- 2 -


- 7 -
CHIẾC GIƯỜNG TẦNG TRÊN

( THE UPPER BERTH by F.MARION CRAWFORD )

     ng Brisbane nói:
-Trước kia tôi là một hành khách đã từng vượt Đại Tây Dương nhiều lần, tôi cũng có những cái ưa thích riêng của mình. Đa số người ta đều có những ưa thích riêng. Tôi đã thấy một ông kia chờ ở ba Broadway 45 phút để đón một chiếc xe mà ông ta thích. Tôi tin rằng ông chủ ba đó cũng kiếm được ít nhất 1/3 số lợi tức nhờ vào cái sở thích của ông kia. Tôi cũng có thói quen mỗi khi vượt đại dương thường chờ cho được một chiếc tàu đặc biệt nào đó. Chỉ có một lần trong đời thói quen của tôi đã gây rắc rối cho tôi. Tôi còn nhớ rất rõ vào một buổi sáng ấm áp tháng sáu tôi vội vã lên tàu, chiếc KAMTSCHATKA đã là một trong những chiếc  tàu ưa thích của tôi, tôi nói đã vì bây giờ nó không còn hiện hữu nữa. Không một điều gì có thể khiến tôi đặt chân lên chiếc tàu đó nữa, mặc dầu boong tàu rất sạch sẽ và những giường ngủ đều có hai tầng. Nó khá tiện nghi nhưng tôi sẽ không bao giờ đặt chân lên nó nữa.
Tôi lên tàu và gọi một người bồi tàu có cái mũi đỏ và bộ râu cá chốt cũng đỏ mà tôi trông rất quen.
Bằng giọng của một người coi việc vượt Đại Tây Dương cũng thường như việc uống một ly whisky ở phố Delmonico, tôi nói:
-Cho tôi phòng 105, giường dưới.
Người bồi tàu cầm lấy xách tay và áo khoác của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được vẽ mặt của anh ta. Tôi không lưỡng lự mà nói rằng, anh ta không hề xanh mặt, nhưng vẽ mặt của anh ta khiến tôi đoán rằng anh ta sắp khóc hay nhảy mũi hoặc sắp đánh rơi xách tay của tôi, và vì xách tay của tôi có chứa hai chai rượu sherry rất xưa do ông bạn cũ Snigginson Van Pickyns biếu để tôi mang theo trong cuộc hành trình, tôi cảm thấy vô cùng lo ngại. Nhưng trái với suy đoán của tôi, anh bồi không hề khóc, nhảy mũi hay đánh rơi gì cả. Anh ta chỉ lầm bầm: -A, khổ cho tôi! Rồi quay lưng dẫn đường.
Tôi nghĩ có lẽ anh ta vừa mới uống rượu nhưng tôi không nói gì, chỉ đi theo sau. Phòng 105 ở về phía mạn tàu và phòng cũng chẳng có gì đặc biệt. Chiếc giường, giống như các giường khác trên chiếc Kamtschatka, là giường tầng. Phòng khá trống, có một bồn rửa mặt, một hàng móc bằng gỗ nâu. Trên mặt nệm những chiếc mền được xếp cẩn thận, không thấy có khăn lông. Các chai nước chứa đầy một thứ chất lỏng trong có hơi pha chút màu nâu và toát ra một mùi không mấy thú vị cho khứu giác giống như mùi dầu máy. Hai tấm màn có cái màu trông buồn thảm che hết phân nửa giường trên và ánh mặt trời tháng sáu lờ mờ chiếu một chút ánh sáng yếu ớt lên trên cảnh lẻ loi đó. Ôi, sao mà tôi ghét cái phòng đó tệ!
Người bồi tàu đặt hành lý tôi xuống rồi quay nhìn tôi, dường như anh ta muốn đi cho rãnh, có lẽ là để tìm thêm hành khách và được thêm tiền. Việc cho tiền boa lúc nào cũng là một khởi điểm tốt cho công việc của mình vì vậy tôi đã boa anh ta ít đồng shilling liền ngay đó. Bỏ tiền vào túi anh ta nói:
-Tôi sẽ cố gắng hết sức để làm cho ông được thoải mái.
Tuy nhiên trong giọng nói anh ta có một vẽ như nghi ngại khiến tôi ngạc nhiên. Hay có lẽ tiền boa cho anh ta đã tăng lên và anh ta không vừa ý với mấy đồng của tôi?! Nhưng tôi nghĩ hẳn là chính anh ta cũng sẽ an ủi rằng “ Dầu sao cũng đủ một ly rượu”
Tuy nhiên tôi đã nghĩ lầm và đã phán đoán anh ta không đúng. Suốt ngày hôm đó không có chuyện gì đáng nói đến. Tàu rời bến rất đúng giờ và vì thời tiết lúc ấy nóng bức nên khi tàu chạy thật là thú vị, tàu di động mang đến một luồng gió thật tươi mát. Ai cũng biết ngày đầu ở biển như thế nào. Người ta đi lại trên boong nhìn mặt nhau và thỉnh thoảng gặp được những người quen mà họ không dè là có mặt trên tàu. Lại thêm nổi băn khoăn về thức ăn không biết ngon hay dở cho đến khi đã ăn được hai bửa ăn thì vấn đề đó mới trôi qua. Rồi lại tới nổi băn khoăn về thời tiết cho đến khi tàu đã qua khỏi đảo Lửa. Lúc đầu các bàn ăn đều đầy nghẹt rồi bổng dưng thưa dần. Nhiều người mặt tái xanh vụt khỏi chổ ngồi vội vàng chạy ra cửa khiến các thủy thủ đã từng đi biển thở phào nhẹ nhõm vì người kế bên mình đã bị say sóng chừa chổ cho mình rộng rãi ăn uống thoải mái.
Cuộc vượt Đại Tây Dương nào cũng rất giống nhau và chúng ta những người đi biển thường không coi việc vượt biển là một điều hay ho hay lý thú gì. Cá ông và băng sơn quả là những thứ hấp dẫn nhưng cá ông thì con nào cũng giống nhau và băng sơn thì hiếm khi được thấy gần. Đối với đa số những người đi biển thì cái giây phút thú vị nhất trong ngày là khi đã rảo một vòng cuối trên boong, đã hút xong điếu xi-gà cuối và cảm thấy có thể vào phòng ngủ với một đầu óc thư thả.
Vào cái đêm đầu tiên trong chuyến vượt biển đó tôi cảm thấy thật lười biếng nên đã đi ngủ sớm hơn thông thường. Khi bước vào phòng tôi ngạc nhiên thấy rằng mình có một bạn đồng hành. Một chiếc xách tay rất giống của tôi nằm bên góc đối diện và trên giường tầng trên đặt một chiếc chăn xếp gọn gàng với một cây gậy và một cây dù. Tôi thấy thất vọng vì đã hy vọng được ở một mình, nhưng tôi thắc mắc không biết người bạn đồng hành của mình như thế nào, vì vậy tôi quyết định nhìn xem ông ta.
