ửi Katsunuma Aki Chào em! Hai lá thư dài em viết tôi đã nhận được. Tôi không xé nó đi, cũng chẳng vứt vào thùng rác, mà đã đọc kỹ nó. Nhưng, thành thật mà nói, tôi đã gửi lá thư yêu cầu em đừng viết tiếp cho tôi nữa, thế nên hai tháng sau, khi lại nhận được bưu phẩm do em gửi, tôi đã bỏ mặc chồng thư dày cộp ấy trên bàn hai, ba ngày liền. Tôi nghĩ, nếu mình chẳng đọc thì cũng khỏi cần phải gửi thư hồi âm. Nhưng rồi tôi cũng chẳng thể nào kháng cự nổi trước những tín hiệu không lời phát ra từ chồng thư ấy. Thế là tôi muốn thử đọc nó. Bởi thế, tôi đã mở bì thư ra. Trong khi đọc những dòng thư ấy, tôi nhận thấy em đã có thay đổi nhiều so với mười năm trước đây. Tôi không thể mô tả được rằng, vậy thì, em đã thay đổi ra sao, ở điểm nào. Nhưng, đúng là em đã có thay đổi rồi đúng không? Là mẹ của một đứa trẻ khuyết tật, việc liên tục chiến đấu trong tám năm trời ròng rã (tôi cảm thấy cái từ “chiến đấu” được dùng trong trường hợp này là thích hợp nhất) ắt hẳn đã mang đến cho con người em một cái gì đó thật lớn lao, mạnh mẽ, cái gì đó tròn vành hơn hẳn trước đây. Những điều này nghe có vẻ sáo rỗng, nhưng tôi vẫn muốn nói với em rằng ắt hẳn trong suốt cả quá trình nuôi nấng một đứa trẻ như thế cho đến ngày hôm nay, bằng nghị lực của mình, em đã phải vượt qua muôn vàn khổ đau và khó nhọc mà người khác không thể biết được, và còn rất nhiều chuyện đã xảy ra phải không? Tôi trộm nghĩ, giả sử tôi và em không ly hôn mà vẫn là vợ chồng, rồi sinh ra một đứa trẻ như vậy, thì sẽ sao nhỉ. Vào khoảnh khắc trong đầu tôi thoáng xuất hiện ý nghĩ đó, tôi cứ mải miết nghĩ ngợi rằng, thế thì làm sao tôi có thể đền đáp cho em những tội lỗi của sự việc mười năm về trước, làm sao tôi có thể bù đắp cho em những bất hạnh mà tôi đã đem đến cho em cơ chứ. Khi say mèm tại quầy bar của một quán rượu ở vùng ngoại ô, hay khi lắc lư trong chuyến xe điện đông nghẹt người, và lơ đãng nhìn những tấm ảnh quảng cáo, toàn bộ cơ thể tôi vẫn thường bị xiết chặt, vây bọc bởi những ăn năn mà tôi không sao ngăn lại được em ạ. Thế nhưng, tôi cầm bút viết những dòng thư này không phải để trình bày những điều yếu đuối ấy. Tôi không thể đành lòng không viết về một từ đã xuất hiện trong lá thư của em. Em đã viết rằng, khi nghe những bản nhạc của Mozart, không hiểu sao em lại liên tưởng đến từ chết đúng không. Và em đã nói với ông chủ quán Mozart thế này: “Sự sống và cái chết, có chăng cũng như nhau mà thôi”. Sau khi đã đọc hết lá thư của em rồi, tôi vẫn cứ đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu chỉ riêng mỗi chỗ ấy. Tôi cứ bị thôi thúc phải nói cho em biết rõ về một sự việc kỳ lạ đã xảy đến với tôi. Có lẽ lá thư này tôi viết cũng sẽ rất dài đấy. Tuy nhiên, tôi sẽ không thêm vào bất cứ kết luận hay chút suy diễn nào của bản thân mình đâu. Tôi sẽ chỉ viết ra đây những gì bản thân mình đã chứng kiến. Nhưng, ở phần mở đầu này, tôi sẽ bắt đầu từ cái