Dịch giả: Trần Văn Nuôi
Phần thứ hai - Chương 1
NGƯỜI ĐI SĂN

     iọng trầm sâu của xướng ngôn viên đưa tin:
“Đây là đài BBC. Cảnh sát Luân Đôn truy tìm một người ngoại quốc lấy tên là D bị giữ sáng nay theo yêu cầu của sứ quán X, hắn đã trốn thoát sau khi tấn công nhân viên sứ quán. Tuổi: độ bốn mươi. Chiều cao: một mét bảy mươi lăm. Tóc đen điểm bạc. Râu rậm. Một vết sẹo ở cằm bên phải. Có mang vũ khí trong người.
Cô hầu bàn nói:
- Lạ chưa, ông cũng có một cái sẹo. Cẩn thận không họ bắt nhầm đấy.
- Không - D nói - Mình người ngay, sợ gì!
Cô hầu bàn đem lên một đĩa xúp. D ăn ngon lành.
Buổi tối lạnh trời, quán vắng. Cô lại bắt chuyện:
- Đời lắm chuyện lắm ông ạ. Trưa nay cháu đang đi ngoài đường, tự dưng thấy thiên hạ xúm đông. Cháu dừng lại nhưng chẳng nghe rõ chuyện gì. Dường như có người vừa tự tử. Làm công việc buổi chiều ở đây xong, cháu tới đằng khách sạn tìm Else hỏi xem chuyện gì. Khi người ta nói Else đã... Thưa ông, cháu rụng rời!
- Các cô thân nhau lắm à?
- Rất thân. Cháu không thể tưởng tượng được Else...
- Còn bé đến thế... Cô có nghĩ rằng đó là một... tai nạn?
- Không thể. Cháu nghĩ... Cháu nghĩ đấy là vì tình.
- Đấy, đấy...
- Đúng thế. Người kia đã có vợ con ở khu Highbury.
- Cô ta kể cho cô nghe ư?
- Không, nó nhát lắm. Đấy là cháu nghe người ta đồn...
D nghĩ chắc cô này đã từng cho Else mướn những quyển tiểu thuyết ba xu làm cho cô bé tấp tểnh ghi nhật ký.
- Ông ạ, người ta đồn là do các con của ông kia ngăn trở...
Else chết rồi, chết thật rồi: Ai cũng có thể dựng lại hình ảnh cô tùy theo tưởng tượng. D đặt đồng hào lên cái đĩa. Anh bước ra ngoài. Hai câu chuyện khác nhau cũng được đưa lên báo buổi chiều: “Chuyện tên cướp ở sứ quán” và chuyện “một cô bé tự tử vì tình” Anh mạnh dạn đi về phía khách sạn, cầm tờ báo vờ vừa đi vừa đọc để che mặt.
Không thấy có cảnh sát trước khách sạn. Anh bình tĩnh bước vào. Phòng khách vắng tanh. Chìa khóa vẫn treo trên tấm bảng cạnh quầy. Anh nhanh nhẹn cầm lấy chiếc của anh. Tiếng bà quản gia hỏi từ lầu một:
- Ông đấy ư, ông Muckcrji?
- Vâng. Đ trả lời, hy vọng ông Muckerji thường trả lời như vậy. Giọng Anglê của hai người ngoại quốc dễ giống nhau. Bà quản gia yên tâm. Không nghe thấy gì nữa, nhưng một lúc lại nghe tiếng bước chân xuống thang. Anh nấp sau quầy. Bà quản gia băng qua phòng khách, bước ra đường. Anh lẻn lên phòng mình. Căn phòng tối om. Anh sờ soạng và chạm ngay vào thi thể cô bé. Cô nằm thẳng đơ trên giường anh. Có lẽ đây là căn buồng duy nhất còn trống. Buồng của cô chắc đã dành cho một người đầy tớ mới: cuộc sống lại tiếp diễn.
Cô bé nằm đấy, bé nhỏ, hư ảo. Người ta thường ví cái chết với giấc ngủ; thực ra, cái chết chỉ giống cái chết. Anh nhớ một con chim chết trong lồng, nằm ngửa, hai chân cứng đờ như hai nhánh nho khô. Anh đã từng thấy người chết sau một trận bom. Họ ngã xuống trong những tư thế co quắp, kỳ dị, trở lại hình dáng những cái bào thai trong bụng mẹ. Hoặc giả như tư thế này, riêng biệt, chỉ dành cho những trường hợp duy nhất trong đời. Trong cơn ốm đau, trong giấc ngủ chẳng có ai nằm như thế.
Thân thể cô bé nằm dài trên giường đã xua tan mọi cái sợ, mọi sự đau đớn: Bây giờ anh có thể đương đầu với tên tài xế ở Douvres trên một con đường vắng. Chả có gì phải sợ hãi nữa. Anh không muốn nói gì với cái thi thể kia, cô ấy chẳng còn nghe được gì nữa, chẳng còn là cô ấy nữa.