Tôi lên giường chưa được bao lâu thì ông ta vào phòng. Ông ta rất cao, rất ốm, rất xanh với tóc và râu mép màu cát ngà và cặp mắt xám không chút máu. Tôi nghĩ ông ta có cái vẽ khó mô tả, loại người mà bạn có thể gặp ở khu Wall Street nhưng không sao đoán được rõ ràng ông ta làm gì ở đó, hoặc loại người thường có mặt ở Quán café Ăng-lê, hình như chỉ có một mình và luôn uống sâm-panh. Bạn cũng có thể gặp loại người này ở trường đua nhưng ông ta sẽ có vẽ như không làm gì ở đó cả. Ăn mặc hơi lố, hơi kỳ cục một chút, thường có ba hoặc bốn hạng người này trên một chiếc tàu biển.
Tôi quyết định không thèm làm quen với ông ta và nhắm mắt ngủ tự nhủ là sẽ để ý các thói quen của ông ta hầu có thể tránh gặp mặt ông ta. Nếu ông ta dậy sớm, tôi sẽ dậy trễ. Nếu ông ta đi ngủ trễ, tôi sẽ đi ngủ sớm. Tôi không cần quen biết ông ta. Nếu bạn nói chuyện với loại người đó một lần thì họ sẽ đến gặp bạn hoài. Tội nghiệp! Tôi không cần phải nghĩ bao nhiêu chuyện về  ông ta như thế vì tôi không bao giờ gặp lại ông ta sau cái đêm đầu tiên đó ở phòng 105.
Đang ngủ ngon tôi bổng giật dậy vì một tiếng động mạnh. Qua tiếng động hẳn là ông bạn cùng phòng với tôi đã nhảy bật từ trên giường xuống sàn phòng. Tôi nghe tiếng ông ta mở chốt cửa và cửa bật ra ngay, rồi tôi nghe tiếng chân ông ta chạy thật nhanh theo hành lang bỏ cửa phòng mở toát đằng sau. Tàu đang bị sóng nhồi và tôi  lắng nghe xem ông ta có loạng choạng hoặc bị té ngã không, nhưng không, ông ta chạy như thể để cứu mạng của mình vậy. Tàu bị  sóng nhồi  nên cửa phòng va tới va lui khiến tôi bực mình vì tiếng động khó chịu đó phải leo xuống giường  đóng cửa lại, rổi lần dò trong bóng tối trở lại giường nằm. Tôi ngủ lại ngay và không biết mình ngủ được bao lâu.
Khi tôi thức giấc trời hãy còn tối và tôi nghe một cảm giác lạnh khó chịu, hình như là không khí có hơi ẩm ướt. Chăc các bạn cũng biết khi phòng tàu bị ướt nước biển nó có mùi lạ như thế nào.  Tôi kéo mền trùm thật kỹ và ngủ lại định bụng hôm sau sẽ dùng ngôn từ mạnh bạo để phàn nàn về việc đó. Tôi nghe tiếng trăn trở của ông khách tầng trên. Có lẽ ông ta về phòng lúc tôi ngủ mê. Có lúc nào đó hình như tôi nghe tiếng ông ta rên rỉ và tôi cho là ông ta bị say sóng. Thật là khó chịu khi bạn nằm ở tấng dưới. Tuy vậy tôi vẫn ngủ  được và ngủ mãi đến sáng sớm hôm sau.
Buổi sáng tàu lắc lư nhiều hơn tối qua và làn ánh sáng nhạt chiếu qua khung cửa kiếng tròn của phòng ánh lên từng lúc tùy theo từng đợt nhồi của sóng khiến mặt kiếng lúc thì hướng về mặt biển lúc lại quay ngược lên trời. Trời thật lạnh, điều này lạ đối với tháng sáu. Tôi quay đầu nhìn khung cửa tròn và rất đổi ngạc nhiên thấy nó đã được mở ra và cánh cửa được gài vào vách tàu chặt chẽ. Tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã chửi to lên rồi ngồi dậy đến đóng nó lại.
Lúc quay lại tôi liếc nhìn lên giường trên thấy hai cánh màn đã khép sát lại, hẳn ông bạn đồng phòng cũng cảm thấy lạnh như tôi. Căn phòng không được tiện nghi và lạ một điều là tôi không còn ngửi thấy mùi nước biển ẩm ướt đã làm tôi khó chịu trong đêm nữa. Tôi thấy là mình đã ngủ quá đủ rồi và ông bạn đồng phòng thì vẫn còn ngủ, đây là dịp may hiếm có để tránh gặp mặt ông ta, vì vậy tôi mặc đồ ngay và đi lên boong.   
Trời ấm áp và có mây, nươc biển có mùi dầu. Tôi lên đến boong là đúng 7g- trễ hơn là tôi tưởng. Tôi đi ngang vị bác sĩ đang hít thở  làn không khí buổi ban mai. Anh  là một người trẻ tuổi ở miền tây Ái Nhĩ Lan, một người khỏe mạnh với mái tóc đen và cặp mắt xanh đang trên đà phát phì. Anh có cái vẽ trẻ trung yêu đời trông khá hấp dẫn.
Để tự giới thiệu tôi nói:
-A, một buổi sáng đẹp trời!
Anh nhìn tôi vẽ thú vị.
-Vâng, một buổi sáng đẹp và cũng không đẹp. Tôi nghĩ nó không đẹp gì lắm.
-À, phải, cũng không đẹp gì lắm.
Tôi đáp và nói tiếp.
-Tối qua tôi đã nghĩ rằng trời lạnh quá, nhưng khi nhìn quanh mới hay cửa tròn đã được mở ra. Lúc đi ngủ tôi quên không để ý xem, và căn phòng cũng ẩm ướt nữa.
-Ẩm ướt à?  Anh hỏi.
- Phòng ông ở đâu?
- Phòng 105.
Tôi  ngạc nhiên thấy anh giật mình và nhìn sửng tôi. Tôi hỏi.
-Có chuyện gì thế bác sĩ?
-Ồ, có gì đâu – chỉ là trong ba chuyến vượt biển rồi ai cũng phàn nàn về phòng đó.
-Nếu vậy thì tôi cũng xin phàn nàn. Chắc hẳn là phòng đã không được dọn rửa cẩn thận. Thật là tệ.
-Đành vậy.
  Bác sĩ đáp.
-Tôi tin là có một cái gì - hừ, mà tôi không được làm cho hành khách sợ hãi.
-Anh đừng lo là sẽ làm cho tôi sợ. Ẩm ướt cách mấy tôi đều chịu được cả và lở tôi có bị cảm tôi sẽ đến gặp anh.
