- 2 -


- 9 -
POLLOCK VÀ TÊN PORROH


( POLLOCK AND THE PORROH MAN

Tác giả: H.G.WELLS )

    
hính ở một làng vùng đầm lầy trên dòng sông bắt nguồn từ hồ nước mặn đằng sau bán đảo Turner mà Pollock đã gặp tên Porroh lần đầu. Đàn bà xứ đó nổi tiếng là đẹp. Họ là giống dân Gallinas có pha trộn chút máu Châu âu do từ thời Vasco da Gama và những người Anh buôn nô lệ để lại, và cả tên Porroh cũng có thể pha trộn chút máu Caucasian. Thật là buồn cười khi nghĩ rằng một số trong chúng ta có những anh em họ hàng xa ăn thịt người trên đảo Sherboro hoặc đánh giết nhau với dân Sofas. Dầu sao thì tên Porroh cũng đã đâm cô gái thấu tim như thể hắn là một tên Ý hạ tiện, và hắn cũng đã đâm hụt Pollock trong gang tấc. Nhưng Pollock, dùng súng đánh văng con dao găm sắt nhọn được nhắm vào bụng anh, đã nổ súng trúng bàn tay hắn.
Anh bắn một phát nữa nhưng trật làm bật một cửa sổ ra khỏi vách chòi. Tên Porroh khom người ở ngạch cửa và liếc nhìn Pollock ngược qua kẽ tay chống. Pollock thoáng thấy gương mặt ngược của hắn dưới ánh nắng và rồi anh chàng người Anh chỉ còn lại một mình, yếu ớt và run rẩy sau cơn kinh động trong ánh mờ của căn chòi. Chuyện xảy ra chỉ trong tích tắc.
Cô gái đã chết hẳn và sau khi đã chắc chắn điều này. Pollock đi lại cửa chòi nhìn ra ngoài. Bên ngoài ánh sáng chói chang. Một toán phu khuân vác đứng lố nhố gần dãy chòi xanh của họ nhìn về phía anh thắc mắc không biết những tiếng súng đó có nghĩa gì. Đằng sau họ là bờ sông đầy bùn trải rộng và những lau sậy bè cây xanh rờn, rồi đến dòng nước  đục ngầu. Những cây mangrove ( loại cây vỏ dùng để làm thuốc và thuộc da) đằng sau dòng suối hiện ra mờ ảo qua hơi sương mờ xanh nhạt. Không có dấu hiệu rộn ràng nào trong ngôi làng thấp lè tè nơi mà từ đây có thể trông thấy được dãy rào nhô lên khỏi đám cỏ mía.
Pollock cẩn thận ra khỏi chòi và bước về phía bờ sông, thỉnh thoảng lại nhìn ra sau, nhưng tên Porroh đã biến mất. Pollock bồn chồn nắm chặt khẩu súng lục trong tay.
Một tên gia nhân của anh tiến đến gặp và chỉ vào bụi rậm đằng sau căn chòi nơi mà tên Porroh đã biến vào. Pollock có cảm tưởng khó chịu là mình đã làm một thằng ngốc và anh cảm thấy cay cú, bực tức về những chuyện đã xảy ra. Rồi đây anh còn phải kể lại với Waterhouse – Ông Waterhouse đạo mạo, cẩn thận và gương mẫu – thế nào cũng sẽ quan trọng hóa vấn đề. Pollock cay đắng nguyền rủa sự xui xẻo của mình, nguyền rủa Waterhouse và đặc biệt là miền Tây duyên hải Phi Châu. Anh hoàn toàn chán nản cuộc thám hiểm. Đầu óc anh lúc nào cũng ngờ vực, thắc mắc không biết tên Porroh đang lẩn quất ở đâu.
Tuy vụ giết người vừa mới xảy ra có gây cho anh cú sốc nhưng không làm anh hoang mang chút nào. Trong ba tháng vừa qua anh đã thấy quá nhiều những cảnh tàn ác, quá nhiều xác chết phụ nữ, những căn chòi bị đốt cháy, những bộ xương khô ở ngược dòng sông Kittam sau khi đoàn kỵ binh Sofas đi qua, đến nổi các giác quan của anh đã chai cứng. Điều làm anh khó chịu là cái cảm giác câu chuyện này chỉ mới bắt đầu thôi.
Anh chửi thề tên Porroh đã gây cho anh cái cảm giác đó rồi đi vào căn chòi dưới tàn cây cam nơi Waterhouse đang nằm. Anh có cảm tưởng mình là một cậu bé đang bước vào văn phòng ông hiệu trưởng.
Waterhouse còn đang ngủ vì ảnh hưởng của chất thuốc Chlorodyne ông vừa mới uống. Pollock ngồi trên một thùng đựng hàng bên cạnh ông, anh đốt píp và chờ ông thức dậy. Chung quanh anh rải rác nào nồi niêu và vũ khí Waterhouse đã thu thập được từ dân Mendi mà ông đang vô thùng để gửi theo chuyến ca-nô đi Sulyma.
Sau cùng Waterhouse thức dậy, sau khi vươn vai co giản gân cốt ông cho rằng mình đã khỏe lại. Pollock đem trà đến cho ông. Trong lúc ông uống trà Pollock kể lại chuyện đã xảy ra sau khi nói vòng vo rào đón trước. Waterhouse xem chuyện đó còn nghiêm trọng hơn là Pollock tưởng. Ông chẳng những không bằng lòng mà còn rầy la và sỉ nhục anh. Ông nói:
-Anh là một trong những thằng ngu cho rằng da đen không phải là người. Tôi chỉ bị bệnh một ngày thôi là anh đã va vào chuyện nhơ bẩn này nọ. Đây là lần thứ ba trong tháng anh đã gây chuyện với một tên bản xứ và lần này thì anh không tránh khỏi bị báo thù, mà lại dân Porroh nữa chứ! Anh đã tự viết tên mình vào bản án, mà dân này thì nổi tiếng thù oán số một. Anh làm cho người ta phải xấu hổ vì sự văn minh của mình, mà anh lại xuất thân từ một gia đình nề nếp nữa chứ! Nếu tôi mà còn để cho mình dính líu với một tên ngu ngốc, xấu xa như anh nữa thì……
-Bình tĩnh nào.
