làm việc của mật mã số, truyền qua một ấn bản nào đó, rồi chứ gì? Không rành lắm… Tốt hơn hết là anh cứ nhắc lại cho lần nữa. Được thôi. Trước tiên, anh hãy tìm mua quyển “Bí mật của phái đẹp” bìa giấy. Quyển này chỉ xuất bản có một lần. Như thế, anh sẽ đỡ gặp chuyện lôi thôi khi giải mã. Nhớ rồi chứ? Tuyệt. Tôi cắt nghĩa tiếp đây. Bao giờ chúng tôi cần liên lạc với anh, chúng tôi sẽ đăng trên báo Washington Post ngay ở phần đầu, mục rao vặt với nhan đề “Những con số may mắn của đợt xổ số hôm nay”. Ở đó, anh sẽ thấy một dãy số in đậm. Số đầu tiên trong dãy đó chính là số trang của quyển Bí mật của phái đẹp. Số thứ hai – chỉ dòng chữ, tính từ trên xuống. Số thứ ba – chỉ chữ cần tìm. Nếu không tìm được một chữ nào thích hợp trong quyển sách nói trên, chúng tôi sẽ sử dụng một thứ mã cực kỳ đơn giản: mã “số-chữ cái”. Số 1 ứng với chữ A, số 2 – với chữ B, v.v… Khi giải mã, anh nhớ là trước cái chữ cần thông tin, bao giờ chúng tôi cũng đặt con số 13. Báo Washington Post sẽ chuyển đến cho chúng tôi bất cứ thông tin nào anh muốn gửi về. Để dễ nhận, trên phong bì, ngoài địa chỉ và họ tên của anh, anh nhớ ghi thêm: “Ban xổ số, hộp thư No1, Washington Post”. Anh hiểu cả rồi chứ? Hiểu rồi. Thế từ nay trở đi, tôi không nên sử dụng đường dây “Báo động” nữa chứ gì? Tôi nghĩ tốt nhất là nên thôi đi. Vì nguy hiểm lắm. Powell thấy viên cộng sự có nhiệm vụ dò số máy, ngồi ở góc phòng đằng kia, giận dữ thì thào một câu gì đó vào một ống nghe phụ. Powell hỏi tiếp Malcolm: Anh có cần gì nữa không? Không, tôi chẳng cần gì nữa đâu. Bay giờ, anh cứ nói rõ đi là tôi sẽ phải làm gì? Lát nữa, anh có gọi điện về Cục bận nữa được không? Nhưng lại sẽ nói dài như lần này nữa ư? Trái lại. Anh chỉ cần một vài phút là cùng. Được. Nhưng dù sao tôi cũng muốn chuyển sang máy khác đã. Mà như thế thì phải mất nửa tiếng nữa mới gọi lại được. Không sao. Anh cứ gọi về ban chỉ huy bộ phận “Báo động”. Chúng tôi chỉ nghe được câu chuyện của anh thôi, chứ không thể xen vào được đâu đấy. Anh cứ bảo với Mitchell thế này… Powell vắn tắt dặn Malcolm cần nói những gì. Khi cả hai đều đã nói hết những gì cần nói và cả hai đều rất hài lòng, vì đã hiểu rõ nhau, Powell liền tiếp: - Còn điểm này nữa. Anh hãy nói tên một khu trong Washington, mà hôm nay anh không định ghé đến đi nào. Malcolm ngẫm nghĩ một lát, rồi lên tiếng: Chevy – Chase. Tuyệt, - Powell đáp. – Đúng một tiếng nữa, tôi sẽ phao tin đi khắp nơi là có người đã bắt gặp anh tại khu Chevy-Chase. Rồi nửa tiếng sau, sẽ có tin là một cảnh sát thuộc đồn Chevy-Chase đã “bị thương” trong cuộc truy tìm một đàn ông và một đàn bà, có nhân dạng tương tự anh và cô bạn gái của anh. Những tin đồn ấy sẽ khiến ai nấy đều đổ dồn chú ý vào khu vực đó. Cho nên, anh cứ việc ung dung mà đi lại và hành động chẳng sợ sệt gì. Từng ấy thời gian đã đủ cho anh chưa, Thần Ưng? Anh có lùi giúp tất cả những trò phao tin đồn nhảm ấy muộn thêm một tiếng nữa được không? Dĩ nhiên là được. À, tôi đang trò chuyện với ai thế nhỉ? Ý tôi muốn hỏi quý danh anh là gì? Cứ gọi tôi là Rogers vậy, Thần Ưng nhé. Cuộc trò chuyện đến đấy là chấm dứt. Powell chưa kịp đặt ống nghe xuống, thì viên cộng sự chịu trách nhiệm dò số máy, đã lao đến bên ông: Anh có biết thằng chó đẻ ấy đã chơi trò gì không? Nó đã giở ngón gì, anh biết chứ? – Powell lắc đầu, vẻ ngỡ ngàng. Tôi sẽ nói cho anh biết thằng chó đẻ ấy chơi trò gì. Hắn đã đảo một vòng, gần như qua khắp mọi xó xỉnh của khu trung tâm Washington này; đến đâu hắn cũng dùng dây điện nối ba bốn máy công cộng lại với nhau. Đến khi hắn nhấc một máy lên gọi, thì máy ở tất cả các trạm khác cũng đều làm việc luôn một thể. Chứ cuộc trò chuyện giữa anh và hắn diễn ra chưa đầy một phút, tôi đã dò ngay ra được số máy. Tôi lập tức phái người đến đó. Nhưng đến nơi, họ chỉ thấy một chòi điện thoại trống không, bên ngoài treo tấm biển: “Máy hỏng”. Xem kỹ thì thấy một đoạn dây đã nối máy với đường cáp chính. Họ phải lập tức gọi về, yêu cầu tôi dò máy khác. Nhưng dò thêm ba bốn số nữa, đều thấy tình trạng giống hệt như ở trạm đầu. Có trời biết thằng chó đẻ ấy đã nối những bao nhiêu trạm như thế lại với nhau. Powell ngả hẳn người vào lưng ghế và cười phá lên, vui vẻ thực lòng, một chuỗi cười vui vẻ đầu tiên sau suốt mấy ngày trời buồn bực. Đến lúc moi trong hồ sơ cá nhân của Malcolm ra một chi tiết là có lần, trong một dịp hè, anh ta đã từng làm công cho một công ty điện thoại, để kiếm thêm tiền ăn học, thì Powell lại cất lên một tràng cười giòn giã nữa… Malcolm rời chòi điện thoại, tiến vè một bãi đỗ xe. Trên một chiếc xe thùng nhỏ bé, mang biển số của bang Florida, thuê của hãng “Tự lái lấy”, chễm chệ một cô gái tóc vàng, đeo kính râm, có bộ ngực đồ sộ, mồm nhồm nhoàm nhai kẹo cao su, đang ngồi đợi sẵn. Anhh dừng lại dưới một tán cây. Chăm chú quan sát các bãi đỗ đến vài phút đồng hồ. Rồi chàng trai lẹ làng đến bên xe, trèo vào ca-bin. Anh giơ cả hai ngón tay cái lên, ra hiệu cho Wandy là “ổn thoả cả” và khẽ cất tiếng cười. Sao, có chuyện gì vậy? – cô gái hỏi. – Sao mà cười khoái chí thế? Trông em như một con búp bê ấy, ngộ nghĩnh quá đi mất! Nhưng bộ tóc giả với cặp vú cao su này là do anh bày ra, chứ có phải ai khác đâu, mà cười! Em hoàn toàn vô tội, nếu… Malcolm gơ cao tay tỏ ý phản đối và ngắt lời cô ta: Đó chưa phải là tất cả đâu, Wandy ạ, - anh vẫn cười hì hì. – Giá em được ngắm nhìn mình một lát bằng cặp mắt của người ngoài, em sẽ hiểu ngay thôi. Ồ, thì em đã nói đấy: em đâu có lỗi, nếu em trông xinh đẹp hẳn ra. – Và cô liền ngả hẳn người vào lưng ghế, đắc ý. – Thế nào, anh, họ nói những gì? Trên đường cho xe chạy đến một trạm điện thoại khác, Malcolm đã thuật lại cùng cô bạn nội dung cuộc nói chuyện mới rồi… … Mitchell vẫn ngồi trực tại phòng chỉ huy “Báo động” suốt từ hôm Malcolm gọi điện về lần đầu đến giờ. Chiếc giường xếp của lão vẫn đặt kê bên bàn viết, cách chừng vài bước chân. Kể từ hôm thứ Năm tệ hại đó đến nay, lão chưa hề được nhìn thấy mặt trời lần nào. Lão cũng chưa tắm nữa. Ngay cả lúc vào toa-lét, lão cũng kè kè bên người chiếc máy điện thoại. Viên chỉ huy trưởng bộ phận “Báo động” đã phải tính xem có nên tiêm cho Mitchell một liều thuốc tăng lực hay không. Ngài phó giám đốc thì quyết định cứ để cho lão tiếp tục trực ở đây, vì ngoài Mitchell ra, không ai còn nhận diện được giọng nói của Thần Ưng giỏi bằng, nếu chàng trai lại gọi điện về lần nữa. Mitchell mệt rã rời nhưng lão vẫn cố gắng chịu đựng. Hơn nữa, lúc này thần kinh lão đang căng thẳng tột độ. Lão vừa áp môi vào tách cà phê cữ “mười giờ sáng”, thì một hồi chuông dài bỗng réo vang. Suýt sặc cà phê, nhưng Mitchell vẫn vội vàng vồ lấy ống nghe: 493-7282 đây. Thần Ưng đang ở bên máy. Quỷ ở đâu ấy, từ hôm đó tới giờ anh lẩn đi đằng nào hả? Đừng ngắt lời tôi vội. Tôi biết lúc này anh đang cố dò số máy của tôi. Vì thế, tôi ít thời giờ lắm. Nhưng trong khi còn chưa phải bỏ máy xuống, tôi muốn báo ngay với anh chuyện này: ở Cục đã có “kẻ lạ” chui vào đấy. Cái gì?! Nhân viên của Cục có ai đó là nhân viên “hai mặt”. Cái người đến đón tôi trong con hẻm ấy mà, - Malcolm suýt buột miệng nói “Wazerby”, nhưng anh đã kịp chữa lại, - chính hắn ta đã nổ súng vào tôi trước. Tôi nhận diện được hắn, vì hôm sáng thứ Năm tuần trước, chính kẻ đó đã ngồi chờ trong ô tô, đỗ ngay cạnh trụ sở “Hội”. Còn người đi cùng kẻ kia, có lẽ nói ra các anh không thích nhưng dẫu sao… - Malcolm cố ý ngừng một lát chờ nghe lời phản đối nhất định sẽ được thốt lên ở đầu dây đằng kia. Chim Sẻ đã bị giết ngay tại chỗ. Chính anh. Không phải tôi bắn anh ta đâu! Việc gì tôi lại phải làm thế kia chứ? Ồ, thề ra anh chưa biết gì sao? Chúng tôi chỉ biết đã có thêm hai người nữa bị giết, kể từ khi anh gọi điện về cho bộ phận chúng tôi lần thứ nhất đến giờ. Có lẽ, tôi đã hạ thủ kẻ bắn tôi, nhưng tôi không phải là người bắn chết Maronic. Ai cơ?! Maronic chứ ai nữa. Cái người mà các anh gọi là Chim Sẻ ấy. Nhưng tên thật người đó đâu phải là Maronic. Tên họ anh ấy khác hẳn kia mà. Khác ư? Thế tại sao cái người bị tôi bắn đó lại kêu toáng lên “Maronic” khi hắn quỵ xuống? Vì nghe hắn gọi thế nên tôi mới đinh ninh rằng Chim Sẻ tên thật là Maronic. – (Malcolm tự dặn mình: “dịu giọng một tí, đừng cương lên quá; cái chính lúc này là phải giữ cho thái độ thật ngây thơ, không thì lộ tẩy mất”). – Nhưng thôi, cái đó lúc