Tôi mời anh một điếu xì- gà. Anh cầm lấy nhìn ngắm với vẽ bình phẩm rồi nói:
-Không hẳn là vấn đề ẩm ướt. Tuy nhiên tôi tin là ông sẽ chịu được. Ông có ai ở chung phòng không?
-Có, một thằng ngốc, chạy bổ ra khỏi phòng lúc nửa đêm và để cửa phòng toang hoác.
Anh bác sĩ lại liếc nhìn tôi một cách kỳ lạ rồi anh đốt thuốc hút với vẽ lo âu. Anh hỏi:
-Người đó có trở lại phòng không?
-Có, lúc tôi đang ngủ, sau đó tôi thức giấc và nghe ông ta xê dịch ở trên, rồi tôi nghe lạnh quá và đã ngủ lại. Sáng dậy tôi thấy cửa tròn mở toang.
-Nghe này.
Bác sỉ lặng lẽ nói,
  -Tôi không cần chiếc tàu này. Tôi cũng không cần biết đến thanh danh của nó. Tôi có một căn phòng rộng trên boong, tôi sẽ nhường ông nửa phòng mặc dầu tôi không biết ông là ai.
Tôi rất đổi ngạc nhiên với lời đề nghị đó. Tôi không hiểu sao anh bác sĩ lại bổng dưng quan tâm đến tôi như thế. Thái độ của bác sĩ lúc nói về chiếc tàu có vẽ kỳ quặc. Tôi nói:
-Anh tử tế quá bác sĩ à nhưng tôi tin rằng căn phòng có thể được dọn rửa kỹ lại. Sao anh lại không cần đến chiếc tàu?
-Nghề nghiệp của tôi không cho tôi mê tín nhảm nhí, thưa ông, nhưng biển cả làm cho con người trở nên như thế. Tôi không muốn làm hại ông và tôi cũng không muốn làm cho ông sợ hãi, nhưng ông nên nghe  lời khuyên của tôi mà dời lên đây ở với tôi.
Anh nói thêm một cách chí tình.
-Thà để tôi gặp ông trên tàu hơn là được biết ông hay một người nào khác đã ngủ trong phòng 105.
-Trời đất. Sao vậy bác sĩ?
Tôi hỏi.
Anh nghiêm nghị trả lời.
-Vì trong ba chuyến vượt biển vừa qua những người ngủ ở phòng đó đã nhảy cả xuống biển.
Thú thật là tiết lộ đó đã làm cho tôi giật mình và không thấy thú vị chút nào. Tôi nhìn kỹ anh bác sĩ để xem có phải anh muốn trêu ghẹo tôi không nhưng thấy anh hoàn toàn thành thật. Tôi thân mật cám ơn anh và nói tôi sẽ là một trường hợp ngoại lệ đối với cái lệ ai ngủ phòng đó thì sẽ nhảy xuống biển. Bác sĩ không nói nhiều nhưng có vẽ lo lắng và ngỏ ý rằng tôi nên xét lại đề nghị của anh.
Sau đó chúng tôi đi ăn điểm tâm. Chỉ một số ít hành khách có mặt ở phòng ăn. Tôi chú ý thấy một hay hai sĩ quan ngồi cùng bàn có vẽ lo âu.Sau điểm tâm tôi về phòng lấy một quyển sách.Màn ở giường trên vẫn còn kéo lại và không nghe thấy tiếng gì cả. Chắc  ông ta vẫn còn ngủ.
Lúc bước ra tôi gặp anh bồi có bổn phận “chăm sóc” tôi. Anh ta lầm bầm là thuyền trưởng muốn gặp tôi rồi quày quả đi như sợ tôi hỏi han. Tôi đến phòng thuyền trưởng và thấy ông đang chờ tôi. Ông nói:
-Thưa ông, xin ông giúp cho một việc.
Tôi đáp là rất sẳn  lòng. Ông nói:
-Người đồng phòng với ông đã biến mất. Tôi được biết là tối qua ông ta đã đi nghỉ sớm. Ông có để ý thấy cử chỉ ông ta có gì lạ không?
Câu hỏi đó xác nhận rõ ràng nổi lo sợ của vị bác sĩ cách đó nửa giờ khiến tôi bàng hoàng. Tôi vội hỏi:
-Thuyền trưởng không có ý nói là ông ta nhảy xuống biển chứ?
-Tôi e rằng ông ấy đã nhảy rồi.
-Đây thật là một điều kỳ lạ nhất…
-Sao vậy?
Thuyền trưởng hỏi.
-Vậy ông này là người thứ bốn phải không?
Rồi tôi giải thích cho ông biết là đã nghe kể câu chuyện liên quan đến phòng 105 nhưng không đề cập đến vị bác sĩ. Thuyền trưởng có vẽ khó chịu vì tôi biết chuyện đó. Tôi kể cho ông nghe những chuyện xảy ra tối hôm đó. Nghe xong ông nói:
-Điều ông kể đúng y như điều các người đồng phòng với ba người kia đã kể lại với tôi. Họ cũng nhảy bật xuống khỏi giường và chạy như bay theo hành lang. Vọng canh trông thấy họ nhảy xuống biển. Chúng tôi cho tàu dừng lại và thả thuyền nhỏ xuống nhưng không tìm thấy họ. Tuy nhiên không ai nghe hoặc thấy gì về người bị mất tích tối qua---nếu thật sự ông ta dã mất tích. Anh bồi tàu có lẽ là một người mê tín, anh ta tin là sẽ có chuyện không may xảy ra nên sáng sớm đã tới tìm ông khách đó thì thấy giường ông ta trống không, quần áo nằm đây đó nơi ông ta đã thảy chúng xuống. Anh bồi là người duy nhất trên tàu biết mặt ông ta và đã tìm kiếm ông ta khắp nơi trên tàu mà không thấy. Ông ta đã thật sự biến mất rồi. Thưa ông, xin ông đừng nói gì về việc này với bất cứ hành khách nào. Tôi không muốn tàu bị mang tiếng xấu và những câu chuyện về tự tử thường mang lại ảnh hưởng không tốt cho các tàu đi biển. Ông được quyền lựa bất cứ phòng của một sĩ quan nào trên tàu mà ông thich kể cả phòng của tôi trong suốt cuộc hành trình còn lại để bù đắp cho việc ông dấu kín dùm chuyện này. Ông có đồng ý đây là một cuộc trao đổi công bằng không?
- Vâng, rất là công bằng và tôi rất cám ơn thuyền trưởng nhưng vì tôi chỉ có một mình, lại được ở một mình một phòng rộng rãi, tôi thấy không thích dời đổi. Xin cho người đem đồ của ông khách kém may mắn ấy ra và tôi sẽ ở lại phòng đó. Tôi sẽ không nói với ai về chuyện đó đâu và tôi tin là có thể hứa với ông là tôi sẽ không đi theo vết ông bạn đồng phòng đó.