ngày tôi tình cờ gặp lại em ở Zao nhé. Tại sao ngày hôm đó tôi lại đến khu suối nước nóng Zao ư? Thật đơn giản, vì đó chỉ là một sự ngẫu nhiên mà thôi. Vụ làm ăn đầu tiên của tôi làm chung với một người bạn thân không được suôn sẻ, và trong lúc túng quẫn, chúng tôi đã viết giấy ghi nợ để vay tiền của một kẻ vô lại. Đó là tờ giấy ghi nợ nặng lãi mà chúng tôi đã không còn cách nào khác phải vay mượn với ý định sẽ không nhanh chóng trả ngay khoản nợ ấy. Và, vì tôi đã vay nợ của một kẻ bỉ ổi, một kẻ chuyên dùng những khoản cho vay nặng lãi làm cần câu cơm của mình, nên đến đúng kỳ hạn, kiểu gì chúng tôi cũng phải chồng đủ cả gốc lẫn lãi để trả cho hắn. Bởi vậy, chúng tôi đã nhờ cậy bạn bè và một khách hàng của công ty ở Tokyo, nên tôi đã lên Tokyo. Tôi chạy vạy nhờ vả khắp nơi ở Tokyo trong vòng khoảng một tuần nữa, nhưng không mượn được tiền ở đâu cả. Tôi cuống hết cả lên. Khi đến khu vực gần ga ở Iidabashi, lúc vô tình quay lại nhìn đằng sau, tôi thấy một cậu thanh niên trẻ tuổi đang nhìn tôi. Cậu này trông ăn vận rất lịch sự, nhưng tôi có cảm giác như cậu ta là người của tên vô lại kia. Tôi thầm nghĩ, công ty của chúng tôi là một công ty bé con chỉ có hai người là tôi và bạn tôi, do đó hắn đã suy luận rằng việc tôi lên Tokyo nghĩa là tôi đang chạy trốn, nên đã bám theo tôi đến đây. Tôi len vào dòng người đông đúc rồi nhảy lên một chuyến xe điện đang tiến vào nhà ga. Tức thì, cậu ta cũng chạy vọt vào nhà ga, cố tình mở cánh cửa của toa tàu vừa mới đóng lại, và nhảy vào toa tàu. Giờ đây nghĩ lại, tôi thấy đó có lẽ chỉ là ảo giác của mình mà thôi. Chàng trai đó vô tình đứng ở đó, và bất chợt gặp phải ánh mắt của tôi. Rồi có thể cậu ta ngẫu nhiên giống như tôi cũng nhảy lên cùng một chiếc xe điện. Thế nhưng tôi vẫn cứ muốn chạy trốn chàng thanh niên ấy. Và tôi ngờ ngợ cậu ta thi thoảng vẫn dõi ánh mắt về phía tôi. Tôi cứ đinh ninh rằng cậu ta bám theo tôi. Thế là tôi thử xuống ga Ochanomizu xem sao. Ngay lập tức cậu thanh niên cũng xuống theo. Tôi định cắt đuôi cậu thanh niên bằng cách lên một chiếc tàu điện khác và đến ga Tokyo. Tàu vừa mới đến ga Tokyo, tôi chạy hết tốc lực xuống cầu thang, hoàn toàn chẳng nghĩ ngợi xem mình sẽ đi đâu, cứ chạy cuống chạy cuồng sang một nhà ga khác, đến tận phía đầu nhà ga, rồi đứng nấp ở đó. Tôi không còn thấy bóng dáng cậu thanh niên đó nữa. Chiếc tàu điện đi tới, và tôi cứ thế lên trên con tàu đó dù không biết nó đi về đâu. Chuyến tàu ngay lúc đó dừng lại ở ga Ueno. Tôi định bụng sẽ biến mất trong một khoảng thời gian. Đến đâu cũng được, miễn là đi đâu đó khoảng hai, ba ngày. Lúc đến quầy bán vé, tôi lo sợ nhìn quanh, nhưng bóng dáng cậu thanh niên ban nãy không còn thấy ở đâu nữa. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao tôi lại mua vé đến vùng Yamagata. Nhưng khi rút từ trong túi quần ra tờ giấy bạc, tôi đã buột miệng nói: “Cho tôi một chiếc vé đi Yamagata”. Nhìn vào bảng giờ tàu treo ở cửa soát vé, tôi để ý thấy tàu Tsubasha số 5 sẽ khởi hành sau năm phút nữa, nên vội vã chạy dọc sân ga, rồi dừng lại ở ngay trước cánh cửa toa tàu, và lần này, tôi thận trọng nhìn khắp xung quanh. Tôi không còn thấy cậu thanh niên đó ở chỗ nào nữa cả. Đoàn tàu chuyển bánh, vài giờ đồng hồ trôi qua, sẩm tối thì tới Yamagata. Tôi đứng ở vị trí cuối cùng trong đoàn người đi xuống tàu, ra khỏi cửa soát vé. Đến lúc ấy, tôi mới thực sự thở phào nhẹ nhõm. Trong ví lúc này chỉ còn vỏn vẹn sáu vạn yên. Trừ đi tiền vé đến Osaka, số tiền còn lại thực sự làm tôi cảm thấy chán nản. Tôi định bụng sẽ tìm một nhà trọ rẻ tiền, nên bỏ qua khu phố sầm uất trước cửa nhà ga, đi bộ đến bến xe buýt đi Zao. Mùa đông mọi người thường đến đây để trượt tuyết, nên chắc chắn sẽ có những quán trọ nhỏ trên núi dành cho khách đi trượt tuyết. Những chỗ đó vào mùa này có lẽ rất vắng khách. Tôi định sẽ ở ẩn tại đó chừng hai, ba ngày, sau đó liên lạc với người bạn ở Osaka, rồi tính tiếp. Phải nói rằng, trong quãng thời gian mười năm trời kể từ khi chia tay em, thực sự tôi đã trải qua rất nhiều chuyện. Quả thực là rất nhiều chuyện. Nếu như viết hết tất cả những chuyện của mười năm đó ra đây, chắc phải mất đến hai, ba năm mất. Người ta vẫn hay nói từ “tụt dốc”. Và mười năm trời qua, tôi đã “tụt dốc” một cách từ từ và bền bỉ. Nhưng ngẫm kỹ, vào cái thời khắc tôi vào cửa hàng bách hóa chỗ khu phố Kawahara ở Kyoto, rồi chợt nhớ đến Yukako và đặt bước chân lên quầy hàng chăn ga gối đệm ở tầng sáu sau khi cưới em được một năm, tôi bắt đầu tụt dốc. Trong vòng mười năm, tôi đã làm việc cho hơn mười công ty, các phi vụ làm ăn cũng không phải là ba hay bốn. Cũng có không biết bao nhiêu cô gái đã có quan hệ tình cảm với tôi. Trong số đó cũng có cô đã nuôi báo cô cái thằng tôi tới ba năm trời. hiện tại, tôi cũng đang sống cùng một cô. Đó là một cô gái hiền lành rất mực yêu thương cái thằng đàn ông khó chịu này, nhưng tôi chẳng cảm thấy có chút yêu thương gì. Để mô tả cuộc sống của tôi trong mười năm trời qua, nếu liên tưởng tới môn đấu vật sumo, có thể thấy nó ở trong những trạng thái như thế này. Nếu lại gần đối phương thì sẽ bị né tránh. Nếu chọc vào, sẽ bị tấn công phản đòn. Nếu đánh bằng tay trên thì sẽ bị ngã oạch bởi cú đánh tay dưới. Nếu tấn công từ bên ngoài thì sẽ bị đáp trả bằng cú đánh từ bên trong. Có làm gì đi chăng nữa, tôi cũng thất bại thê thảm. Cứ như có một con ma nào đó bám theo và ám tôi vậy. Và có thể nói rằng, lúc tôi gặp lại em tại Zao là thời kỳ tôi đang rơi xuống tận đáy cùng rồi. Đặt chân đến khu suối nước nóng Zao, tôi leo lên con dốc thoai thoải của khu phố suối nước nóng nồng nặc mùi lưu huỳnh. Dọc bên đường, một vài ngôi nhà nghỉ nằm nối tiếp nhau. Nghĩ đến số tiền trong ví, tôi thấy mình không có khả năng trọ ở những khu nhà nghỉ kiểu này. Tôi hỏi người bán thuốc lá xem liệu ở trên núi có nhà trọ nhỏ nào cho thuê hay không. Người ta mách cho tôi biết là cạnh đầm Ddokko có nhà trọ kiểu ấy, nên tôi đi men theo con đường đến bến để lên tuyến cáp treo. Tôi di chuyển cáp treo ở bên cạnh khu vườn thược dược để lên đầm Ddokko, rồi tiếp tục đi bộ. Cạnh đầm có một ngôi nhà có vẻ đúng là kiểu nhà trọ tôi đang đi tìm, nên tôi bước vào trong đó và hỏi xem tiền thuê phòng khoảng hai, ba ngày hết bao nhiêu tiền. Nó thậm chí còn rẻ hơn chút xíu so với dự tính của tôi. Tôi thấy nhẹ cả người và ngồi phịch xuống chiếc ghế dài cáu bẩn. Bấy giờ không phải là mùa du lịch, cũng chẳng có khách nào trọ lại ở đây, nên họ cũn chẳng có dịch vụ gì nhiều lắm. Họ hỏi tôi rằng đồ ăn cũng chỉ có một vài món hiện có thôi, liệu có được không. Tôi đồng ý rồi lên một căn phòng ở tầng hai, nơi nếu vào mùa đông, sẽ chật kín các cô cậu thanh niên đến đây thuê trọ. Vị chủ nhân trẻ tuổi cho biết, ngôi nhà hơi lớn chút xíu được gọi là ngôi nhà trọ nhỏ trên núi này, có tầng một dùng để bản hàng và làm nhà ăn, tầng hai là các căn phòng trọ, cứ đến mùa đông, tầng hai sẽ làm lối ra vào chính. Tuyết bao giờ cũng rơi dày bốn mét, và tầng một sẽ bị lấp hết. Người ấy bảo rằng nếu muốn đi tắm suối nước nóng, có thể xuống khu phố nhà trọ bằng cáp dọc. Ở đó có nhà tắm công cộng do thành phố đứng ra kinh doanh với giá rất rẻ. Sau khi ăn xong bữa tối sớm, tôi lại một lần nữa leo lên chiếc áp dọc, đến tắm trong bồn tắm lưu huỳnh và uống cà phê trong một quán giải khát nhỏ, rồi lại trở về ngôi nhà trọ nhỏ trên núi nằm bên cạnh đầm Ddokko. Như em đã viết ở lá thư đầu tiên, tối hôm đó, bầu trời không trăng, không sao. Khoảng tám giờ tôi vùi đầu vào chăn ngủ mê mệt. Quả thực, tôi đã ngủ vùi mê mệt như một con sâu. Sáng hôm sau, sau khi ăn xong bã sáng, tôi muốn uống một tách cà phê. Tôi lại xuống khu phố nhà trọ bằng cáp dọc, rồi vào tỏng cái quán giải khát mà tối hôm trước tôi đã ngồi ở đó. Tôi có ý định cứ thong thả nhâm nhi cà phê ở đó cho đến trưa, nhưng chợt nhớ tới việc phải liên lạc với người bạn ở Osaka. Tôi định gọi luôn bằng điện thoại ở quán giải khát, nhưng lại nghĩ chắc hẳn người bạn cùng mở chung công ty với tôi kia cũng đang chạy vạy khắp nơi để lo cho được khoản tiền ấy, biết đâu cậu ấy cũng đang bị tên vô lại kia bám riết và cũng đang lẩn trốn ở một nơi nào đó. Tôi nghĩ nếu như cậu ấy đang trốn chạy, chỉ có thể là ở chỗ ấy mà thôi. Cậu ấy đã có vợ con, nhưng lại có quan hệ tình cảm với một cô gái khác. Nhưng cuốn sổ có ghi số điện thoại nhà cô gái đó lại nằm trong chiếc cặp du lịch nhỏ của tôi, để ở trên tầng hai ngôi nhà trọ nhỏ trên núi bên cạnh đầm Ddokko. Tôi vội vàng quay trở lại khu vườn thược dược. Cuống quýt, và cũng chẳng còn thời gian để chờ chuyến cáp treo tiếp theo, tôi vội lên chuyến cáp treo mà ai đó đã ngồi trước ở trong đó rồi. Và rồi, ở trên đó, tôi đã vô tình gặp lại em. Nỗi sửng sốt khi nhìn thấy người phụ nữ ngồi trước