này chả quan trọng đâu, vì còn ít thời gian lắm. Những kẻ tiến hành thủ tiêu các nhân viên của tiểu ban chúng tôi rõ ràng là họ chỉ muốn biết những gì Heidegger đã nắm được thôi. Anh ta có kể với chúng tôi là đã phát giác được nhiều chỗ nhập nhèm trong sổ sách chi thu. Anh ấy bảo trước sau gì cũng sẽ báo lên thượng cấp chuyện đó. Bởi thế tôi rút ra kết luận: có kẻ “hai mặt” đang hoạt động trong nội bộ chúng ta. Heidegger chắc hẳn đã chuyển cái tin đó không phải cho người cần chuyển. À, này, ngoài ra, tôi cũng phát hiện một chuyện thú vị ở nhà Heidegger. Tôi nghĩ: nếu có thì giờ, tự tôi, tôi cũng sẽ phanh phui được chuyện này, chẳng cần ai giúp cả. Tôi tin chắc là anh sẽ thu xếp được cho tôi chút ít thì giờ. Tự tìm về Tổng hành dinh một mình hoặc để cho các anh đưa người đến đón, tôi đều rất ngại. Giá anh hạ lệnh ngừng truy tìm ít lâu, cho đến lúc tôi phanh phui được cái chuyện lý thú mình đã phát giác được kia, thì hay quá. Nếu được thế, thì tôi có thời giờ, vừa khiến những kẻ lúc nào cũng lăm le thịt tôi càng mất ăn mất ngủ. Sao anh, xem thử đi, có ra lệnh tạm thời đình chỉ việc truy nã được không? Mitchell cố nấn ná thêm vài giây. Gã nhân viên chịu trách nhiệm dò số máy rối rít huơ chân múa tay, ra hiệu cho lão cố kéo dài câu chuyện thêm một lúc nữa. Lão rốt cục đành lên tiếng, giọng chẳng mấy dứt khoát: Tôi không biết sức chúng tôi có làm nỗi việc đó không. Chắc hẳn, nếu như… Tôi gác máy đây, vì đã trò chuyện lâu quá rồi. Bao giờ dò tìm thêm được gì, tôi lại gọi điện cho anh sau. Malcolm cắt liên lạc. Mitchell quay sang nhìn gã chỉ huy phó, nhưng hắn chỉ lắc đầu đáp lại. Anh có hiểu được ít nhiều những điều Thần Ưng vừa nói không? Mitchell ngả người trong chiếc xe lăn, lắc đầu: Chịu, tôi cóc hiểu gì. Hơn nữa, chuyện đó không thuộc phận sự của tôi. Tìm hiểu và đánh giá là chuyện người khác, ít ra là những vấn đề như loại đó. Mitchell đưa mắt nhìn xem gian phòng. Khi cặp mắt lão dừng lại trên khuôn mặt một nhân viên mà lão coi là chuyên gia dày dạn nhất trong nghề mật vụ, lão cất tiếng hỏi: Jason, cái tên Maronic chắc là gợi lên trong trí anh điều gì đó thì phải? Người có tên Jason chậm rãi gật đầu, tỏ ý xác nhận Đúng, cái tên ấy tôi nghe quen lắm. Tôi cũng vậy, - Mitchell nói, rồi hối hả nhấc ống nghe lên, hỏi: - Lưu trữ đấy à? Gửi ngay cho tôi hồ sơ của tất cả những ai có tên là Maronic, mà anh đang giữ trong tay nhé. Bất kể cái tên đó được viết ra sao, theo lối Anh hay lối Ý. Dĩ nhiên là chiều hôm nay tôi sẽ cần đến một số bản sao; bởi thế hãy khẩn trương lên. Mitchell đặt máy xuống, rồi quay số để liên lạc ngay với ngài phó giám đốc… … Trong lúc Mitchell đang chờ tổng đài nối đường dây với ngài phó giám đốc CIA, thì Powell cũng gọi dây về cho sếp. Thưa ngài, chúng tôi đã thành công mỹ mãn trong cuộc trò chuyện với anh bạn quý của chúng ta. Anh ta cũng vừa trò chuyện rất tuyệt với Mitchell đấy ạ. Tôi rất vui thích được nghe anh thuật lại đấy Kevin ạ. Phải nói là cực kỳ vui thích mới đúng. Powell nói tiếp, nhưng giọng đã bình thản hơn: Ta đã tung được một ít tin thật cộng với một số tin giả, nguỵ trang rất khéo. Việc này có thể khiến ai đó mất ăn mất ngủ đấy ạ. Từ nay, CIA sẽ phải bắt đầu tìm kiếm theo hướng lẽ ra phải có. Cầu trời cho họ cứ tin đó là chuyện thật, chứ không phải là trò chơi, do ta dàn dựng. Nếu ngài đúng, thì cả Maronic nữa, hắn cũng phải chột dạ. Và nhất định bọn họ sẽ săn tìm Thần Ưng ráo riết hơn. Ngài có tin gì mới cho bọn tôi không ạ? Không có gì. Người chúng ta đang tiếp tục lục tìm lai lịch hồi xưa của hết thảy những ai ta đang quan tâm. Ngoài nhóm chúng ta ra, chỉ bên cảnh sát mới biết mối liên quan giữa Malcolm và người đàn ông bị giết trong phòng cô gái. Cảnh sát loan báo chính thức: trường hợp đó, cũng như việc cô gái mất tích, đều là những mắt xích của một vụ án mạng thông thường và hoàn toàn quen thuộc. Đến một lúc nào đó, chi tiết nhỏ này sẽ rơi vào tay những người cần thiết. Theo nhận định của tôi thì các sự kiện hiện đang phát triển đúng như kế hoạch ta đề ra. Tôi dự đoán là chỉ một lát nữa thôi, lại phải đến dự một phiên họp thường kỳ cực kỳ buồn tẻ, lại phải tỏ vẻ rất quan tâm