Pollock càu nhàu bằng một giọng mà lúc nào cũng làm cho Waterhouse nổi giận.
–Bình tĩnh nào.
Nghe thế Waterhouse phát cáu. Ông nhảy dựng lên. Sau một lúc cố lấy hơi thở, ông nói:
-Nghe này Pollock, anh phải về nước. Tôi không chứa anh nữa. Anh đã làm cho tôi mệt mỏi quá rồi….
Pollock nói, nhìn thẳng trước mặt.
-Đừng nóng. Tôi đã sẳn sàng đi rồi.
Waterhouse bình tĩnh lại, ông ngồi xuống chiếc ghế đẩu.
-Được rồi, tôi không muốn gây gổ nhưng anh phải biết người ta bực mình như thế nào khi công việc của mình bị ngăn trở bởi một chuyện như thế này. Tôi sẽ đi với anh tới Sulyma và đưa anh lên tàu an toàn…
-Ông không phải mất công như thế. Tôi đi một mình được. Đi từ đây.
-Anh sẽ không đi xa được đâu. Anh chưa hiểu bọn Porroh này.
-Làm sao tôi biết được là cô ta thuộc về tên Porroh chứ?
-Ấy, nhưng mà cô ta là của hắn và anh không làm sao được nữa rồi. Đi một mình à! Tôi thắc mắc không biết họ sẽ làm gì anh? Dường như anh không hiểu rằng bùa chú của bọn Porroh cai quản xứ sở này, là luật lệ, là tôn giáo, là hiến pháp, là thuốc men và là phép lạ của nó. Họ chỉ định các tù trưởng. Ngay cả Ủy Ban Điều Tra dù cố hết sức mình cũng không soi tỏ được bọn này. Không chừng hắn sẽ xúi giục Awajale, tù trưởng vùng này chống lại chúng ta. May mắn bọn phu khuân vác của chúng ta đều là dân Mendi. Chúng ta sẽ phải dời trại….Mẹ kiếp, Pollock, đã vậy anh lại còn bắn trật hắn nữa.
Ông cúi đầu suy nghĩ và các ý nghĩ của ông dường như cũng bất đồng với nhau. Sau cùng ông đứng dậy cầm lấy súng trường. Lúc đi ra ông nói vói lại sau lưng:
-Nếu là anh thì tôi sẽ cẩn thận hơn. Để tôi ra xem có biết được gì thêm về chuyện đó không.
Pollock ngồi lại trong chòi suy ngẫm. Vừa nhồi ống píp anh vừa nói với chính mình một cách hối tiếc.
-Mình chỉ thích hợp với đời sống văn minh. Mình trở về London hay Paris sớm chừng nào tốt chừng đó.
Mắt anh lướt trên chiếc thùng đã đóng khằn trong đó Waterhouse đựng những mũi tên không gắn lông có tẩm thuốc độc mà họ đã mua ở vùng của dân Mendi. Anh nói một cách dữ dằn:
-Ước gì mình đã bắn trúng tên khốn kiếp ở chổ nhược.
Sau một lúc lâu Waterhouse trở lại, và mặc dầu Pollock cố tra gạn, ông không nói nhiều. Dường như tên Porroh là một nhân vật có hạng trong cái xã hội thần bí đó. Cả làng có vẽ quan tâm nhưng không đe dọa. Chắc tên phù thủy đã đi vào rừng. Ông ta là một thầy phù thủy có tiếng.
-Dĩ nhiên là ông ta đang sắp đặt một chuyện gì đó. Waterhouse nói rồi im lặng.
-Nhưng ông ta có thể làm được gì chứ?
Pollock hỏi.
Sau một lúc im lặng Waterhouse đáp:
-Tôi phải đem anh đi khỏi đây mới được. Phải có tính chuyện gì chứ, nếu không, họ không giữ im lặng như vậy đâu.
Pollock muốn biết họ tính làm chuyện gì?
-Nhảy múa quanh những đầu lâu và nấu một chất hôi thúi trong một nồi đồng.
  Waterhouse nói.
Pollock muốn biết rõ chi tiết nhưng Waterhouse lại nói mơ hồ. Pollock cố tra gạn, cuối cùng Waterhouse nổi nóng. Ông đáp sau câu hỏi thứ 20 của anh là tên Porroh sẽ làm gì.
-Làm sao tôi biết được chứ? Hắn đã muốn giết anh trong căn chòi thì bây giờ tôi nghĩ hắn sẽ tìm cách khác hay ho, kỹ lưỡng hơn. Anh sẽ thấy ngay mà. Thật ra tôi cũng không muốn làm cho anh thêm sợ, có thể những điều mình nghĩ chỉ là bâng quơ mà thôi.
Tối hôm đó lúc họ đang ngồi bên đống lửa, Pollock lại cố tra gạn Waterhouse về những phương pháp bọn Porroh hay dùng, nhưng ông chỉ nói:
-Tốt hơn nên đi ngủ đi. Ngày mai chúng ta lên đường sớm. Anh cần phải tỉnh táo.
-Nhưng hắn sẽ dùng cách nào?
-Không biết được. Họ là một giống dân thiện nghệ, họ biết nhiều cách chế biến thuốc. Tốt hơn anh nên hỏi thằng lai Shakespeare, bảo nó nói.
