ÂNG, TÔI BIẾT MÌNH luôn đi xa chủ đề, nhưng vì tôi đã suy nghĩ lại rất nhiều điều, nhìn nhận ra rất nhiều điều mới mẻ, nên muốn kể tất cả những cái đó. Thế là chúng tôi chuyển lên sống ở thành phố. Những kẻ bất hạnh sống ở thành phố dễ chịu hơn. Ở thành phố con người có thể sống đến trăm tuổi mà không nhớ ra là anh ta đã chết và thối rữa từ lâu. Chẳng có thì giờ để ngồi phán xét mình vì lúc nào cũng bận rộn. Nào công việc, nào quan hệ xã hội, nào chuyện sức khỏe, nào nghệ thuật, nào con cái cũng như việc giáo dục chúng. Khi thì phải tiếp người này đón người kia, khi thì phải đến thăm ông này hỏi bà kia, khi đi xem vở kịch này, khi đi nghe buổi hòa nhạc kia. Ở thành phố, bất cứ giờ phút nào cũng luôn có một, hoặc thậm chí cùng lúc có hai hay ba nhân vật nổi tiếng nào đó mà không thể bỏ qua dịp làm quen được. Rồi lại phải chữa trị bệnh này bệnh kia, rồi nào phải gặp người đỡ đầu, thuê thầy giáo, mướn gia sư. Tất cả đều là sự trống rỗng giả tạo, nhưng chúng tôi đã sống như thế và cảm thấy nỗi đau khổ của cuộc sống chung nhẹ bớt đi. Ngoài ra, thời gian đầu còn có những mối bận tâm thú vị là sắp xếp cho cuộc sống mới, cho căn hộ mới ở thành phố, rồi còn thêm những chuyến đi lại từ thành phố về quê và từ quê ra thành phố nữa. Chúng tôi sống qua một mùa đông, đến mùa đông thứ hai xảy ra một chuyện mà chưa ai để ý, tưởng như rất nhỏ nhặt, nhưng chính lại là điều dẫn đến tai họa sau này. Vợ tôi không được khỏe. Cái bọn bác sĩ vô lại không cho phép nàng sinh nở nữa và dạy cho nàng phương cách. Tôi cảm thấy ghê tởm chuyện đó. Tôi kháng cự, nhưng nàng bằng sự bướng bỉnh sốc nổi vẫn giữ nguyên ý mình, và tôi đành khuất phục; cái cớ cuối cùng để biện hộ cho cuộc sống tồi tệ của chúng tôi là con cái đã bị lấy mất đi, và cuộc sống trở nên gớm ghiếc hơn. Đối với những người nông dân, những người lao động, con cái là cần thiết. Mặc dù họ nuôi chúng rất vất vả, nhưng họ cần chúng, bởi vậy cuộc sống vợ chồng của họ có cái để biện hộ. Còn với chúng tôi, những người đã có con rồi, lũ con không còn cần thiết nữa, chúng chỉ là những mối bận tâm, những khoản chi phí, những kẻ đồng thừa kế, chúng là gánh nặng. Và thế là không còn sự biện hộ nào cho cuộc sống nhơ nhuốc của chúng tôi nữa. Hoặc là chúng tôi dùng biện pháp để tránh không có con, hoặc nếu lỡ có con ra thì xem chúng như nỗi bất hạnh, hậu quả của sự không cẩn trọng, điều này còn tệ hơn. Không có sự biện hộ nào cả. Nhưng chúng tôi đã sa đọa đến độ không còn thấy cần phải biện hộ cho cuộc sống của mình nữa. Phần lớn tầng lớp có học thức của chúng ta hiện nay sa vào cuộc sống như thế mà không hề bị lương tâm cắn rứt. Chẳng bị cắn rứt, bởi vì chẳng có cái lương tâm nào ở trong cuộc sống của chúng ta, trừ dư luận xã hội và luật hình sự, nếu có thể gọi đó là lương tâm. Nhưng ngay cả hai điều này cũng chẳng làm ảnh hưởng gì đến chúng ta cả. Chẳng có gì phải hổ thẹn trước dư luận xã hội bởi tất cả mọi người đều làm như thế: cả Maria Ivanovna, cả Ivan Zakharych, cả những người khác nữa. Trước luật hình sự cũng chẳng có gì phải sợ cả. Đó là cái lũ con gái hoang hay bọn vợ lính mới vứt con xuống hồ hay xuống giếng; bọn đó tất nhiên là phải nhốt vào tù rồi, còn những người có học thức như chúng ta thì làm những chuyện đó đúng lúc và cẩn thận lắm. Chúng tôi sống như vậy thêm hai năm nữa. Các phương cách của lũ bác sĩ vô lại rõ ràng bắt đầu có hiệu quả: vợ tôi khỏe và đẹp ra, giống như vẻ đẹp rực rỡ cuối mùa hè. Nàng cảm thấy được điều đó và quay sang chăm sóc bản thân. Ở nàng toát ra vẻ đẹp khêu gợi làm bối rối người khác. Nàng đang ở độ sung mãn của người phụ nữ ba mươi tuổi son rỗi và vui vẻ. Dáng điệu của nàng làm người khác bất an. Khi đi ngang qua đám đàn ông, nàng cuốn hút ánh nhìn của họ về phía mình. Nàng giống như con ngựa nuôi nhốt bỗng được tháo dây cương. Chẳng có cái dây cương nào ràng buộc nàng, cũng như chín mươi chín phần trăm phụ nữ của chúng ta. Tôi cảm thấy điều đó và tôi kinh hãi.