lắng nghe và nhẹ nhàng gợi ý cho các bạn của chúng ta hãy triển khai việc điều tra theo hướng cần thiết nào. Tôi nghĩ nhiệm vụ của anh lúc này là hãy cố kiên nhẫn mà ngồi nghe những cuộc trò chuyện trên đường dây “Báo động”. Nhưng nhớ là chỉ nghe thôi, chớ đừng bắt liên lạc vói Thần Ưng nữa. Và hãy sẵn sàng hành động khi thời cơ đến. Tuân lệnh. – Powell đặt máy xuống, ngước nhìn những viên cộng sự tươi cười đang có mặt trong phòng. Đoạn, ông ngả người thoải mái trong xa-lông, để thưởng thức tách cà phê nóng đặt trước mặt… Quỷ tha ma bắt tôi đi, nếu tôi hiểu được một chút ít những điều vừa nghe thấy! – Viên sĩ quan hải quân đập mạnh tay xuống bàn như để nhấn mạnh thêm những lời vừa phát biểu, rồi ngồi xuống ghế. Phòng họp rất oi bức. Áo ông ta, dưới hai nách, ướt đẫm mồ hôi. Thậm chí, cả chiếc ki-tel của ông cũng thẫm đen đi mấy mãng sau lưng. Ông nghĩ bụng: “Cái máy điều hoà chết tiệt, lại đi hỏng đúng vào hôm nay”. Viên phó giám đốc CIA cố lấy giọng thật bình tĩnh giảng giải: Trong chúng ta đây cũng chẳng một ai dám nói dứt khoát là đã hiểu đến nơi đến chốn những gì Thần Ưng cung cấp. – Ông ho khẽ, rồi nói tiếp câu vừa bỏ dở. – như tôi đã nói, ngoài những thông tin mà Thần Ưng vừa chuyển về chưa biết chính xác đến mức nào, trên thực tế, ta chẳng tiến thêm được bước nào, kể từ lần họp trước. Viên sĩ quan hải quân nghiêng người sang bên phải, nói to với gã đại diện cho FBI cái điều khiến ông ta lấy làm lạ: Đã vậy thì triệu tập làm quái gì cái phiên họp chết tiệt này? Cái trừng mắt của ngài phó giám đốc không hề làm viên sĩ quan nọ nao núng. Viên phó giám đốc tiếp: Như các ngài đã biết, hồ sơ của Maronic đã bị cuỗm đi mất. Chúng tôi đang yêu cầu các đồng nghiệp bên Anh gửi cho bản sao. Ba tiếng nữa, máy bay của không quân ta sẽ mang về đây. Bây giờ, xin tất cả các vị hãy cho biết ý kiến riêng hoặc bất kỳ nhận xét nào mà các vị xem là cần lưu ý chúng tôi. Người đại diện của FBI lên tiếng ngay: Tôi cho rằng Thần Ưng có lý, nhưng chỉ trong một chừng mực nào đó thôi. Trong hàng ngũ của nhân viên CIA, quả có kẻ giấu mặt len vào. – Đồng nghiệp của ông ta, đại diện của Tổng hành dinh nghe nói vậy liền sa sầm mặt lại. – Tuy nhiên, tôi nghĩ sự kiện đó ta nên dùng nó ở thời quá khứ mới đúng. Nghĩa là, kẻ “hai mặt” đó trước đây mới tồn tại. Không nghi ngờ gì nữa, Wazerby chính là tên giấu mặt đó. Chắc hẳn hắn đã dùng ban 17 của hắn như một thứ bàn đạp để tiến thân. Heidegger đã tình cờ phát giác được chuyện đó. Biết được vậy, Wazerby liền quyết định thanh toán hết tiểu ban 9. Thần Ưng là “đầu mối” độc nhất còn sót lại, buộc phải “bịt” đi. Nhưng Wazerby đã bắn trượt. Không loại trừ khả năng một số tay chân thuộc nhóm hắn vẫn còn sống và tiếp tục hoạt động trong Cục, nhưng tôi nghĩ số phận đã để mắt đến chúng rồi, nên chuyện tin tức bị rò rỉ thế là đã chấm dứt. Theo tôi hình dung thì công việc chủ chốt của chúng ta lúc này là phải tìm cho được Thần Ưng. Dùng những tài liệu anh ta có thể cung cấp cho ta, ta sẽ truy tìm những tên đồng phạm trong nhóm Wazerby, kể cả cái tên Maronic ấy nữa, nếu của đáng tội quả hắn là có thật, và sẽ biết rõ khối lượng tin tức đã bị rò rỉ là bao nhiêu. Viên phó giám đốc đưa mắt nhìn quanh những người ngồi họp. Ông đã toan tuyên bố bế mạc, thì người cao tuổi ngước nhìn ông, ngỏ ý muốn nói gì đó. Ngài cho phép tôi nêu thêm vài nhận xét nữa, được chứ ạ, thưa ngài phó giám đốc? Ồ, dĩ nhiên. Chúng tôi luôn luôn hoan nghênh những lời phát biểu của ngài. Các đại diện lại ngả người lên lưng ghế cho thoải mái hơn, chờ đợi. Viên sĩ quan hải quân cũng đổi lại thế ngồi, mặc dù nét mặt vẫn cố tỏ cho ai nấy biết: ông ta làm thế chẳng qua chỉ vì lịch sự, chứ trong thâm tâm ông đã chán ngán và bực dọc lắm rồi. Trước khi lên tiếng, người cao tuổi liếc nhìn vị đại diện của FBI với vẻ đầy hiếu kỳ. Tôi xin nói ngay là tôi không đồng tình với những nhận định của ông bạn đồng nghiệp của chúng ta bên FBI. Những lời giải thích ta vừa được nghe, tuy rất có lý, nhưng tôi thấy có vài điểm thiếu nhất quán và một đôi chỗ hở, khiến tôi rất lo ngại. Nếu Wazerby là chỉ huy của nhóm đó, thì vì lẽ gì hắn ta lại chết? Tôi biết đây