mặt mình trong bộ đồ sang trọng ấy có lẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần cảm xúc của em lúc đó. Tôi thì râu chẳng cạo, đi đôi giày bẩn thỉu, cổ áo sơ mi cáu ghét, thêm nữa, khuôn mặt thì ảm đạm như bùn đất vậy. Ai trông thấy cũng có thể đoán ra cảnh ngộ của tôi lúc bấy giờ. Tôi đã lúng túng. Tôi mong sao mình có thể biến đi thật nhanh. Xuống khỏi chuyến cáp treo, tôi vội vàng đi về ngôi nhà trọ nhỏ trên núi, không chút quay đầu lại nhìn em, mặc dù tôi thấy nhớ em lắm. Rồi tôi mau chóng leo lên tầng hai, đứng nấp sau khung cửa sổ nhìn em và cậu con trai tay cầm nạng đang từ từ bước đi từng bước một qua ngôi nhà trọ. Ngay cả khi em đã đi qua khu rừng, rẽ phải lên con đường núi, rồi hoàn toàn mất hút, một lúc lâu sau, tôi vẫn đứng lặng ở đó, nhìn theo góc rẽ của con đường mà mẹ con em đã đi qua. Những tia nắng lấp lánh xuyên qua tán lá trở thành những lưỡi gươm bơ vơ, lẻ loi, hình ảnh mà trong suốt quãng đời trước kia của mình, tôi chưa một lần nhìn thấy, và đâm vào trái tim bẩn thỉu của tôi. Tôi quên cả việc gọi điện thoại cho cậu bạn, cứ thế đứng dựa vào khung cửa sổ, đợi em và cậu con trai của mình lại rẽ vào con đường đó và trở về phía trước khu rừng. Vài giờ đồng hồ sau đó, khi tôi nhìn thấy bóng dáng em trong những tia nắng xuyên qua kẽ lá, có cái gì đó như thể dòng nước sôi cuộn trào lên từ cõi lòng tôi. Aki giờ đã là vợ của một người đàn ông khác, đã làm mẹ, và trông cô ấy thật đủ đầy, khỏe khoắn. Tôi nghĩ như vậy. Em không hề để ý rằng có tôi đang đứng nhìn từ cửa sổ tầng hai ở ngôi nhà trọ nhỏ trên núi. Em vẫn cứ thế, bước đi từng bước chậm rãi như ban nãy, hòa vào những tán cây rậm rạp trên con đường lên trạm cáp treo, rồi mất hút. Tối hôm đó, tại ngôi nhà trọ, ngoài tôi ra chẳng có thêm một người khác nào nữa. Người chủ quán trọ cỡ chừng bằng tuổi tôi khiêng đến cho tôi cái lò sưởi chạy dầu, lôi ra đủ đề tài để nói chuyện, rồi nhìn vào khuôn mặt chẳng nở lấy nổi một nụ cười của tôi, nhắc tôi khi đi ngủ nhớ tắt lửa và đi xuống dưới nhà. Tôi nghĩ lúc đó tầm khoảng chín giờ. Có lẽ khi ấy, em và con trai mình đang đứng ngắm sao ở khu vườn thược dược chăng. Tôi tắt ngọn đèn huỳnh quang, thắp một ngọn đèn nhỏ, rồi nằm dài trong chăn. Tiếng cây cối rập rờn trong gió vọng bên tai tôi, thi thoảng lại văng vẳng tiếng nói chuyện, cười đùa của vợ chồng người chủ quán trọ ở tầng dưới. Có lúc, tôi lại nghe thấy tiếng kính cửa sổ va đập vào một vật cứng nào đó. Hình như là một con bọ cánh cứng, không phải loài bướm đêm mà là một con bọ hung bay đến và va vào cánh cửa sổ. Tôi nhắm mắt lại hồi lâu, hít thở cái mùi của căn phòng ẩm ướt được hòa trộn bởi những âm thanh đó, nhưng ngược lại, cũng tràn ngập trong không gian tĩnh mịch đến đáng sợ. Tôi có cảm giác cái mùi này sao quen quen, nhưng thật khó diễn tả. Và, tôi nghe vọng tới từ góc phòng một âm thanh kỳ lạ. Tôi vùng dậy khỏi chăn, dõi ánh