Thuyền trưởng cố khuyên tôi bỏ ý định nhưng tôi thích ở một phòng một mình hơn là ở chung với bất kỳ một sĩ quan nào trên tàu. Không biết là tôi có hành động ngu xuẩn hay không nhưng nếu tôi đã nghe theo thuyền trưởng thì bây giờ hẳn không có chuyện gì để kể ra đây trừ chuyện trùng hợp của những vụ tự tử xảy ra trong số người ngủ ở phòng đó.
Tuy nhiên câu chuyện không dừng lại ở đó. Tôi cứng đầu nhất định không tin một chuyện hoang đường như thế và tranh luận về việc đó với thuyền trưởng.Tôi nói căn phòng đó có diều không ổn, nó hơi ẩm ướt. Rằng ông bạn dồng phòng của tôi có lẽ đã có bệnh trước khi lên tàu và sau khi lên giường ngủ  bỗng lên cơn mê sảng. Có thể ông ta vẫn còn đang ẩn núp đâu đó trên tàu mà thế nào cũng sẽ tìm ra và phòng lạnh là vì cửa tròn đã để mở tối qua.
-Theo tôi thì nên dọn sạch phòng và xem lại then cài cửa tròn.Nếu thuyền trưởng cho phép, tôi yêu cầu cho người làm ngay những gì tôi nghĩ là cần thiết.  
-Dĩ nhiên là ông có quyền ở chổ nào ông thích. Thuyền trưởng trả lời hơi nóng nảy, -nhưng tôi mong là ông sẽ dọn ra để tôi khóa phòng đó lại, như vậy cho xong.
Tôi không đồng ý và rời phòng thuyền trưởng sau khi đã hứa là sẽ im lặng về việc người bạn đồng phòng mất tích. Ông ta không quen ai trên tàu nên trong ngày không có ai tìm ông ta. Đến chiều tôi gặp lại vị bác sĩ, anh hỏi tôi đã đổi ý chưa. Tôi đáp là chưa. Anh tỏ vẽ rất ái ngại.
-Vậy thì ông sẽ đổi ý không lâu nữa đâu.
Buổi tối chúng tôi chơi cờ và tôi đi ngủ trễ. Bây giờ tôi xin thú thật là tôi có một cảm giác khó chịu khi bước vào phòng. Tôi không thể nào không nghĩ đến con người cao ráo tôi đã thấy tối qua mà giờ đây đã chết chìm, xác bị những con sóng dài xô tới xô lui cách tàu hai hoặc ba dặm. Lúc tôi thay đồ gương mặt ông ta hiện ra rõ rệt trước mắt tôi. Tôi còn kéo cả tấm màn che giường trên ra như để thuyết phục chính mình là ông khách đã thực sự chết rồi. Tôi gài chặt cửa phòng lại và bổng nhìn thấy cửa sổ tròn đã được mở ra và cánh cửa được gài chặt vào vách phòng.
Điều này thì quá lắm không thể chịu được nữa. Tôi khoác vội áo và đi tìm Robert, người bồi phòng của tôi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi rất giận dữ, khi tìm được anh ta, tôi lôi anh ta đến trước cửa phòng 105 và đẩy anh ta tới trước cửa sổ để mở.
-Đồ ngốc, tại sao anh lại để cửa này mở mổi đêm? Bộ anh không biết như thế là trái luật hay sao? Anh có biết là nếu tàu bị nghiêng và nước tràn vào thì mười người mạnh khỏe cũng không đóng nó lại nổi? Đồ ngốc, tôi sẽ báo cáo anh với thuyền trưởng vì làm phương hại đến tàu.
Tôi hết sức nóng giận. Anh bồi run rẩy và tái xanh, anh ta lật đật kéo tấm kiếng cửa tròn có bộ chốt cửa bằng đồng nặng nề đóng chặt lại. Tôi hỏi cụt ngủn.
-Sao anh không trả lời tôi chứ?
Robert lập bập.
-Thưa ông, không ai trên tàu này có thể giữ cửa này đóng lại ban đêm được cả. Ông cứ thử đi thì biết. Tôi sẽ không làm lâu trên tàu này nữa đâu. Nếu tôi là ông tôi sẽ dọn lên ở với bác sĩ. Phải, tôi sẽ dọn ngay. Này, ông xem coi cửa đã đóng chặt chẽ hay chưa? Ông thử xem có nhúc nhích nó được một li nào không?
Tôi kéo thử cánh cửa và thấy nó hoàn toàn chặt chẽ. Robert nói tiếp vẽ đắc thắng.
-Tôi dám cá với ông cái thanh danh bồi tàu hạng A 1 của tôi là chỉ trong 1/2  giờ nữa nó sẽ mở ra và gài chặt vào vách phòng lại. Gài lại đàng hoàng, đó mới là điều đáng sợ.
Tôi xem xét lại cái đinh vít to tướng và chốt cài bằng đồng nặng nề trên cửa rồi nói.
-Robert, nếu tối nay mà nó mở ra, tôi sẽ cho anh một Anh Kim (1 bảng Anh). Chắc chắn như vầy thì không thể nào có chuyện mở ra được. Thôi anh đi đi.
 -Thưa ông, một Anh kim phải không? Tốt lắm. Cám ơn ông, chào ông. Chúc ông ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp.
Vui mừng được thả ra anh ta chạy vụt đi. Dĩ nhiên tôi nghĩ  là anh ta đã kể một câu chuyện tầm ruồng để khỏa lấp cái tội lơ đễnh không đóng cửa sổ của mình, và cũng để hù tôi, nhưng tôi không tin. Kết quả là anh ta lấy được đồng Anh kim, còn tôi thì trải qua một đêm khó chịu kỳ lạ.
Tôi lên giường và năm phút sau khi tôi đã trùm mền xong thì anh chàng Robert tắt ngọn đèn mà lúc nào cũng cháy đều bên trong khung kiếng nhỏ gần cửa ra vào. Tôi nằm yên trong bóng tối cố gắng dỗ giấc ngủ, nhưng chẳng bao lâu tôi thấy là không tài nào ngủ được. Trong lúc giận dữ cãi vã với anh bồi tôi đã quên cái cảm giác khó chịu lúc đầu khi tôi nghĩ đến người chết chìm đã ở chung phòng với minh. Tôi nằm thao thức một lúc, không còn buồn ngủ nữa, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cửa tròn mà từ chổ nằm tôi có thể thấy lờ mờ. trong bóng tối nó trông giống như một dĩa súp sáng mờ lơ lửng trong một nền đen. Tôi chắc là đã nằm như vậy độ một giờ đồng hồ và tôi còn nhớ lúc tôi sắp chợp mắt thì choàng tỉnh vì một làn gió lạnh và cảm nghe rõ ràng những tia nước biển bắn vào mặt. Tôi vụt đứng dậy và vì trong bóng tối chưa quen ngay với sự di động bồng bềnh của tàu, tôi bị thảy mạnh từ chổ đứng ở giường sang ghế  phô-tơi đặt ngay dưới cửa tròn. Tôi lấy lại thăng bằng ngay và quỳ gối lên.