là một vấn đề chưa được nhất trí, nhưng ít ra cho đến lúc này, các chuyên gia vẫn còn đang tiến hành kiểm nghiệm thật thấu đáo và toàn diện nguyên nhân cái chết nói trên. Tôi tin chắc rằng trước sau gì rồi họ cũng sẽ di đến kết luận sau đây: Wazerby bị giết, chứ không phải bị chết đơn thuần. Và như thế có nghĩa là hắn đã bị cấp trên hạ lệnh thủ tiêu. Ngoài ra, tôi cảm thấy rất đáng ngờ về mối liên quan mà vị đại diện bên FBI giả định: hắn tình nguyện làm điệp viên “hai mặt” chỉ vì muốn tiến thân. Tôi hiện chưa có bằng cớ cụ thể, đấy mới chỉ là linh cảm của tôi thôi. Nhưng tôi cho rằng trên đại thể, chúng ta cần tiếp tục triển khai những công việc lâu nay đã tiến hành – chỉ cần thêm hai điểm sửa đổi nhỏ. Một là, cần dò kỹ lai lịch, tông tích trước kia của tất cả những ai ta đang quan tâm, để xem thử bước đường của họ có chỗ nào gặp nhau không. Biết đâu ta lại không tìm được một manh mối thú vị nào đó? Hai là phải tạo điều kiện cho Thần Ưng “bay nhảy”. Thế nào anh ta cũng phát giác thêm được chuyện này, chuyện nọ. Hãy chấm dứt chuyện truy lùng ồ ạt của chúng ta lâu nay, để cho chàng trai nọ rảnh tay và tập trung toàn bộ lực lượng của chúng ta vào việc tìm hiểu thật cặn kẻ lai lịch những kẻ mà ta tình nghi. Tôi đã nghĩ ra được một vài gợi ý, nhưng muốn đề đạt với quý vị trong phiên họp sau, nếu quý vị không phản đối, dĩ nhiên. Đấy, tôi chỉ xin phát biểu có vậy. Cám ơn ngài, thưa ngài phó giám đốc. Rất cám ơn ngài. Thưa quý ngài, quyết định cuối cùng dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào ngài giám đốc của chúng tôi. Tuy thế, mong các ngài tin rằng, những đề nghị của chúng ta nhất định sẽ được quan tâm thích đáng. Trong khi chờ đợi những quyết định dứt khoát của cấp trên, tôi có ý điịnh là ta cứ tiếp tục hành động theo hướng như đã triển khai. Người cao tuổi nhìn viên phó giám đốc một lát, rồi tiếp: Ngài có thể tin tưởng là về phía mình, chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ và ủng hộ ngài trong chừng mực khả năng chúng tôi cho phép. Viên đại diện của FBI lập tức hưởng ứng: Ngài có thể hoàn toàn tin cậy chúng tôi! – Rồi ông ta quay sang nhìn người cao tuổi với vẻ thách thức, trong khi ông này chẳng hiểu lẽ gì lại chỉ mỉm cười đáp lại, một nụ cười kỳ lạ và đầy ngụ ý. Thưa quý ngài, - viên phó giám đốc nói tiếp, - tôi muốn cảm ơn các ngài về sự hỗ trợ mà quý ngài dành cho chúng tôi hiện nay, cũng như trước đây. Xin cảm ơn quý ngài đã đến dự họp cùng chúng tôi. Nay mai tôi sẽ thông báo ngày giờ của phiên họp sắp đến, xin tạm biệt! Khi các đại biểu đứng dậy ra về, viên đại diện của FBI tình cờ bắt gặp ánh mắt đầy vẻ ranh mãnh lộ liễu của người cao tuổi. Ông ta vội rời ngay phòng họp. Còn viên sĩ quan hải quân, trước khi bước ra, đã quay sang phía viên đại diện bộ tài chính, càu nhàu: Trời ơi, ước gì tôi được trở về với hạm đội của chúng tôi như ngày trước! Những cuộc họp tẻ nhạt kiểu này đã làm tôi ngấy đến tận cổ rồi! Ông ta “xì” một tiếng đầy vẻ khinh bỉ, chụp chiếc mũ lưỡi trai bảnh bao lên đầu, rồi bước ra. Người ra về sau cùng là viên phó giám đốc CIA… Tất cả những thứ ấy tôi thật chả thích tí nào! Hai người thong thả dạo bước trên những lối đi ngay ngắn trong một công viên nằm trải dài trên đồi Capitol. Họ tách biệt hẳn với mọi người. Càng về chiều, cảnh khách du lịch tấp nập ở đây càng lắng xuống. Những viên chức chậm chân cũng đã rời các công sở từ lâu rồi. Thứ hai thường không phải là ngày nhiều việc nhất của Quốc Hội và các công sở trực thuộc. Tôi cũng vậy, tất cả những khoản ấy, tôi có thích đâu. Nhưng ta phải chấp nhận thực trạng, đúng như chúng đã có, chứ không phải như ta thích, anh bạn ạ, - người có vẻ ngoài đường bệ dò xét liếc nhìn người có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng, rồi nói tiếp: Lúc này, ít ra ta đã biết thêm được một ít thông tin nữa, khá hơn trước. Chẳng hạn giờ đây ta biết chắc như đinh đóng cột rằng, phải thanh toán gấp Thần Ưng. Tôi cho rằng không phải chỉ mỗi một mình hắn đâu. Một làn gió nhẹ rất dễ chịu đưa câu nói của kẻ có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng đến bên tai người kia, khiến ông này rùng mình, mặc