Có tiếng chân, tiếng người đang bước lên bậc thang. Anh chui vào nấp đằng sau bức rèm cửa sổ, thu chân trên gò cửa. Đèn trong buồng bật sáng. Tiếng bà quản gia:
- Ồ! Cửa này tôi đã khóa kia mà! Kia. Con bé nằm kia kìa!
- Ôi, Cô bé đẹp quá! Tiếng một cô gái nói.
- Con bé nhắc cô luôn đấy, Clara ạ!
- Tội nghiệp! Tôi biết. Nhưng vì đâu mà ra nông nỗi này. Theo ý bà thì...
- Cô ạ, làm sao biết hết được lòng dạ mọi người!
Anh đã nhìn người khách qua khe màn. Đó là mội cô gái còn trẻ lắm, gương mặt xinh xắn, dễ thương, nhòe nhoẹt nước mắt. Cô hỏi, giọng xúc động.
- Có phải cái cửa kia không ạ?
- Đúng, cửa ấy đấy!
D nghĩ: Cửa này ư? Sao không thấy vết tích gì, không có dấu dãy dụa cào xé. Hai người đàn bà vẫn đứng im, không ai tới gần cửa sổ. Một lát Clara nói:
- Giá cô ấy đến chỗ tôi sóm một chút, thì không xảy ra chuyện này.
- Ở đây nó sống thoải mái, cho đến lúc lão ta tới.
- À, cái tên ấy. Lương tâm hắn rồi sẽ cắn rứt. Lúc con bé viết thư cho tôi nói là sẽ đi theo hắn, tôi không nghĩ là đi kiểu này.
D nghĩ, cả cái thư cho Clara cũng chẳng được việc gì nữa. Con bé đáng thương này cho đến phút chót vẫn mơ hồ những câu cú văn chương trong các trang tiểu thuyết ba xu nó thường đọc.
- Cô ở đây nhé. Tôi xuống đưa ông Muckerji lên viếng con bé một chút. Ông ta muốn nhìn nó lần chót.
- Thế là phải. Clara trả lời.
D nghe tiếng chân bà quản gia bước ra. Anh thấy Clara đang dồi phấn lại. Cô chừa lại những giọt nước mắt như thế hay hơn. Bà quản gia bước vào một mình:
- Lạ quá. Ông Muckerji không có trong phòng.
- Hay ông ta chưa về?
- Về rồi, tôi hỏi, ông ta trả lời kia mà. Mụ có vẻ chờn chợn. Để tôi lên trên kia một lúc xem công việc đến đâu. Đang sửa sang căn buồng cho cô hầu mới.
- Thôi, tôi cũng về đây. Có người đang đợi. Một ông khá lắm.
D nghe mụ quản gia nói:
- Cô miễn thứ nhé. Tôi không đưa cô xuống dưới nhà được. Có những việc...
Anh đặt tay lên khẩu súng. Đèn tắt. Cửa đóng lại, có tiếng chìa khóa ngoáy trong ổ. Anh bước ra khỏi chỗ nấp, không muốn nhìn Else. Cô chẳng còn vui buồn gì nữa, chẳng còn nghĩ ngợi gì nữa. Khi ta tin Chúa, ta phó mặc cho Chúa trị tội kẻ ác. D không có niềm tin đó. Nếu con người không được đối xử đúng thco giá trị thiện ác thì thế giới này là một cõi hỗn mang, con người bị dồn vào nỗi tuyệt vọng.
Anh nghe tiếng mụ quản gia trên lầu. Anh nhẹ nhàng khép cửa sau lưng, không khóa để cho lũ người ở đây tha hồ mà hoảng sợ. Anh bỗng nghe tiếng K nói:
- Có lẽ bà quên đấy thôi. Chẳng có chuyện gì đâu.
- Tôi không quên cái gì bao giờ. Với lại ai đã trả lời tôi, nếu không phải là ông Muckerji?
- Chắc ông ta lại đi đâu đó.
- Ông ta không có kiểu đi đứng như vậy.
D nhón bước lên cầu thang; càng lên càng ngửi thấy mùi sơn, anh nấp trong bóng tối nhìn vào buồng K, hắn đang sơn lại cửa sổ... Anh đã hiểu. Cô bé bị xô ngã từ căn buồng của cô. Cô đã cào cấu vào tường vào cửa, để lại dấu xước. Căn buồng đang được sơn phết lại, xoá dấu vết tội ác.
K cầm cọ vụng về (họ không dám gọi thợ sơn), sơn dây cả ra chiếc áo vét lông, cả trên gọng kính.
- Thế thì là ai? Hắn hỏi.
- Tôi nghi chính là hắn.
- Hắn không dám. Hắn không dám đâu.
- Hắn chả còn gì để mất nên hắn không sợ.