Cửa tròn lại mở rộng và cánh cửa gài chặt vào vách.
Những điều này là sự kiện rõ ràng vì tôi hoàn toàn tỉnh táo lúc bật dậy ở giường mà giả sử tôi còn ngáy ngủ đi nữa thì cú ngã mạnh bổ nhào cũng đủ làm tôi tỉnh ngủ. Hơn nữa hai cùi chỏ và hai đầu gối tôi bầm tím. Nếu như tôi có nghi ngờ thì sáng hôm sau các vết bầm cũng đủ chứng minh sự kiện đó có thật. Việc cửa tròn mở rộng và cài lại đàng hoàng là một việc không sao giải thích được. Tôi còn nhớ rất rõ là lúc trông thấy như vậy tôi đã quá đổi ngạc nhiên hơn là sợ hãi.
Tôi đóng ngay cửa tròn lại và dùng hết sức mình gật cái chốt xuống. Trong phòng rất tối. Tôi nhận thấy là cửa tròn đã mở ra trong vòng nửa giờ sau khi Robert đóng nó lại trước mặt tôi, vì vậy tôi quyết định sẽ canh để xem nó còn mở ra nữa thôi. Bộ chốt bằng đồng rất nặng nề và cũng không phải dễ mở. Tôi không tin rằng cái chốt bật ra vì sự rung động của đinh ốc. Qua khung kính dầy tôi đứng nhìn những ngọn sóng trắng xóa liên tục vỗ vào bên dưới mạn tàu. Hẳn là tôi đã đứng đó độ 15 phút.
Bổng tôi nghe rõ ràng có tiếng động sau lưng tôi trên một trong hai chiếc giường và một giây sau vừa lúc tôi quay lại để nhìn, mặc dầu là tôi không thấy được gì trong bóng tối, tôi nghe một tiếng rên rỉ rất yếu ớt. Tôi nhảy chồm lại vẹt hai màn che giường trên sang bên và đút hai tay vào xem có ai trên đó không, và…..có một người.
Tôi còn nhớ lúc đưa hai tay vào tôi có cảm giác như đút vào lớp không khí của một căn hầm ẩm ướt và từ đằng sau hai tấm màn một luồng gió có cái mùi tanh tưởi của nước biển vụt ra. Tôi nắm phải một vật có hình thể của một cánh tay người nhưng phẳng bóng, ướt và lạnh ngắt. Lúc tôi vừa kéo nó thì bổng nó nhảy bổ vào người tôi, một khối nhơm nhớp và rỉ nước, nặng nề, ướt át nhưng lại có một sức mạnh siêu việt. Tôi bị đẩy ngã bật ra, trong chớp mắt cửa mở và nó vụt ra ngoài.
Tôi không đủ thì giờ mà sợ hãi, chồm dậy tôi chạy ra cửa và rượt theo nó hết tốc lực nhưng đã quá trễ. Trước mặt tôi lối 10 sải (yards) tôi thấy - Tôi chắc chắn là đã thấy một bóng đen ngòm chạy giữa hành lang thắp đèn mờ ảo, nhanh giống như bóng một con ngựa đua trong  ánh đèn chiếu hắt ra trước một chiếc xe kéo vào một đêm tối trời. Nhưng chỉ một giây nó đã biến mất và tôi thấy mình đang bám chặt vào tay vịn chạy dọc theo vách ngăn nước nơi hành lang quẹo ra lối đi chính. Tóc tôi dựng đứng và mồ hôi lạnh chảy dài xuống mặt. Tôi không xấu hổ về điều đó chút nào vì quả thật tôi sợ hãi vô cùng.
Mặc dầu vậy tôi vẫn nghi ngờ các giác quan của mình và lấy lại bình tĩnh, tôi nghĩ, thật là phi lý. Có lẽ món tôi ăn ban chiều không thích hợp với bao tử của tôi khiến tôi mơ thấy ác mộng!?
Tôi lần trở lại phòng và cố bắt mình bước vào phòng. Phòng có mùi nước biển tanh tanh giống như lúc tôi thức dậy đêm hôm trước. Phải cố gắng lắm tôi mới bước hẳn vào trong và lục tìm trong đồ của tôi một hộp đèn sáp. Khi thắp xong ngọn đèn bảo mà tôi luôn mang theo phòng khi muốn đọc sách sau khi đèn trên tàu đã tắt, tôi nhận thấy cửa tròn đã lại mở ra. Một nổi sợ hãi chưa từng biết úp chụp lấy tôi nhưng tôi vẫn thắp một ngọn nến và tiến lại xem xét chiếc giường trên, nghĩ bụng chắc nó ướt đẫm nước biển.
Nhưng tôi phải thất vọng, giường tuy có dấu người nằm và mùi nước biển nồng nặc nhưng chăn nệm thì vẫn khô ran. Tôi nghĩ có lẽ Robert đã không đủ can đảm dọn giường sau tai nạn tối qua và tất cả chỉ là một giấc mơ ghê sợ. Tôi kéo màn sát ra và xem xét mọi chổ, tất cả đều hoàn toàn khô ráo.
Thế sao cửa tròn lại mở!? Đầy ngạc nhiên sợ hãi tôi đóng nó lại và vặn chốt chặt, tôi đút cây gậy của mình qua cái khoen gắn vào chốt cửa và dùng hết sức siết nó lại cho đến khi nó hơi cong lại dưới sức mạnh, rồi tôi móc đèn bảo vào cái móc nhỏ trên tường ở gần ghế phô-tơi. Tôi ngồi xuống cố lấy lại sự tỉnh táo. Tôi ngồi đó suốt đêm, không nghĩ gì đến chuyện nghỉ ngơi và cũng không suy nghĩ gì được cả. Cửa tròn vẫn đóng và tôi tin là nó sẽ không mở được nữa nếu không dùng sức.   
Cuối cùng bình minh cũng đến. Tôi chậm rãi mặc quần áo vừa nghĩ đến những chuyện xảy ra trong đêm. Tôi lên boong, trời hôm nay thật đẹp, tôi vui mừng được tắm ánh nắng ấm buổi ban mai và hít mùi gió thổi từ mặt nước trong xanh khác xa làm sao với mùi nước tanh tưởi trong phòng đêm hôm. Tôi tự dộng hướng về phòng vị bác sĩ, anh đang đứng trước phòng miệng ngậm ống píp thở hít làn không khí trong lành buổi sớm giống y như ngày hôm trước. Anh nhìn tôi vẽ tò mò, lặng lẽ nói.