Bỗng một ánh chớp và một tiếng “pằng” nặng nề phát ra từ bóng tối sau những căn chòi, một viên đạn đất sét bay lướt qua đầu Pollock. Thật quá lắm!
Bọn đen và lai giống ngồi tán gẫu bên đống lửa riêng chồm dậy, một tên bắn vào bóng tối.
Waterhouse vẫn ngồi yên, lặng lẽ nói:
-Tốt hơn anh nên đi vào chòi.
Pollock đứng lên cạnh đống lửa và rút súng ra. Đánh nhau, ít nhất, anh không sợ điều đó. Nhưng một người ở trong bóng tối có nhiều lợi thế hơn. Nhận thấy lời khuyên hữu lý của Waterhouse, anh đi vào chòi nằm xuống.
Ngủ được chút nào thì anh lại nằm mơ, những giấc mơ đủ loại, nhưng hầu hết là anh mơ thấy mặt tên Porroh đảo ngược lúc hắn chạy ra cửa chòi và khom người nhìn ngược anh qua kẽ tay chống. Lạ một điều là sao cái hình ảnh thấy thoáng qua đó lại cứ bám vào trí não của anh. Thêm một điều nữa là anh thấy khó chịu vì những cơn đau là lạ trong tứ chi.
Trong ánh sương mờ trắng xóa buổi sớm mai lúc họ đang chất hàng lên ca-nô thì bỗng một mũi tên có móc nhọn cắm phập trên mặt đất sát chân Pollock. Bọn phu phát các bụi rậm chung quanh đó một cách chiếu lệ nhưng không bắt được ai.
Sau hai việc xảy ra đó, mọi người trong đoàn tránh xa Pollock, còn anh thì lần đầu tiên trong đời lại muốn trà trộn vào đám phu mọi. Waterhouse ngồi một ca-nô, còn Pollock mặc dầu rất muốn trò chuyện thân mật với ông lại phải đi một ca-nô khác. Anh bị bỏ ngồi một mình ở mũi thuyền và phải khó khăn lắm anh mới bắt được bọn phu vốn không ưa anh cho ca-nô chạy ở giữa sông, cách xa hai bờ khoảng 100 mét Anh hoặc hơn. Tuy nhiên, anh bắt Shakespeare, tên lai giống ở Freetown, lên ngồi ở mũi thuyền với anh và nói cho anh biết về bọn Porroh. Tên lai không làm khác hơn được nên đã kể cho anh nghe với ít nhiều khoái trá.
Ngày trôi qua, ca-nô lướt nhẹ trên mặt sông giữa những thân cây gãy ngã, cây papyrus (loại cây dùng làm giấy), cây dừa nước và về bên trái là rừng cây mangrove giữa đầm lầy mà chốc chốc người ta nghe từ bên kia rừng vẳng lại tiếng sóng gầm của Đại Tây Dương. Bằng một giọng Anh lơ lớ nhẹ nhàng, Shakespeare kể bọn Porroh có thể tạo ra những cơn mê như thế nào; làm cho người ta khô cằn đi dưới sự hiểm ác đó như thế nào; gửi đi những ác mộng ra sao; đã tra tấn rồi giết các con trai của Ijibu như thế nào;họ đã bắt cóc một lái buôn da trắng ở Sulyma vì tội đối xử tàn tệ với một người Porroh như thế nào, và khi tìm được ông ta thì xác ông ta ra làm sao. Cứ sau mỗi đoạn kể Pollock lại nguyền rủa việc thiếu giáo sĩ đã để xảy ra tình trạng đó và nguyền rủa cả chính phủ Anh đã ù lì trong việc cai trị cái thế giới đen tối Sierra Leone này. Chạng vạng tối họ đến hồ Kasi và đã cắm trại qua đêm trên đảo khiến một đám cá sấu phải rời đi.
Ngày hôm sau họ đến Sulyma và ngửi được mùi gió biển, nhưng Pollock phải ở lại đó năm ngày trước khi có thể đến được Freetown. Waterhouse cho rằng anh khá an toàn ở đây vì ở trong vòng ảnh hưởng của Freetown nên để anh lại đó và quay về Gbemma với đoàn thám hiểm. Pollock trở nên rất thân thiện với Perea, một lái buôn da trắng duy nhất ở Sulyma, anh thân thiện với ông ta đến nổi đi cùng ông ta khắp nơi. Perea là một người Bồ Đào Nha nhỏ thó đã từng sống ở Anh quốc nên coi sự thân  thiện của anh chàng người Anh với mình là một vinh dự lớn lao.
Suốt hai ngày không có chuyện gì khác lạ xảy ra, hầu hết thì giờ Pollock cùng chơi Nap với Perea vì đó là trò chơi duy nhất mà họ cùng biết—và Pollock đã mắc nợ Perea với trò chơi này. Vào tối ngày thứ nhì Pollock lại biết đến sự hiện diện của tên Porroh ở Sulyma vì bị một vết thương sướt thịt trên vai do một cục sắt giũa nhọn bắn từ xa lại nên khi đụng vào anh thì nó đã yếu đi, nhưng cũng đủ để cho anh biết ý nghĩa của nó. Suốt đêm đó Pollock ngồi trên võng, tay cầm súng và sáng hôm sau anh đã kể lại một phần câu chuyện cho ông bạn Bồ Đào Nha nghe.
Perea coi câu chuyện đó rất nghiêm trọng vì ông ta biết rành phong tục địa phương. Ông ta nói:
-Anh phải biết đây là một vấn đề cá nhân, một sự báo thù và hắn ta vội vã vì anh sắp rời khỏi đây. Không một tên bản xứ hay lai giống nào dám xen vào việc của hắn đâu—trừ phi là anh trả hậu cho chúng. Nếu gặp hắn bất ngờ anh có thể bắn hắn được nhưng hắn cũng có thể bắn anh. Rồi lại còn vấn đề bùa phép nữa. Dĩ nhiên tôi không tin chuyện đó, mê tín dị đoan thôi, nhưng thật khó chịu khi nghĩ rằng bất cứ mình ở đâu, luôn có một tên mọi đen cứ thỉnh thoảng vào một đêm trăng sáng lại nhảy nhót quanh đống lửa để gửi đến cho mình những cơn ác mộng...Mà anh đã có những cơn ác mộng nào chưa?