dù tiết trời hôm ấy rất ấm áp. Anh muốn ám chỉ gì trong câu nói đó? Người kia đáp lại, rõ ràng là có pha thêm về bực tức: Ở đây, rõ ràng có đôi chỗ tiền hậu bất nhất đấy, thưa ngài. Wazerby là một điệp viên sừng sỏ và rất có kinh nghiệm. Tuy bị thương, nhưng cậu ta vẫn hạ thủ được Chim Sẻ một cách rất mau lẹ. Một người như Wazerby, mà ngài tin là có thể gào tướng họ tên tôi lên trước lúc gục ngã được sao? Thậm chí, dẫu có bắn trượt chăng nữa, thì thử hỏi cần gì cậu ấy lại phải gọi tên tôi ra cơ chứ? Không, ở đây hẳn có cái gì bịa đặt đấy, chứ chuyện đó nghe chẳng có lý lẽ, chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi tin như thế. Thế anh thử nói tôi nghe đi, thực chất ở đó là gì nào? Thực chất là gì, tôi không thể nói đích xác. Nhưng dứt khoát ở đây đã có xảy ra một điều mà chúng ta chưa biết. Hay ít ra chỉ mình tôi là chưa biết. Người có vẻ ngoài đường bệ lên tiếng, giọng rõ ràng có vẻ tức tối và lo lắng: Anh không ngụ ý là tôi đã giấu anh một phần những gì tôi được nghe thông báo, khi nói như thế đấy chứ? Chỉ có tiếng gió lao xao lên trong khoảng thời gian im lặng kéo dài. Rồi Levin Maronic chậm rãi đáp: Tôi không hề ngụ ý gì, nhưng cái khả năng đó cũng không nên loại trừ. Ngài đừng lo và đừng cãi, vì tôi không định tìm cách làm sáng tỏ chuyện đó đâu. Tôi chỉ muốn ngài nhớ lại cuộc trò chuyện mới đây giữa chúng ta. Hai người thong thả dạo bước một lúc, chẳng ai nói năng gì. Đoạn, họ rời công viên và khoan thai bước đi trên đường Capitol Đông, chạy ngang qua trước toà Thượng thẩm. Mãi sau người có vẻ ngoài đường bệ mới phá tan không khí im lặng: Nhóm của anh có nhận được tin gì mới không? Không. Chúng tôi vẫn theo dõi sát sao mọi cuộc trò chuyện điện thoại giữa các nhóm điều tra của CIA và FBI. Vì chỉ còn có ba nhân mạng thôi, nên bọn tôi không đủ sức tự đứng ra truy lùng Thần Ưng được nữa. Kế hoạch của tôi là thế này: chộp lấy cái nhóm dò ra Thần Ưng và đưa hắn ta về nơi an toàn, ngay giữa lúc họ đang trên đường về căn cứ. Ngài có bố trí cho họ gặp gỡ và đón hắn tại một địa điểm thích hợp nào đó được không? Hay chỉ cần nắm các kế hoạch hành động từ nay về sau của họ thôi cũng được? Vì chuyện đó sẽ giúp ích chúng ta rất nhiều: đảm bảo cao hơn khả năng ăn chắc. Người vẻ ngoài đường bệ gật đầu, tỏ ý tán thành. Maronic lại tiếp: Tôi vẫn cảm thấy hơi lạ về câu chuyện của Lloyd. Như tôi đã nắm được, thì cho đến giờ, cảnh sát vẫn không hề đả động gì đến mối liên quan giữa hắn và công việc của cánh ta. Trong gian phòng đó thì thiếu gì dấu tay của Thần Ưng. Vậy mà cảnh sát vẫn câm như hến. Tôi không tin là họ không phát hiện được gì. Hay là họ ỉm chuyện đi, không báo cáo, như điều lệnh quy định? Khoản đó tôi chả thích tí nào. Hẳn phải có mưu mẹo gì đây, chứ chẳng phải đùa. Ngài dò tìm giúp lý do chuyện đó, được chứ ạ? Nhưng nhớ là đừng đánh động họ và đừng vẽ đường cho hươu chạy. Người có vẻ ngoài đường bệ lại gật đầu. Họ vẫn thong thả bước tiếp, như thể hai người vừa tan sở. Chỉ một lát sau, họ đã ở cách điện Capitol chừng ba dãy phố và đang sóng bước trong một khu dân cư. Cách họ chừng hai đoạn phố ngắn, một chiếc xe buýt dừng lại bên vỉa hè. Khi chiếc xe lại rời bến, trên vỉa hè vẫn còn hai người khách chậm chân. Tuy thế, hình như họ không vội, mà cứ nhằm thẳng hướng điện Capitol chậm rãi đi tiếp. Trước đó Malcolm đã cân nhắc hồi lâu: nên hay không nên trả lại chiếc xe tải bé nhỏ mà họ đã thuê của hãng “Tự lái lấy”? Có xe thì được cái là chủ động trong đi lại. Nhưng bất lợi là để lộ quá. Tại cái đất Washington phong nhã này, chẳng mấy ai lại ngự trong ca-bin cái thứ xe tải cỡ nhỏ có thùng ở phía sau, nhất là ở hai bên hông lại lù lù một dòng chữ to tướng: “Tự lái lấy”. Ngoài ra, giá thuê cũng chẳng rẽ mấy: mà Malcolm lại muốn để dành một ít tiền, phòng khi trái gió trở trời. Rốt cục, anh quyết định: cứ dùng các phương tiện giao thông công cộng, để đi lại nơi này nơi kia, mà anh đã dự tính trong kế hoạch. Wandy đành miễn cưỡng nghe theo. Chứ trong thâm tâm, cô vẫn thích tự lái lấy chiếc xe tải con con ấy. Sự việc sau đây xảy ra đúng vào lúc họ đi ngang qua mặt hai người khách đang sóng bước bên nhau trên