- Nhưng hắn đâu có biết chuyện này. Bà nghĩ hắn đang ở trong căn nhà này ư? Để làm gì?
- Có khi hắn rình chúng ta.
- Lạy Chúa! - K kêu lên - Đài phát thanh đưa tin hắn có súng trong người.
- Khẽ chứ! Coi chừng nó nấp ở đâu đây!
- Phải gọi cảnh sát ngay!
D nhanh nhẹn xuống phòng khách, treo chìa khóa vào chỗ cũ rồi lẻn vào nấp trong phòng ăn. K đang chạy xuống cầu thang, cái thùng đựng sơn kêu óc ách. Tiếng mụ quản gia kêu:
- Cửa phòng trên này lại có người mở!
- Nhanh lên! Gọi cảnh sát! Tiếng K hổn hển, rồi hắn bỏ thùng sơn lại, chạy ra đường. D chạy theo.
Nghe có tiếng người đằng sau, hắn dừng lại. D tiến tới bên cạnh, đôi mắt cận thị của hắn vẫn chưa nhận ra anh. Hắn móc một điếu thuốc, tay run lẩy bẩy.
- Ông cho xin tí lửa.
D bật quẹt, ánh lửa chiếu rõ đôi mắt K đang cố nhận dạng. Hắn có vẻ yên tâm. Tội nghiệp, hắn không nhận ra D. Anh sóng bước cùng hắn, gạ chuyện:
- Rét mướt thế này, ông đi đâu?
- Tôi tới trụ sở Entrenationo dự buổi liên hoan.
- A, tôi cũng tới đó.
- Ông là học viên ư? Sao tôi không biết?
- Hôm nay tôi mới tới lần đầu.
Họ bước vào chiếc thang máy, kêu cót két. Tới lầu ba, D bước ra:
- Tôi tới văn phòng có chút việc.
- Chốc nữa ông lên dự nhé. Tiến sĩ Bellows có thuyết trình.
- Vâng, tôi sẽ lên.
D bước vô phòng chỉ dẫn. Bà thư ký vẫn ngồi đan.
- Bà cho phép tôi dùng điện thoại,
- Ông cứ tự nhiên.
D quay số nhà Huân tuốc Benditch. Tiếng một cô gái:
- Đây, Mayfair 101.
- Cô cho tôi nói chuyện với tiểu thư Cullen Rose,
- Ông chờ máy nhé.
Một phút sau, tiếng Cullen:
- Ai ở đầu đây đấy?
- Chào cô. D đây.
- A? Ông đang ở đâu đấy?
- Số 3, Chester Garden. Hỏi nhà cô Glover.
- Cô hầu phòng ấy ư?
- Không, cô ấy chết rồi. Tôi muốn biết tin về cuộc thương lượng của L với ba cô.
- Họ đã ký rồi.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Cô có biết thời hạn thực hiện hợp đồng không?
- Để tôi hỏi Furt.
- Ông ta cũng đã ký?
- Cũng đã ký.
- Vậy là hết! - D thở dài.
Có tiếng dương cầm từ lầu trên vẳng xuống. Ai đó hát! Kodra, Kodra!...Korda!...
- Ông gọi diện thoại từ đâu thế? Tôi nghe những tiếng lạ tai.
- Từ một cuộc liên hoan ở trường dạy tiếng Entrenationo.
- Cái gì? Entra... Loạn rồi! Điên rồi! Ông đã biết có lệnh truy nã ông chưa?
- Có, nhưng tôi còn có việc ở đây.
- Đi đưa đám hả? Ông yêu con bé ấy rồi, chắc chắn là như vậy,
- Cô ấy chưa đến mười bốn tuổi.
- Ồ. Ở tuổi của ông, người ta bắt đầu thích bọn nhỏ.
- Tôi thì không. Mà thôi, không nói chuyện đó nữa. Bona nuche.
- Cái quỷ gì vậy?
- Tiếng Entrenationo. Anh nói và buông máy.
Trên phòng tiệc, khách không có mấy người. K đang ngồi trước ly cà phê và một đĩa bánh nhân thịt. Hắn nói với D bằng tiếng Anh:
- Suốt ngày nay sương mù ghê quá.
- Khi nói chuyện với một học viên cũ của ông thì phải nói bằng tiếng Entrenationo chứ! Tôi vừa mới cạo râu đấy mà!
K xanh mặt:
- Tôi không muốn nói gì với ông nữa.
- Chúng ta ở cùng một tổ chức mà.
- Ông đã bị tước hết nhiệm vụ. Ông nên về nước ngay đi.
- Tôi còn bận chút việc. Mời ông theo tôi. Ông nhớ là tôi có súng đấy nhé. Ta di thôi.
K đứng lên. Hai người trở ra thang máy. Lúc ra đường, D cầm cánh tay K thân mật nói:
- Đi sát vào người tôi thế này này. Không có gì phải sợ.
K ngoan ngoãn làm theo.