-Cũng có.
  Pollock đáp.
–Tôi cứ mãi thấy cái đầu đảo ngược của hắn nhăn răng cười với tôi giống lúc ở trong chòi, và cứ đến gần rồi lại lùi xa, rồi lại đến gần. Chẳng có gì phải sợ nhưng không biết sao nó lại làm cho tôi tê người đi vì sợ hãi trong giấc ngủ. Những giấc mơ là những điều kỳ lạ, lúc nào tôi cũng biết đó chỉ là một giấc mơ, nhưng không làm sao thoát ra khỏi được.
-Có lẽ chỉ là tưởng tượng.
Perea nói.
  –Bọn phu của tôi còn nói là Porroh có thể gửi rắn đến. Gần đây anh có thấy con rắn nào không?
-Chỉ có một con. Tôi giết nó hồi sáng này trên nền nhà gần võng tôi nằm, lúc thức dậy tôi xém đạp nhằm nó.
Perea  trấn an.
-A, dĩ nhên chỉ là một sự trùng hợp. Dầu sao anh cũng nên đề phòng. Rồi còn những cơn đau nhức trong xương nữa.
-Tôi tưởng đó là do chướng khí.
-Cũng có thể. Anh bị từ bao giờ?
Pollock sực nhớ anh nhận ra chứng đau nhức này ngay cái đêm sau vụ xảy ra trong chòi. Perea nói:
-Theo tôi thì hắn không muốn giết anh, ít nhất là hắn chưa muốn. Tôi nghe nói phương pháp của chúng là nhát và làm cho người ta lo lắng bằng những giấc mơ, bằng những vụ bắn hụt, bằng đau nhức xương cốt, bằng những ác mộng cho đến khi người đó cảm thấy chán sống. Dĩ nhiên chỉ là lời đồn đại. Anh đừng lo lắng gì cả…Tuy nhiên tôi cũng thắc mắc không biết hắn định làm gì nữa đây?
Pollock nói, buồn bã nhìn những lá bài trơn láng mà Perea đang đặt trên bàn.
-Tôi sẽ phải làm một điều gì đó trước hắn. Danh dự tôi không cho phép tôi để bị theo dõi, bị bắn lén và chịu khổ sở như vầy. Tôi thắc mắc không biết bùa chú của bọn Porroh có làm rối loạn cái may mắn của ông khi chơi bài không? Anh nhìn Perea vẽ nghi ngờ.
-Hầu như vậy. Họ là một giống dân khá thú vị.
Perea đáp thân mật vừa xóc bài.
Chiều hôm đó Pollock giết được hai con rắn trong võng của anh và lũ kiến đỏ bò quanh phòng anh dường như gia tăng dân số một cách đặc biệt. Những việc đó khiến anh nổi điên dẫn đến việc anh đã thuê một tên vô lại tộc Mendi mà trước đó anh đã có tiếp xúc làm một việc cho anh. Tên Mendi đưa anh xem một con dao găm bằng sắt nhỏ và chỉ nơi sẽ được đâm vào ở cổ bằng một cách làm cho anh phải run lên, và để trả công hắn, anh hứa sẽ cho một khẩu súng hai nòng có báng chạm trổ.
Buổi tối khi Pollock và Perea đang chơi bài thì tên Mendi đến mang theo một gói vải địa phương sũng máu. Pollock vội vã nói:
-Không phải ở đây…Không phải ở đây…
Nhưng không còn kịp vì hắn đã mở gói vải và thảy cái đầu tên Porroh lên bàn. Cái đầu tưng từ trên bàn xuống nền nhà, để lại một vệt máu dài trên những lá bài, lăn vào một góc nhà rồi dừng lại lộn ngược, mắt nhìn trừng trừng vào Pollock.
Khi cái đầu rơi lên những lá bài, Perea nhảy dựng lên và trong cơn kích động đã nói líu lo bằng tiếng Bồ Đào Nha. Tên Mendi nghiêng đầu chào, mảnh vải đỏ máu trong tay. Hắn la to:
-Khẩu súng.
Pollock nhìn chằm chằm vào cái đầu ở góc nhà. Cái nhìn và nét mặt của nó giống y như anh đã thấy trong các giấc mơ. Khi anh nhìn nó dường như có một cái gì “bựt” trong óc anh.
Perea đã bình tĩnh và nhớ lại tiếng Anh của mình.
-Anh đã thuê người giết hắn à? Anh không tự mình giết hắn sao?
-Tại sao tôi lại phải tự mình chứ?
-Nhưng như vậy thì hắn không còn có thể “giải” nữa được.
-Giải cái gì chứ?
  Pollock hỏi.
-Những lá bài này hư cả rồi.
-Ông nói giải là giải cái gì?
-Đến Freetown anh phải gửi cho tôi một bộ bài mới. Ở đó anh có thể mua được.
-Nhưng giải cái gì?
-Đó chỉ là mê tín dị đoan, tôi quên rồi…Bọn đen nói rằng nếu các phù thủy, chắc hắn là phù thủy--chỉ là chuyện tầm phào…Anh phải làm cho tên Porroh “giải nó” đi, tức là giải bùa chú của hắn bỏ vào anh đi hoặc anh phải tự tay giết hắn…Tất cả chuyện này thật ngốc nghếch.