mắt vào cái góc phòng đã phát ra tiếng động ấy. Hai vệt tròn màu cẩm thạch lóe sáng. Tôi nhìn kỹ, thì ra là một chú mèo đang khom người, trườn về một phía. Khi mắt đã nhìn quen, tôi nhận thấy rõ độ to nhỏ cũng như màu lông của chú mèo, rồi còn nhìn thấy cả chiếc vòng bằng vải trên cổ chú ta nữa. Tôi nghĩ, chú mèo này đeo vòng cổ, nên chắc hẳn được nuôi trong nhà này, rồi tôi túm lấy cái gối huơ huơ đuổi chú mèo đi. Đúng lúc ấy, đập vào mắt tôi là một con chuột đang cuộn người bất động đối diện với chú mèo ở một góc khác của căn phòng. Tôi nhớ lại khi còn bé, khoảng hồi sáu hay bảy tuổi gì đó, duy nhất có một lần tôi đã chứng kiến cảnh con mèo ăn con chuột. Thế nhưng, bây giờ tôi lại tình cờ bắt gặp một cảnh tượng hiếm thấy này, tôi nghĩ, để xem kết cục thế nào nào, rồi ngồi im theo dõi những cử động của hai nhân vật ấy. Chú mèo dường như không để ý đến sự có mặt của tôi, gập đôi tai nhọn hoắt lại, tiến lên thêm một bước, rồi chờ đợi để thực hiện hành động tiếp theo một cách thận trọng đến độ kinh người. Cứ thế, chú ta tiến từng bước, từng bước một đến bên con chuột. Tôi đảo mắt nhìn khắp gian phòng, thử tìm xem có chỗ nào để con chuột tẩu thoát hay không, nhưng cửa phòng đã bị đóng chặt, cửa kính nơi cửa sổ cũng đã được khóa, lại còn chăng cả rèm nữa, có vẻ như chẳng còn chỗ nào để con chuột kia trốn chạy cả. Nhìn lên trần nhà, thẳng ngay phía trên đầu con chuột có một lỗ thủng. Nếu lúc này nó leo lên tường và chui vào cái lỗ kia nhỉ. Khi tôi đang nghĩ vậy thì chú mèo đã lao thẳng vào con chuột. Con chuột không chút kháng cự, như thể nó đã bị trói chặt vậy. Chú mèo dùng móng của hai chân trước túm lấy lưng con chuột, rồi lần đầu tiên, chú ta quay nhìn tôi. Chú ta lim dim đôi mắt nhìn tôi ra chiều đắc ý. Rồi chú ta bắt đầu vờn con chuột. Chú tung con chuột lên trên không. Con chuột lăn lông lốc, rồi lần đầu tiên, nó định bỏ chạy nhưng mau chóng bị tóm lại một cách dễ dàng, rồi tiếp tục bị tung lên cao. Chú mèo lặp đi lặp lại động tác ấy nhiều lần. Sự hồn nhiên thể hiện trong những động tác nhịp nhàng như thể chú mèo đang chơi trò tung hứng một quả bóng vậy. Nhìn mối liên hệ giữa hai sinh vật này, tôi thấy nó không phải là ranh giới mong manh giữa hành động của kẻ định giết và kẻ sắp bị giết, mà là một trò đùa của hai kẻ thứ tha cho nhau. Chú mèo tung con chuột lên cao hàng vài chục lần, con chuột lăn trái, lăn phải, rồi nằm im không động đậy, và nhìn tôi với vẻ mặt dường như mệt mỏi lắm rồi. Trong lòng tôi thầm kêu lên: “Thôi đi, đủ rồi đấy”. Ngay lúc ấy, chú mèo bắt đầu ngoạm phần lườn con chuột. Cơ thể con chuột đang sống kia cứ giảm đi từng tí một. Khi con chuột đã bị con mèo lật sấp cái cổ, tay và chân cứng đờ ra, hoàn toàn không có chút cử động gì nữa, chú mèo bắt đầu liếm các vệt máu của con chuột rỏ xuống trên chiếu. Rồi nó tiếp tục ăn nốt sinh vật nhỏ bé đã chết hẳn kia. Chú mèo ăn cả đến phần xương