vỉa hè đối diện, mà ta đã biết. Một cơn gió mạnh thình lình giật đứt tung cái dải băng mảnh, giữ bộ tóc giả trên đầu Wandy, khiến bộ tóc bay vèo đi, và lăn long lóc ra giữa lòng đường. Vì quá bất ngờ và lúng túng, cô gái đã buột miệng kêu to: Malcolm, bộ tóc em! Nhặt giúp đi, nhanh lên! Tiếng kêu thất thanh đường đột đó át cả tiếng gió lao xao và tiếng xe cộ chạy trên đường. Trên vỉa hè bên kia, Levin Maronic bất thần níu lấy tay người bạn đồng hành, giữ ông ta lại. Malcolm hiểu ngay cô bạn mình đã phạm một sai lầm lớn: gọi to tên anh! Anh ra hiệu, bắt Wandy nín thinh ngay và lách người giữa hai chiếc xe đỗ nối đuôi nhau, bước vội xuống lòng đường, để nhặt lại bộ tóc giả. Chàng trai nhận thấy hai người đàn ông dừng bước ở bên kia đường đang dõi mắt nhìn sang. Vì thế, anh cố tỏ vẻ thản nhiên, mặc dù trong thâm tâm anh đang sợ thay cho người vợ trẻ. Levin Maronic chậm rãi, nhưng dứt khoát, bước dấn tới, vừa căng mắt ra để nhìn cho rõ hơn hai người đang ở bên kia đường, vừa thầm so sánh nhận dạng. Vốn là một nhân viên điều tra sừng sỏ, hắn khấp khởi mừng thầm về sự ăn khớp rất đỗi thần kỳ đang được chứng kiến và dồn ngay toàn bộ tâm trí vào cái cơ hội ngàn năm có một đó. Hắn giơ tay trái lên cởi hai chiếc cúc vét-tông. Khoé mắt Malcolm đã bắt gặp động tác đó. Anh lập tức dõi theo mọi cử dộng của kẻ lạ mặt, không bỏ sót mất động tác nhỏ nào. Nhưng ác thay, anh vẫn phải để mắt đến bộ tóc nằm ngay dưới chân. Wandy tiến đến bên người bạn trai, lúc anh đang đứng thẳng lên, giữ trong tay cái của nợ tai ác nọ. Chết chửa, khéo cái của khỉ ấy bẹp dúm mất rồi! Wandy giật lấy bộ tóc rối bù trong tay Malcolm. – Em rất mừng là ta không phải chạy mãi sang tận bên kia đường để nhặt nó lên. Bận sau, em sẽ phải nịt thêm một sợi dây chun nữa, cho rõ chắc. Người bạn đồng hành của Maronic đã từ lâu rồi không còn trực tiếp dự phần vào các chiến dịch kiểu này. Vì thế, ông ta cứ đứng sững ở bên kia đường nhìn sang, mắt không rời khỏi cặp vợ chồng trẻ. Cái nhìn quá chăm chú ấy khiến Malcolm chột dạ. Đúng vào lúc chàng trai vẫn còn chưa tin hẳn vào linh cảm của chính mình, thì ông ta thốt lên một tiếng kêu. Malcolm không nghe rõ ông ta nói gì, nhưng anh hiểu rằng ở đây tất phải có một cái gì bất ổn, khó tránh khỏi. Chính lúc đó, người bạn đồng hành của ông ta đã lách người qua một chiếc xe đang đỗ và vội vã băng xuống đường. Malcolm nhận thấy chiếc vét-tông đã cởi hết khuy và cánh tay phải của hắn ta cứ giữ chặt lấy một cái gì đó bên hông, sẵn sàng lôi ra bất cứ lúc nào. Chạy đi! – Anh xô mạnh Wandy ra và lao nhanh đến bên một chiếc xe thể thao đỗ cạnh dó. Khi đã ngồi thụp xuống sau chiếc xe, Malcolm đinh ninh trong bụng là mình bị thần hồn nhát thần tính, và đã xử sự như một thằng ngốc mạt hạng trước cái tình huống ngẫu nhiên này. Maronic hiểu mười mươi rằng không nên băng bừa qua giữa quãng phố trống ở đây để đuổi theo một kẻ có súng ống hẳn hoi, đồng thời lại đã có chỗ núp cẩn thận. Hắn định bụng hãy nhử đối thủ rời bỏ chỗ núp cho dễ bề hành động. Nhưng đúng lúc đó cô bạn của kẻ đang bị săn đuổi nọ lại vùng bỏ chạy. Không nên bỏ dịp may, Maronic giữ nguyên cánh tay phải đang giơ cao trước mặt, gồng người lên và đưa ngay toàn bộ thân người vào tư thế ngắm bắn kinh điển, để sẵn sàng nhả đạn. Khẩu súng giảm thanh trên tay hắn bỗng nấc khẽ một tiếng. Chạy được bốn, năm bước rất nhanh, Wandy bỗng phân vân, vì chợt hiểu ra rằng chẳng rõ vì cớ gì mình lại làm thế. Cô gái vừa chạy tiếp, nhưng đã chậm bước hơn, vừa tự nhủ: “Vớ vẫn ở đâu ấy!”. Đến được khoảng trống giữa hai chiếc xe đậu bên lề đường, cô gái chuyển sang chạp lúp xúp. Giá chạy thêm vài bước nữa thôi là cô đã có thể lẩn vào sau dãy xe buýt của khách du lịch đỗ nối đuôi nhau trên vỉa hè, tạo thành một bức tường chắn không đạn nào bắn xuyên thủng, nhưng cô không làm thế mà lại quay đầu nhìn sang phía Malcolm. Đúng lúc đó viên đạn đầu bọc thép xuyên qua cổ cô. Wandy chồm người lên rồi từ từ quay một vòng và khuỵu xuống, trông hệt như một cô vũ nữ ba-lê trên sân khấu múa rối. Malcolm hiểu ngay phát súng đó nhằm vào ai, nhưng anh muốn biết chắc hơn cái gì đã xảy ra. Anh cố bắt mình ngoảnh