Pollock chửi thề và cứ nhìn chằm chằm cái đầu trong góc nhà. Anh nói:
-Tôi không chịu được cái nhìn trừng trừng đó.
Rồi bỗng anh chạy bổ lại đá nó một cái. Nó lăn ra độ vài mét rồi dừng lại lộn ngược như trước và vẫn nhìn anh trừng trừng. Perea nói:
-Nó xấu xí quá. Thật là xấu xi! Chúng nó rạch mặt bằng những con dao nhỏ.
Pollock định đá thêm cái nữa nhưng tên Mendi đã chạm vào tay anh và nói:
-Khẩu súng.
Hắn nhìn cái đầu vẽ lo lắng.
Pollock nói:
-Tao cho mày hai khẩu nếu mày chịu đem đồ quỷ này đi nơi khác.
Tên Mendi lắc đầu, cho biết là hắn chỉ muốn một khẩu là phần công của hắn thôi. Pollock dụ dỗ, dọa nạt chả nghĩa lý gì với hắn. Perea có một khẩu súng và ông ta bán ở mức lời 300%. Lấy được khẩu súng tên Mendi liền bỏ đi. Rồi Pollock, trái với ý muốn, lại quay nhìn cái vật trên nền nhà. Perea cười gượng:
-Buồn cười thật! Sao đầu hắn lại cứ lộn ngược? Óc của hắn chắc là nặng lắm, giống như con lật đật. Chừng nào đi anh nhớ đem nó theo. Anh có thể đem đi bây giờ. Bài hư cả rồi. Ở Freetown có một người chuyên bán bài. Phòng dơ bẩn quá. Đáng lẽ anh phải tự mình giết hắn.
Pollock gượng đứng dậy và đến nhặt cái đầu lên. Anh máng nó vào cái  móc treo đèn ở trần nhà giữa phòng anh và đi đào một cái lổ để chôn nó. Anh nghĩ rằng mình đã máng tóc của nó lên cái móc, nhưng có lẽ anh đã lầm vì khi trở về thì anh thấy nó treo ngược cổ lên.
Trước lúc mặt trời lặn anh chôn nó phía bắc của căn nhà anh đang ở, như thế để buổi tối khi anh từ nhà Perea về sẽ không phải đi ngang qua nó. Trước khi đi ngủ anh giết được hai con rắn. Giữa khuya anh giật mình thức giấc vì nghe có tiếng lạch bạch và một vật gì soàn soạt trên nền nhà. Anh ngồi êm dậy và mò dưới gối lấy khẩu súng. Tiếp theo là một tiếng gừ, anh bắn ngay vào chổ phát ra âm thanh đó, có tiếng ăng ẳng và một hình thù đen chạy băng qua cửa dưới ánh sáng xanh mờ ảo.
-Một con chó.
  Pollock nói và nằm xuống ngủ lại.
Sáng sớm hôm sau anh thức dậy với một cảm giác mệt mỏi. Những đau nhức mơ hồ trong xương cốt anh lại xuất hiện. Anh nằm một lúc lâu nhìn bầy kiến đỏ bò qua lại trên trần nhà và rồi khi trời bắt đầu sáng rõ hơn, anh nhìn qua bìa võng và thấy một vật đen đen trên nền nhà. Anh giật nảy mình mạnh đến nổi chiếc võng lật nghiêng thảy anh văng xuống đất.
Anh thấy mình nằm cách cái đầu tên Porroh khoảng một mét. Nó đã bị con chó moi lên và gặm nát lổ mũi, kiến và ruồi bu đầy. Một sự trùng hợp lạ lùng là nó vẫn nằm lộn ngược và vẫn với cái vẽ độc ác dữ tợn trong đôi mắt đảo ngược.
Pollock ngồi bất động nhìn chằm chằm cái đầu lâu một lúc rồi anh đứng dậy đi vòng tránh xa nó và ra khỏi nhà. Ánh mặt trời trong sáng, hoa quả lay động dưới làn gió và chổ chôn cái đầu trống hoác với dấu chân chó bao quanh khiến anh nhẹ nhõm đầu óc đôi chút.
Anh kể lại cho Perea nghe như thể đó chỉ là một chuyện đùa—nhưng là chuyện đùa kể với cặp môi trắng bệch.
-Đáng lẽ anh không nên làm cho con chó hoảng sợ.
Perea nói với vẽ vui nhộn giả tạo.
Hai ngày tiếp theo, trong khi chờ đợi tàu đến, Pollock lo việc sắp xếp đồ đạc. Mặc dù không muốn đụng tới cái đầu, anh cũng ráng mang nó ra cửa sông và ném nó xuống dòng nước, nhưng nhờ một phép lạ nào đó nó thoát được lũ cá sấu và được thủy triều đẩy lên bãi bùn một khúc ở thượng lưu dòng sông, rồi lại được một tên lai Ả Rập nhặt được đem gạ bán cho Pollock và Perea làm kỷ vật ngay vào lúc đầu hôm. Trong ánh hoàng hôn ngắn ngủi tên bản xứ cứ cà rà mãi và càng lúc càng hạ thấp giá, cuối cùng hắn có vẽ sợ khi nhận thấy nỗi sợ hãi rõ rệt của hai người da trắng này đối với cái đầu liền bỏ đi. Khi đi ngang qua chòi của Pollock hắn liệng cái của nợ vào đó cho Pollock thấy vào sáng hôm sau.
Khi trông thấy cái đầu Pollock nỗi điên lên quyết định đem đốt nó. Trong ánh bình minh anh đi thẳng ra ngoài và trước khi nắng lên anh đã chất xong một đống cây, cỏ khô. Công việc của anh bị gián đoạn bởi tiếng còi của một chiếc ghe chèo từ Monrovia tới Bathurt đang chạy qua khe chận ở cửa sông.
-Cám ơn trời.  