-Chào ông bạn.
-Bác sĩ, anh nói đúng lắm. phòng đó có cái gì là lạ.
-Tôi nghĩ là ông sẽ đổi ý mà.
Bác sĩ đáp vẽ đắc thắng.
-Ông đã trải qua một đêm mệt mỏi à? Ông có cần tôi pha cho ly rượu không? Tôi có một lối pha chế đặc biệt.
-Thôi, cám ơn bác sĩ. Tôi muốn kể cho anh nghe những chuyện xảy ra hồi hôm.
Rồi tôi kể lại rành mạch những việc đã xảy ra, không quên nói về nổi sợ hãi khủng khiếp của tôi. Tôi nhắc nhiều nhất đến cửa tròn vì đó là một sự việc rõ rệt tôi có thể quả quyết được cho dầu những việc kia có là ảo giác. Tôi nhấn mạnh đã đóng nó lại hai lần trong đêm và lần thứ hai đã dùng gậy để xoay cái vòng chốt cho chặt.
-Ông sợ tôi nghi ngờ câu chuyện của ông hay sao?
Bác sĩ mỉm cười,
-Tôi không nghi ngờ chút nào cả, tôi xin mời ông một lần nữa hãy mang hành lý đến ở chung phòng với tôi.
-Xin bác sĩ hãy đến ở chung với tôi một đêm. Hãy giúp tôi tìm cho tận cùng câu chuyện này mới được.
-À, coi chừng ông sẽ tìm thấy xác mình ở tận cùng một chổ khác kia đấy.
-Tận cùng cái gì chớ? Tôi hỏi.
-Tận cùng đáy biển chớ đâu. Tôi sẽ rời chiếc tàu này, nó không có bảo đảm.
-Vậy là bác sĩ không giúp tôi tìm…..
-Không.
Bác sĩ đáp nhanh.
- Công việc của tôi là phải để cho thần trí tỉnh táo chớ không phải để xen vào việc ma quỷ.
-Bộ anh tin đó là một hồn ma sao?
Tôi hỏi có hơi khinh miệt. Vừa lúc hỏi tôi đã kịp nhớ lại cái cảm giác ghê rợn về sức mạnh siêu việt đã chụp lấy tôi hồi hôm.
Bác sĩ nhìn tôi giận dữ.
-Vậy ông có một giải thích hữu lý nào về những sự việc đó không? Ông không có phải không? Ông nói ông sẽ tìm ra giải đáp nhưng tôi nói ông sẽ không tìm ra vì sự thật chẳng có một lời giải đoán nào cả.
Tôi cũng không vừa.
-Vậy bác sĩ, là một nhà khoa học anh có ý nói rằng những việc như vậy không thể giải thích được hay sao?
-Phải, tôi nói như vậy. Và nếu có thể đi nữa tôi cũng sẽ không liên hệ gì với sự giải thích đó cả.
Tôi không muốn ở một mình trong phòng đó thêm một đêm nữa, nhưng tôi lại cứng đầu muốn tìm cho ra gốc rễ của vấn đề. Nếu đã trải qua hai đêm như tôi đã qua, tôi tin rằng không ai còn muốn ngủ một mình thêm một đêm nữa. Nhưng tôi quyết định thử một lần nữa cho dầu không tìm được người chịu thức canh với tôi.
Bác sĩ thì chắc chắn là không tham dự rồi, nói rằng mình là một nhà giải phẩu lúc nào cũng phải sẵn sàng lỡ có tai nạn gì xảy ra trên tàu, anh không thể để mất tinh thần. Có lẽ anh ấy có lý, nhưng tôi thì lại nghĩ rằng anh cẩn thận như thế là vì sự tin tưởng của mình. Qua sự dọ hỏi của tôi anh cho biết là trên tàu không có ai muốn tham gia vào cuộc điều tra của tôi cả, và sau một hồi kháo chuyện tôi từ giả anh bác sĩ.
Một lát sau tôi gặp viên thuyền trưởng và kể hết mọi chuyện cho ông nghe. Tôi bảo ông nếu không ai chịu thức canh với tôi thì xin ông cho phép để đèn cháy suốt đêm trong phòng tôi và tôi sẽ thức canh một mình. Thuyền trưởng nói:
-Tôi sẽ thức canh với ông và chúng ta sẽ coi xem chuyện gì xày ra. Tôi tin rằng hai chúng ta sẽ tìm ra sự thật. Có thể có một tên ẩn núp trên tàu, chiếm chổ hành khách bằng cách hù nhát họ. Cũng có thể là có cái gì lạ trong cái khung sườn của chiếc giường đó.
Tôi đề nghị dẫn người thợ mộc của tàu xuống xem xét tại chổ. Tôi rất vui mừng việc thuyền trưởng đồng ý canh thức với tôi. Ông cho gọi người thợ mộc và bảo anh ta làm theo lời yêu cầu của tôi.
Chúng tôi đi ngay xuống phòng. Tôi đem hết chăn mền ở giường trên xuống và chúng tôi xem xét cẩn thận mọi chổ coi có miếng ván nào bị lỏng hoặc một bức chắn nào có thể mở ra hoặc đẩy sang bên không. Chúng tôi xem xét vách ván khắp nơi, gõ sàn phòng, mở cả khuôn sườn của giường dưới ra từng mảnh. Nói tóm lại, không có một phân nhỏ nào trong phòng mà chúng tôi không lục tìm và xem xét. Mọi thứ đều hoàn hảo và chúng tôi lắp ráp lại như cũ. Lúc chúng tôi làm gần xong thì Robert đến cửa phòng nhìn vào. Anh ta hỏi với một nụ cười chế nhạo:
-Sao, thưa ông, ông có tìm được gì không?
-Về vụ cửa tròn anh nói đúng đấy Robert ạ.
Tôi nói và trao cho anh ta đồng Anh kim đã hứa.
Người thợ mộc làm việc lặng lẽ và khéo léo, làm theo lời chỉ dẫn của tôi. Khi xong việc anh ta nói:
-Tôi là một người tầm thường, thưa ông, nhưng tôi nghĩ là ông nên đem đồ đạc ra và cho phép tôi đóng một lố đinh bốn phân vào cửa phòng. Căn phòng này chưa từng đem đến một điều gì tốt đẹp cả. Theo trí nhớ của tôi thì đã có bốn mạng chết ở đây trong bốn chuyến đi. Tốt hơn là ông nên bỏ qua đi.
Tôi bảo:
-Tôi sẽ thử thêm một đêm nữa thôi.
-Tốt hơn nên bỏ qua đi ông ạ, không tốt đâu.
  Người thợ mộc lập lại và bỏ dụng cụ vào túi rồi rời phòng.