con chuột. Tôi còn nghe thấy tiếng chú ta rau ráu gặm phần xương đầu còn lại cuối cùng nữa kia. Sau khi liếm sạch sành sang chỗ máu bị rớt ra, chú ta lấy chân trước quệt đi quệt lại quanh mép. Có lẽ riêng cái đuôi con chuột là không hợp với vị giác của chú mèo thì phải, nên chỉ còn mình nó được chú ta để sót lại trên chiếu. Bất chợt, trong tôi xuất hiện ý nghĩ muốn giết chết chú mèo. Một nỗi căm giận khó tả trào lên sôi sục. Chỗ gần cửa ra vào cửa căn phòng có một lọ hoa để không, nên tôi nhẹ nhàng đứng dậy cầm ngay lọ hoa ấy, và tiến lại gần chú mèo đang mải liếm láp. Trông thấy tôi, phần lông phía lưng của chú ta xù lên, rồi chú ta chạy biến về phía cửa ra vào. Có lẽ chú ta đã nhận ra ý định của tôi. Tôi nghĩ, mày có trốn đằng giời. Làm gì có lối nào cho mày ra cơ chứ. Thế nhưng bức tường ngay cạnh cửa ra vào lại bị nứt vỡ, và có một lỗ hổng không chỉ có con mèo, mà ngay cả một con chó to cũng chui lọt nữa. Cái lỗ đó được một tấm ván che lấp, và nó như thể một trò lừa bịp, tôi không phát hiện ra, nhưng chú mèo thì lại biết đến nó. Chú mèo đẩy tấm ván ra, rồi khẽ khàng biến mất vào trong đó. Tôi ngồi trên cái chăn và hút thuốc. Rồi lơ đãng nhìn cái đuôi con chuột còn sót lại. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua nhỉ? Tôi dụi điếu thuốc lá thứ mấy gì đó, rồi nằm duỗi mình trong chăn. Một vài câu hỏi mà trong suốt mười năm trời chưa lúc nào ngừng nghỉ trong trái tim tôi, giờ đây lại bắt đầu hiện ra. Người con gái có tên Yukako rốt cuộc là một con người như thế nào? Và tại sao cô ấy lại tự dùng dao đâm vào cổ mình? Có lẽ nào tôi đã đối xử với cô ấy giống như con chuột kia? À mà không, phải chăng chính Yukako mói là chú mèo này. Để giải thích cho em về căn nguyên của những ý nghĩ này, có chăng tôi cần phải viết ra đây một vài chuyện đã xảy ra giữa tôi và Yukako. Song, tôi quyết định sẽ để dành việc đó vào một dịp khác. Đêm hôm đó, tôi không sao chợp mắt được, cứ nằm dài trong chăn và nghĩ ngợi. Hình ảnh chú chuột bị ăn sống đã mang đến cho tôi một tâm trạng đặc biệt, làm tôi vô cùng xúc động. Tôi đã nghĩ rất nhiều điều. Về em khi em mặc bộ quần áo màu mận chín và lướt qua dưới mắt tôi. Về những tháng năm kể từ khi hai ta quen biết cho tới lúc ly hôn. Về Yukako, người giờ đã chết. Về thời niên thiếu của mình ở Maizuru. Về tờ giấy vay nợ nặng lãi mà tôi đã ký. Về việc lo chạy vạy tiền nong trong lúc này. Trong lúc mông lung nghĩ ngợi những điều nó, tôi chợt nhận thấy một điều. Cả con chuột và con mèo kia đều chẳng phải là bất cứ một loài vật nào, mà dường như chúng chính là hình ảnh của bản thân tôi vậy. Trong vô số những quả tim mà sinh mệnh mình đang thai nghén, tôi đã nhìn thấy con chuột và con mèo vụt sinh ra, rồi lại vụt mất đi. Và rồi, tôi đã nghĩ, một ngày nào đó, tôi chơi vơi trong thế giới của cái chết, chắc hẳn khi ấy, tôi sẽ nhìn thấy được chính sinh mệnh của bản thân mình đấy nhỉ.