Pollock nói với một nỗi vui mừng vô biên khi anh nhận ra ý nghĩa của tiếng còi. Với đôi tay run rẩy anh vội vã đốt dống cây khô, thảy cái đầu vào đó rồi đi sắp xếp đồ vào va-li và đến từ giã Perea.
Chiều hôm đó, với một cảm giác thoải mái tột cùng, Pollock nhìn bờ biển bằng phẳng của Sulyma nhỏ dần đi ở đằng xa. Khoảng cách trong làn sóng trắng dài hẹp dần đi như thể nó sắp đóng lại để chia cắt anh khỏi mọi rắc rối đã qua. Cái cảm giác sợ hãi và lo lắng bắt đầu vuột từ từ khỏi đầu óc anh. Ở Sulyma niềm tin về sự hiểm độc và về bùa chú của bọn Porroh hiện hữu trong không gian, cảm giác của anh về Porroh tràn ngập, đầy dọa nạt và ghê khiếp. Còn bây giờ rõ ràng là thế giới của Porroh chỉ là một thế giới nhỏ nhoi, một dãy đất đen nhỏ bé nằm giữa biển và vùng thượng du Mendi đầy mây mù xanh thẳm.
-Vĩnh biệt, Porroh,
Pollock nói, -Vĩnh biệt, và chắc chắn không phải chỉ là tạm biệt.
Thuyền trưởng chiếc tàu đến tựa vào lan can cạnh Pollock, chúc anh một buổi tối tốt đẹp và nhổ nước bọt xuống những bọt sóng với vẽ tự nhiên. Ông ta nói:
-Chuyến đi này tôi đã nhặt được trên bãi biển một cổ vật ngộ nghĩnh, kỳ lạ. Đó là một vật mà trước đây tôi chưa từng thấy có ở vùng này.
-Đó là cái gì thế?
  Pollock hỏi.
-Một cái đầu xông khói.
Thuyền trưởng đáp.
-Cái gì chứ?
-Cái đầu – đã được xông khói. Đầu của một tên Porroh, đầy đủ các vết sẹo khắc trên mặt. Ê, sao thế? Anh ổn chứ? Tôi không dè anh yếu bóng vía như vậy. Mặt mày xanh lè hà, tệ quá! Sao, anh khỏe chưa? Chúa ơi, trông anh buồn cười làm sao! Anh biết không, tôi bỏ cái đầu đó chung với vài con rắn vào trong cái chai rượu to mà tôi dùng để chứa những vật giống như vậy và đặt trong phòng tôi, kỳ lạ là cái đầu nó cứ nổi đảo ngược lên. Ê, anh bạn….
Pollock đã hét lên một tiếng to và lùa hai bàn tay vào tóc. Anh chạy bổ lại chổ để các dầm bơi với ý định vừa chớm là nhảy xuống biển nhưng rồi anh kịp nhận ra tình trạng của mình và quay trở lại phía viên thuyền trưởng. Thuyền trưởng nói:
-Này, Jack Philips, giữ anh ta cách xa tôi. Xê ra. Không được lại gần, anh bạn. Anh làm sao thế? Anh điên à?
Pollock đưa bàn tay lên đầu, có giải thích cũng bằng thừa.
-Tôi tin là có lúc tôi gần như điên lên, chỉ vì tôi bị đau ở đây. Xảy ra đột ngột, xin ông thứ lổi cho.
Anh trắng bệch và toát mồ hôi. Anh nhận thức rất rõ sự nguy hiểm nếu bị nghi ngờ là điên loạn. Anh buộc mình phải lấy lại lòng tin của thuyền trưởng bằng cách trả lời những câu hỏi thiện cảm của ông ta, ghi nhận các lời khuyên, ngay cả việc nhắp một ngụm rượu, xong, anh đặt một số câu hỏi về sở thích riêng của thuyền trưởng trong việc sưu tầm các vật lạ. Thuyền trưởng tả lại cái đầu thật tỉ mỉ. Trong suốt thời gian đó Pollock cứ phải cố gắng chống chọi lại cái hình ảnh vô lý là chiếc tàu trong suốt như pha lê và anh có thể nhìn thấy rõ ràng cái mặt đảo ngược đang nhìn mình từ căn phòng phía dưới boong tàu.
Anh trải qua một thời gian trên tàu còn tệ hại hơn lúc ở Sulyma. Suốt ngày mặc dầu đầu óc anh lúc nào cũng lảng vảng hình ảnh tên Porroh, anh cố chống chọi lại và tự kềm chế mình. Đêm đến ác mộng cũ lại trở về, cho đến khi với một cố gắng phi thường, anh buộc mình phải thức giấc, cứng người vì sợ hãi và một tiếng thét khàn còn trong cổ họng.
Anh dứt bỏ cái đầu thật sự lại Bathurst nơi anh sang tàu đi Teneriffe, nhưng anh không dứt bỏ được các giấc mơ và cái đau âm ỉ trong xương cốt. Đến Teneriffe Pollock chuyển sang một chiếc tàu hàng đi Cape nhưng cái đầu vẫn cứ theo anh. Anh đánh bài, chơi cờ và ngay cả đọc sách nhưng anh biết cái nguy hiểm của rượu nên tránh xa nó, vậy mà mỗi khi một bóng đen tròn hoặc một vật đen tròn lọt vào tầm nhìn của anh thì anh lại nhìn kiếm cái đầu và….thấy nó. Anh biết rõ là trí tưởng tượng của mình đã phản bội lại mình, vậy mà có lúc dường như chiếc tàu, hành khách, thủy thủ, biển rộng—tất cả đều là một phần của một tấm màn ma quái mờ ảo, treo, nhưng không che hết được giữa anh và một thế giới thực sự ghê khiếp. Rồi khi tên Porroh chường cái mặt dữ tợn của hắn qua tấm màn đó, đấy mới là sự thật không chối cãi được. Mỗi khi như vậy Pollock lại phải sờ mó các đồ vật, nếm hoặc nhai một thứ gì đó, đốt bàn tay mình bằng một que diêm hay đâm kim vào mình cho tỉnh táo.