Dầu sao tôi cũng thấy lên tinh thần rất nhiều nhờ vào việc thuyền trưởng đồng ý canh thức với tôi.
Vì vậy tôi quyết định không để bị ngăn trở, quyết lòng đi đến cùng của sự việc lạ lùng này. Chiều hôm đó tôi tránh xa món tôi đã ăn đêm trước và cũng không tham dự trò chơi bài thường lệ. Tôi muốn để cho thần kinh không căng thẳng và cũng muốn tỏ ra là người đáng tin cậy trước mặt thuyền trưởng.
Thuyền trưởng là một người vui vẻ, khỏe mạnh và dẻo dai trong giới những người chuyên đi biển. Hạng người mà tánh cứng rắn, bình tỉnh và can đảm khi gặp khó khăn thường giúp họ đạt được cao điểm niềm tin của mọi người.  Ông không phải là người dễ tin vào những chuyện tầm ruồng, nhưng việc ông đồng ý canh thức với tôi đủ chứng tỏ là ông cũng nhận thấy có điều gì không ổn mà không thể nào giải thích được bằng những lý luận thông thường hay bằng sự diểu cợt cho rằng chỉ là mê tín dị đoan. Ngoài ra  lại còn thanh danh của ông và của tàu nữa. Ông cũng biết một chiếc tàu mang tiếng có hành khách nhảy xuống biển không phải là một chuyện nhỏ.
Mười giờ tối hôm đó lúc tôi hút xong  điếu xì-gà cuối cùng thì ông đến gặp và kéo tôi sang một bên xa các hành khách đang đi dạo trên boong trong bóng đêm ấm áp. Ông nói:
-Đây là một vấn đề quan trọng ông Brisbane ạ. Chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận hai điều: một là thất vọng, hai là sẽ gặp phải khó khăn. Ông cũng thấy là tôi không coi đây là một chuyện giỡn chơi và tôi sẽ xin ông ký tên vào một bản tường trình lại sự việc xảy ra. Nếu tối nay không có gì xảy ra thì chúng ta sẽ thử lại vào tối mai và tối mốt. Ông đã sẵn sàng chưa?
Thế là chúng tôi xuống phòng. Lúc bước vào phòng tôi nhìn thấy anh bồi Robert đứng xa ở đầu hành lang nhìn chúng tôi với một nụ cười dường như chắc chắn một sự việc khủng khiếp sắp sửa xảy ra. Thuyền trưởng đóng cửa phòng và gài chặt lại. Ông đề nghị:
-Hãy để vali của ông trước cửa, một trong chúng ta có thể ngồi lên đó và không vật gì có thể đi ra được. Cửa tròn đã đóng chưa?
Tôi thấy nó vẫn đóng y như lúc tôi rời phòng ban sáng. Thật vậy, nếu không dùng một vật làm cán như tôi đã làm thì không ai có thể mở nó ra được. Tôi kéo màn giường trên rộng ra để có thể nhìn suốt vào trong cho dễ. Theo lời thuyền trưởng tôi thắp ngọn đèn bảo lên và đặt nó ở nơi ánh sáng có thể rọi thẳng lên mặt drap trắng của giường trên. Thuyền trưởng nằng nặc đòi ngồi trên va-li, nói rằng như vậy ông mới có thể quả quyết là chính ông đã ngồi trước cửa. Rồi ông bảo tôi đi xem xét khắp phòng cho cẩn thận, công việc này hoàn thành nhanh chóng vì chỉ phải nhìn xuống gầm giường dưới và gầm ghế phô-tơi đặt dưới cửa tròn mà thôi. Cả hai nơi đều trống rỗng không thấy gì. Tôi nói:
-Như thế này thì không một con người bằng xương bằng thịt nào có thể chun vào được và cũng không một con người nào có thể mở được cửa tròn.
-Tốt lắm.
  Thuyền trưởng thản nhiên nói.
  –Vậy nếu chúng ta thấy bất cứ một cái gì thì hoặc là do chúng ta tưởng tượng hoặc đó là một thứ ma quỷ nào đó.
Tôi ngồi xuống bìa giường dưới còn thuyền trưởng tựa lưng vào cửa, chân bắt chéo. Ông nói:
- Chuyện đó xảy ra lần đầu tiên vào tháng ba. Người khách ngủ ở đây, trên giường trên, hóa ra là một người điên hay nói đúng hơn người ta biết là ông ta có hơi "man" và ông ta đã mua vé tàu đi mà bạn bè không biết. Ông ta vụt ra khỏi phòng lúc nửa đêm và nhảy xuống biển trước khi viên sĩ quan canh gác kịp chặn ông ta lại. Chúng tôi cho tàu dừng lại và hạ thuyền nhỏ xuống. Đêm đó biển lặng nhưng chúng tôi không tìm được ông ta. Dĩ nhiên sau đó chúng tôi cho việc tự tử là do sự điên loạn của ông ta mà thôi.
-Chắc chuyện đó thường hay xảy ra? Tôi hỏi.
-Không. Theo kinh nghiệm của tôi thì trước đó chưa từng xảy ra, mặc dầu tôi có nghe nói thỉnh thoảng xảy ra trên các tàu khác. Như tôi đã nói, nó xảy ra lần đầu vào tháng ba. Rồi vào chuyến kế tiếp đó -Ông nhìn gì thế?
Thuyền trưởng đột ngột hỏi.
Tôi tin là lúc đó tôi đã không trả lời vì mắt tôi đang dán vào chổ cửa tròn. Dường như cái khoen đồng đang quay rất chậm, chậm đến nổi tôi không chắc là nó có di động không nữa. Tôi nhìn nó chăm chú, cố khắc vào óc vị trí của nó và cố gắng xem chắc coi nó có thay đổi vị trí không. Thấy nơi tôi nhìn, thuyền trưởng cũng quay nhìn.
-Nó chuyển động kìa.
Ông hô lên bằng một giọng chắc chắn nhưng sau đó một phút ông sửa lại.
- Không, không có.
Tôi nói:
-Nếu là do đinh ốc bị lỏng rồi rung động thì cửa cũng phải mở ra vào ban ngày chứ nhưng đầu hôm tôi đã xem xét kỹ thì thấy nó vẫn chặt chẽ như lúc sáng.
Tôi đứng dậy lại thử chốt cửa thì thấy nó lỏng ra vì chỉ chạm nhẹ tay là tôi đã nghe nó di động.
Thuyền trưởng lại nói tiếp:
-Điều lạ là người thứ hai dường như đã nhảy qua cửa tròn đó. Chúng tôi phải qua nhiều giờ khổ nhọc vì nó. Vào lúc nửa đêm, thời tiết rất xấu thì có báo động là một trong các cửa tròn dưới đã mở ra và nước đang tràn vào.