mặt sang trái. Anh lập tức nhìn thấy trên vỉa hè một thân người với thế nằm kỳ dị, chỉ cách chỗ anh đang nấp có sáu bước chân. Wandy đã chết. Anh biết nàng đã chết rồi! Mấy ngày gần đây, anh đã nhìn thấy tận mắt nhiều xác chết, đến nỗi chỉ cần liếc mắt trông qua cũng đã có thể nhận ra ngay thế nào là người đã chết, một dòng máu nhỏ loang dài trên vỉa hè, hướng thẳng về phía anh. Tay Wandy vẫn còn giữ chặt bộ tóc giả. Malcolm lôi khẩu súng ngắn ra. Nhưng anh vừa nhô đầu lên thì một phát súng của Maronic lại lập tức bay đến. Phát đạn cày trên vỏ xe một vết xước rõ dài. Chàng trai lại vội rụt đầu lại. Maronic bắt đầu chạy dích dắc để lao qua đường. Hộp đạn của hắn chỉ còn bốn viên. Thế mà trong lúc chạy, hắn còn nổ thêm hai phát nữa để doạ Malcolm, không cho chàng trai có cơ hội ngóc đầu lên. Số phận thật trớ trêu: đồi Capitol ở Washington vừa là khu vực nổi tiếng về số vụ phạm tội cao nhất, đồng thời vừa lại là nơi lắm cảnh sát nhất. Mấy phát súng của Maronic và những tiếng kêu thét đầy kinh hoàng của khách du lịch vọng đến tai một viên cảnh sát giao thông. Ông ta lập tức ba chân bốn cẳng chạy đến nơi xảy ra sự kiện. Viên cảnh sát đó tên là Arthur Stabbins, vóc người tầm thước, tính tình vui vẻ. Ông dự định là chỉ thừa hành phận sự dăm năm nữa rồi về quê, vui thú điền viên. Vừa nghiêng người, lúc bên này, lúc bên kia, chạy vội đến nơi vừa phát ra tiếng nổ, Stabbins vừa đinh ninh trong bụng rằng chỉ vài giây nữa thôi, hàng chục đồng sự của ông sẽ lao ngay đến hỗ trợ. Điều đầu tiên mà Stabbins nhận thấy là một người đang thận trọng băng qua phố, khẩu súng ngắn lăm lăm trong tay. Nhưng đó cũng là cảnh tượng chót cùng mà viên cảnh sát tận tuỵ nhìn thấy trong đời: ông đã bị một phát đạn của Maronic xuyên thủng ngực. Maronic hiểu ngay là hắn đã lâm nguy. Nhưng hắn vẫn hy vọng là phải một phút nữa cảnh sát mới ập đến được. Trong khoảng thời gian đó, hắn sẽ kịp thanh toán xong Thần Ưng và tẩu thoát. Nhưng hắn bỗng thấy hai người cảnh sát nữa vừa chạy, vừa rút súng ra. Hắn đáng giá nhanh chóng tình thế, rồi đưa mắt nhìn quanh, tìm đường tháo lui. Đúng lúc đó, một viên chức của hạ viện, dáng mệt nhọc và rầu rĩ, lái một chiếc Volkswagen sơn đỏ rời sở phóng về nhà. Đến bên một ngã tư, ông ta bỗng hãm xe lại ngay sau lưng Maronic, để nhường đường cho luồng xe cộ nối đuôi nhau lao vun vút trên tuyến chính. Ông ta chưa kịp hiểu mô tê gì, thì Maronic đã giật mạnh cửa xe, lôi chủ nhân ra, giáng ông ta một quả thụi vào giữa mặt, rồi nhảy lên xe, lao vút đi. Người bạn đồng hành của Maronic vẫn như bị chôn chân ở chỗ ban nãy. Đến lúc hiểu ra rằng Maronic đã tẩu thoát được, ông ta liền quyết định phải tính cách chuồn gấp. Chạy thêm những chục bước chân trên đường Capitol, đến bên chiếc Mercedes đen, ông ta vội vã ngồi sau tay lái, rồi phóng vút đi. Malcolm ngẩng đầu lên vừa đúng lúc dãy số xe sau đuôi chưa nhoà nét. Anh ghi nhớ ngay con số đó. Đoạn, anh quay sang phía mấy người cảnh sát đang tất bật bên xác người bạn xấu số của họ. Một viên cảnh sát dùng máy bộ đàm liên lạc với cấp trên. Anh ta kể rõ nhân dạng của Maronic và đặc điểm của chiếc Volkswagen sơn đỏ, rồi yêu cầu cho người đến tăng cường và cả xe cấp cứu nữa. Malcolm hoặc giả không được họ chú ý hoặc giả bị coi là một khách qua đường, tình cờ chứng kiến cảnh đồng sự của họ bị bắn chết, nên chẳng được ai hỏi han gì. Chàng trai lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Đám người xúm xít sau đuôi mấy chiếc xe đỗ cạnh anh hoặc dọc những bãi cỏ được xén tỉa cẩn thận gần đó, quá đỗi kinh hoàng đến mức không kịp kêu lên tiếng nào, ít ra là cho đến lúc Malcolm còn có mặt tại hiện trường. Lợi dụng thời cơ, chàng trai rảo bước đi nhanh về hướng từ đó chiếc Volkswagen lao ra. Trước lúc rẽ sang con đường ấy, anh còn ngoái nhìn lần nữa thi thể của Wandy đang có một cảnh sát ngồi bên cạnh. Malcolm cố nuốt một cái gì đang nghẹn nơi cổ họng, rồi quay mặt đi, bước tiếp. Vượt qua ba đoạn phố, anh vẫy tắc-xi, về lại trung tâm thành phố. Ngồi trên ghế sau, chàng trai ngả lưng vào lần đệm êm ái cho đỡ mệt, người khẽ run lên vì những tiếng nức nở cố nén lại, đầu óc như ngùn ngụt lửa…