Thế là chống chọi lặng lẽ và dữ dội với óc tưởng tượng bị kích thích của mình, Pollock về đến Anh quốc. Anh lên bờ ở Southampton và đi thẳng từ Waterloo đến ngân hàng của anh ở Cornhill bằng taxi. Tại đó anh thương lượng một vài công việc với viên quản lý trong một phòng riêng, và trong suốt thời gian đó cái đầu cứ treo lủng lẳng như một món đồ trang trí dưới bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch đen và máu nhỏ giọt trên tấm đan sắt để trước lò sưởi. Anh nghe rõ tiếng những giọt máu rơi và thấy cả  màu máu đỏ trên tấm đan sắt.
-Một cây dương xỉ đẹp.
Viên quản lý nói, nhìn theo hướng mắt của Pollock,
  -Nhưng nó làm cho tấm đan sắt bị rỉ sét.
-Đẹp. Đẹp lắm. Pollock nói.
–À, tôi sực nhớ ra, ông có thể giới thiệu cho tôi một bác sĩ chuyên khoa tâm thần không? Tôi bị chứng…a…ảo tưởng thị giác.
Cái đầu cười man rợ, dữ tợn. Anh ngạc nhiên là viên quản lý không nghe thấy điều đó, nhưng ông ta cứ nhìn anh chăm chăm.
Anh trở ra đường phố Cornhill với địa chỉ của một bác sĩ. Không thấy bóng một chiếc taxi nào cả, vì vậy anh đi về đầu đường phía tây và định qua đường ở phía đối diện Tòa Thị Sảnh. Ngay đối với người sinh trưởng ở London thì việc băng qua đường cũng không phải là dễ dàng vì các xe buýt, xe taxi, xe ngựa, xe thư nối đuôi nhau liên tục thành một hàng dài; còn đối với một người vừa từ vùng man dã Sierra Leone trở về thì việc băng qua đường là cả một vấn đề, nhất là khi một đầu lâu nhăn nhúm giống quả banh cao su Ấn Độ bổng từ đâu nhảy chòi vào giữa hai chân bạn để lại những vệt máu rõ ràng mỗi khi nó chạm đất thì bạn không thể nào tránh khỏi tai nạn được. Pollock nhấc cao chân lên để tránh nó và rồi đá vào cái đầu một cách giận dữ. Bỗng một vật gì đụng mạnh vào lưng anh rồi một cơn đau buốt chạy suốt cánh tay anh.
Anh đã bị cây cản của một xe buýt đụng phải và ba ngón của bàn tay trái bị móng ngựa đạp dập—đúng y những ngón mà anh đã bắn rụng khỏi bàn tay tên Porroh. Người ta lôi anh từ dưới chân ngựa ra và tìm thấy địa chỉ của vị bác sĩ trong bàn tay dập của anh.
Trong vài ngày các giác quan của Pollock tràn ngập mùi thuốc mê cay nồng và những lần giải phẩu công phu nhưng không gây chút đau đớn nào cho anh. Anh nằm yên và được người ta cho ăn uống, rồi anh lên cơn sốt nhẹ và rất khát nước, ác mộng cũ lại trở về. Chỉ khi nó trở về anh mới nhận ra là mình đã qua được vài ngày không có ác mộng.
-Nếu óc mình bị dập nát thay vì những ngón tay này thì có lẽ ác mộng sẽ tiêu tan.
Anh lẩm bẩm mắt nhìn chăm chú vào cái gối sậm màu đang bắt đầu biến dạng thành một cái đầu lâu.
Ngay khi có dịp Pollock kể cho vị bác sĩ biết tình trạng đầu óc của mình. Anh biết rõ là mình sẽ phát điên trừ phi một việc gì đó xảy ra để cứu  anh. Anh giải thích với bác sĩ là anh đã chứng kiến một vụ chặt đầu ở Dahomey và đã bị cái đầu đó ám ảnh. Dĩ nhiên là anh không muốn nói rõ sự việc. Vị bác sĩ có vẽ nghĩ ngợi, ông ngập ngừng hỏi:
-Khi còn nhỏ ông có được dạy dỗ về tôn giáo nhiều không?
-Ít lắm.
  Pollock đáp.
Nét mặt bác sĩ hơi cau lại.
-Không biết ông có nghe nói đến phép lạ ở Lourdres (Lộ Đức) không, mặc dầu có thể đó không phải là phép lạ?
-Tôi e  rằng chữa bệnh bằng đức tin không thích hợp với trường hợp của tôi.
Anh nói mắt nhìn cái gối lót trên ghế và thấy cái đầu nhìn anh cười quái đản làm các vết sẹo trên mặt nó co rúm lại. Vị bác sĩ hướng qua cách khác, với vẽ nghiêm nghị ông nói:
-Tất cả chỉ là tưởng tượng. Dầu sao đây cũng là một trường hợp có thể chữa bằng đức tin. Hệ thống thần kinh của ông bị yếu đi, tình trạng sức khỏe cùa ông đang ở giai đoạn dễ bị các ảo giác xâm nhập nhất. Ấn tượng vụ chặt đầu đã quá mạnh đối với ông. Tôi sẽ pha cho ông một hỗn hợp giúp tăng sức cho hệ thống thần kinh của ông—đặc biệt là bộ não. Ông cũng cần luyện tập thể dục.
-Tôi không thích hợp chút nào với việc chạy chữa bằng đức tin.