Tôi xuống đây và thấy mọi vật đều ngập nước, mổi lần tàu nghiêng sang bên thì nước ùa vào. Chúng tôi phải cố hết sức mới đóng được cửa lại nhưng nước cũng đã gây ít nhiều thiệt hại. Từ đó tới giờ phòng này thỉnh thoảng lại có mùi nước biển.
Chúng tôi đoán là người khách đã tự thảy mình qua cửa tròn nhưng chỉ có Chúa mới biết làm sao ông ta lại có thể nhảy qua cái cửa nhỏ xíu đó được. Anh bồi cứ bảo tôi hoài là anh ta không làm sao giữ cho nó đóng được vào ban đêm. A, tôi ngửi có mùi nước biển, ông có ngửi thấy không?
Ông vừa hỏi vừa hít hít không khí một cách nghi ngờ.
-Vâng, đúng rồi.
Tôi đáp và run lên vì cũng mùi nước biển tanh tưởi đó càng lúc càng nồng nặc trong phòng. Tôi nói tiếp:
-Có mùi như vầy thì phòng phải ẩm ướt lắm mới đúng, vậy mà hồi sáng này tôi và người thợ mộc xem xét thấy mọi thứ đều khô ráo. Thật là kỳ lạ--------Ê!
Cái đèn bảo của tôi đặt ở giường trên bỗng nhiên tắt ngúm nhưng vẫn còn khá nhiều ánh sáng phát ra từ ngọn đèn của phòng đặt sau khung kiếng dầy ở gần cửa. Tàu chòng chành mạnh và màn của giường trên bị thảy ra giữa phòng rồi lại giật về.
Từ chổ ngồi ở bìa giường dưới tôi nhanh nhẹn đứng dậy với ý định vói lấy cái đèn bảo xuống xem xét, cùng lúc đó thuyền trưởng bật đứng lên và kêu lên một cách ngạc nhiên. Vừa nghe tiếng la của thuyền trưởng thì tiếp theo tiếng ông gọi tôi đến giúp. Tôi phóng lại phía ông. Ông đang dùng hết sức mình để giữ chặt chốt đồng ở cửa tròn, nhưng mặc sức cho ông trì kéo, nó vẫn quay trong tay ông. Tôi chụp lấy cây gậy làm bằng gỗ sồi rất nặng mà tôi vẫn thường mang theo mình và đút nó qua cái khoen rồi dùng hết sức mình để chịu nó lại, nhưng cây gậy bổng gãy đôi và tôi té nhào xuống ghế phô-tơi.
Khi tôi đứng lên được thì cửa tròn đã mở rộng và thuyền trưởng đứng dựa lưng vào cửa phòng đôi môi tái mét. Ông la lên bằng một giọng kỳ lạ, đôi mắt như muốn lồi ra.
-Có cái gì ở giường trên kìa. Hãy giữ cửa đi để tôi xem---Cho dầu nó là cái gì đi nữa, nó không thể thoát khỏi tay chúng ta.
Nhưng thay vì nghe theo ông, tôi lại nhảy lên giường dưới và vói tay chụp cái vật nằm ở giường trên.
Đó là một vật gớm ghiếc, khủng khiếp không bút mực nào tả được và nó lại cử động trong tay tôi nữa chứ. Nó giống như xác của một người chết chìm rất lâu ngày nhưng nó lại cử động và có một sức mạnh của mười người còn sống. Tôi nắm chặt nó với tất cả sức mình---nắm lấy cái vật nhơm nhớp, trơn nhớt, ghê khiếp đó---đôi mắt trắng dã của người chết dường như nhìn sửng tôi trong bóng tối mờ, mùi nước biển tanh tưởi quyện chung quanh nó và tóc nó sủng nước rớt từng lọn ướt hôi hám trên mặt nó. Tôi vật lộn với cái vật chết đó, nó nhào vào tôi và đẩy bật tôi ra, gần làm gãy tay tôi. Nó luồn hai tay xác chết của nó vòng quanh cổ tôi khiến tôi cuối cùng phải la lên và buông tay té bổ nhào xuống sàn.
Khi tôi té nó nhảy ngang qua tôi và hình như nhảy vào người thuyền trưởng.  Tôi thoáng thấy mặt ông trắng bệch và môi bậm lại. Hình như ông đã dùng hết sức bình sinh giáng một cú đấm vũ bão vào xác chết, nhưng rồi chính ông cũng té chúi mặt xuống sàn và la lên một tiếng ghê rợn.
Xác chết dừng lại và chờn vờn trên thân thể sóng xoài của thuyền trưởng. Trong cơn sợ hãi tôi muốn thét lên nhưng không còn tiếng để thét nữa. Xác chết bổng đột ngột biến mất. Trong cơn bấn loạn, choáng váng của tôi thì dường như nó nhảy qua cửa tròn nhưng làm sao mà nó qua được cái cửa nhỏ đó thì tôi không tài nào giải thích được.
Tôi nằm trên sàn rất lâu và thuyền trưởng cũng nằm gần đó. Sau cùng tôi hơi tỉnh táo lại và cử động, lập tức tôi biết là tay mình đã bị gãy, cái xương nhỏ ở gần cổ tay trái.
Tôi cố gắng đứng dậy và với tay còn lại ráng đở thuyền trưởng lên. Ông rên rỉ và cử động, cuối cùng ông mới tỉnh lại. Ông không bị thương nhưng ê ẩm, cháng váng ghê gớm.
Sao, các bạn còn muốn nghe nữa không? Nhưng cũng không còn gì để kể nữa. Đến đây là chấm dứt câu chuyện của tôi. Anh thợ mộc đã giữ đúng lời và đến đóng đinh bốn phân niêm phong phòng 105 và nếu có bao giờ bạn đi trên chiếc Kamtschatka, bạn có thể hỏi mua vé phòng đó và bạn sẽ được trả lời là phòng đã có người giữ chổ. Vâng, nó đã được giữ chổ cho xác chết ghê khiếp đó.
Phần còn lại của chuyến đi đó tôi ở chung phòng với vị bác sĩ. Anh băng bó cái tay gãy của tôi và khuyên tôi từ rày đừng nên xía vào chuyện của ma quỷ nữa. Thuyền trưởng thì rất im lặng và từ đó ông không lái chiếc tàu đó nữa mặc dầu nó cũng vẫn còn chạy. Tôi cũng sẽ không bao giờ đi chiếc đó nữa. Đó là một kinh nghiệm khó chịu, việc tôi đã sợ hãi quá đổi khiến tôi không thích tí nào.
Tất cả chỉ có thế. Các bạn đã biết tôi gặp ma như thế nào---nếu đó là một con ma. Dầu sao thì nó quả là một xác chết.
 
Xong ngày 4 tháng 8/1982
Hoàng_Yến