-Vì vậy chúng ta cần phải tìm động cơ thúc đẩy. Hãy tìm những vùng có không khí kích thích như: Tô Cách Lan, Norway, núi Alps…
-Cả Jericho nếu ông muốn, nơi mà Naaman đã đến. 
Pollock nói.
Tuy vậy, ngay khi các ngón tay anh lành lặn lại, anh cố gắng theo lời khuyên của bác sĩ. Bấy giờ đã là tháng 11. Anh thử chơi đá banh, nhưng với Pollock đó chỉ là trò chơi đá một cái đầu đảo ngược quanh sân cỏ. Anh chơi rất tệ, đá loạn xạ với một nỗi sợ hãi. Lúc người ta cho anh làm thủ môn thì mỗi khi banh sà xuống anh lại thét lên rồi nhảy tránh xa. Những chuyện xấu trước kia đã đẩy anh rời xa Anh quốc để lang thang đến vùng nhiệt đới khiến anh xa hẳn mọi tiếp xúc ngoại trừ với đám bạn trai, giờ đây cái thái độ ngày càng kỳ lạ của anh lại khiến các bạn trai cũng xa lánh anh.
Cái đầu bây giờ không chỉ là một ảo giác của mắt nữa mà nó còn trêu chọc và nói chuyện cả với anh. Một nỗi sợ hãi khủng khiếp tràn ngập đến nỗi khi anh chụp lấy cái đầu thì nó không phải chỉ là một món đồ vật nào đó mà là một cái đầu lâu thật sự. Khi chỉ có một mình, anh nguyền rủa, thách thức, khẩn khoản nó. Một hoặc hai lần mặc dù cố gắng kềm chế nhưng anh đã bật nói với nó trước mặt người khác. Anh thấy nỗi nghi ngờ ngày càng gia tăng trong mắt của những người chung quanh—chủ nhà của anh, người làm của anh…
Một hôm vào đầu tháng 12, Arnold, anh họ của Pollock đến thăm và kéo anh ra ngoài nhìn vào gương mặt vàng bệch thỏn đi của anh. Pollock thấy hình như cái nón anh họ cầm nơi tay không phải là cái nón mà là một đầu lâu Gorgon đảo ngược đang chằm chằm nhìn anh thách đố. Tuy vậy anh vẫn cương quyết chống chọi lại. Anh lấy xe đạp từ Wandsworth đến Kingston trên con lộ đóng băng và thấy cái đầu lăn theo bên cạnh để lại một vệt đen dài đằng sau. Anh cắn răng đạp nhanh hơn. Khi anh đạp xuống đồi về hướng công viên Richmond thì bỗng dưng cái đầu lăn ra trước bánh xe của anh, đột ngột quá khiến anh không kịp suy nghĩ, quẹo ngang để tránh nó và té bổ nhào vào một đống đá và bị gãy cổ tay trái.
Kết cục đến vào buổi sáng Giáng Sinh. Suốt đêm anh lên cơn sốt, dãy băng dùng bó cổ tay trái anh như một dãy băng lửa, các giấc mơ của anh rõ ràng và khủng khiếp hơn bao giờ hết. Trong ánh sáng nhợt nhạt lạnh lẽo trước khi mặt trời lên, anh ngồi dậy trên giường và trông thấy cái đầu nằm trên giá nơi đặt một cái lọ bằng đồng.
-Mình biết đó chỉ là cái lọ đồng.
Anh lẩm bẩm với một mối ngờ vực lạnh lẽo trong lòng. Cuối cùng không chịu được sự ngờ vực, anh chậm rãi xuống giường, run rẩy tiến về phía chiếc lọ tay giơ ra phía trước. Chắc chắn anh sẽ chạm vào chất đồng lạnh lẽo và biết ngay rằng trí tưởng tượng đã lừa gạt mình. Cuối cùng sau một hồi lâu lưỡng lự, những ngón tay anh chạm vào gò má đầy sẹo của đầu lâu, anh giật nhanh tay lại run rẩy từng cơn. Giai đoạn cuối đã đến, xúc giác cùa anh đã phản bội anh.
Run rẩy, va mạnh vào giường, dùng chân không đá mạnh vào đôi giày của mình, cảm giác đầy rối loạn, anh lần đến bàn mở tủ lấy dao cạo rồi ngồi xuống giường, nhìn vào gương anh thấy mặt mình nhợt nhạt, chao dao đầy nổi cay đắng thất vọng tột cùng.  
Anh nhớ lại những diễn biến trong cuộc đời mình. Đến gia đình khốn khổ của mình, đến những ngày đi học còn khốn khổ hơn, đến những năm dài tệ hại anh đã sống từ lúc đó, từ hành động xấu xa ích kỷ này đến hành động xấu xa khác. Bây giờ tất cả đều rõ ràng và đáng phỉ nhổ, tất cả sự điên rồ, nhơ bẩn đó trong ánh sáng lạnh lẽo buổi ban mai. Anh nhớ đến căn chòi, đến cuộc đánh nhau với tên Porroh, đến cuộc đào tẩu theo dòng sông tới Sulyma, đến tên sát nhân Mendi và cái bọc đẫm máu cùa hắn, đến những cố gắng vô hiệu của anh để tiêu hủy cái đầu, đến sự gia tăng của ảo giác. Những gì anh nhìn thấy thật ra là ảo giác, anh biết rõ như vậy, chỉ là ảo giác mà thôi! Trong một lúc anh chụp lấy hy vọng đó, anh quay lại và kìa trên giá để cái lọ đồng cái đầu đảo ngược đang nhăn răng cười với anh…Dùng những ngón tay cứng nhắc của bàn tay đang buộc băng anh dò nơi cổ tìm cuống họng….
Buổi sáng thật lạnh và lưởi dao cạo cũng lạnh như băng.
 
Xong ngày 9 tháng 2, 1983
Hoàng_Yến

Xem Tiếp: ----