CHƯƠNG 11

    
olu đứng dậy.
  “Các bạn, đây là điểm xuất phát. Đây là cách để bọn tớ biết các cậu ở phe nào. Các cậu có thể không sẵn sàng lao ra đường để rồi bị bắt vì niềm tin của mình, nhưng nếu các cậu có niềm tin, cách này sẽ giúp chúng tớ biết. Nó sẽ tạo nên mạng lưới tin cậy khiến chúng tớ biết ai ở trong và ai ở ngoài. Nếu chúng ta muốn giành lại đất nước của mình, chúng ta cần làm việc này. Chúng ta cần làm điều gì đó giống thế này.”
  Ai đó trong số các thính giả - là Ange - giơ tay lên, cầm một chai bia.
  “Cứ coi như tớ ngốc nghếch đi nhưng tớ không hiểu gì hết. Tại sao các cậu muốn bọn tớ làm điều này?”
  Jolu nhìn tôi và tôi nhìn nó. Dường như mọi chuyện đã quá rõ ràng khi chúng tôi tổ chức buổi tối này. “Xnet không chỉ là cách để chơi game miễn phí. Nó là mạng lưới liên lạc mở cuối cùng ở Mỹ. Đây là cách cuối cùng để liên lạc mà không bị DHS rình mò. Để nó hoạt động, chúng ta cần biết những người chúng ta nói chuyện cùng không phải là gián điệp. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta cần biết những người chúng ta gửi tin nhắn đúng là họ.
  “Đó chính là lý do của bữa tiệc này. Các cậu ở đây vì bọn tớ tin các cậu. Ý tớ là, thực sự tin tưởng các cậu. Tin tưởng các cậu bằng cả mạng sống của bọn tớ.”
  Vài người lầm bầm. Nghe rõ sến và ngớ ngẩn.
  Tôi đứng vững lại.
  “Khi những quả bom phát nổ,” tôi nói, và rồi điều gì đó tuôn trào trong ngực tôi, điều gì đó thật đau đớn. “Khi những quả bom phát nổ, bốn người bọn tớ bị bắt ở phố Chợ. Vì một lý do nào đó, DHS quyết định rằng điều đó khiến bọn tớ đáng nghi. Họ trùm túi qua đầu bọn tớ, tống cả đám lên một con tàu và chất vấn bọn tớ nhiều ngày liền. Họ đã làm nhục bọn tớ. Chơi trò cân não với bọn tớ. Rồi thả bọn tớ đi.
  “Tất cả trừ một người. Bạn thân nhất của tớ. Cậu ấy đã ở cùng chúng tớ khi bị bắt đi. Cậu ấy bị thương và cần được chăm sóc. Đến giờ cậu ấy vẫn chưa ra khỏi đó. Họ nói họ chưa bao giờ thấy cậu ấy. Họ nói rằng nếu bọn tớ nói với ai về việc này, họ sẽ bắt bọn tớ và làm bọn tớ biến mất.
  “Vĩnh viễn.”
  Tôi run lên. Cảm giác nhục nhã. Nỗi nhục nhã khốn khiếp. Jolu chiếu đèn vào tôi.
  “Chúa ơi,” tôi nói. “Các cậu chính là những người đầu tiên tớ kể chuyện này. Nếu chuyện này lan ra khắp nơi, các cậu hãy tin rằng họ sẽ biết ai đã hé lộ chuyện này. Các cậu hãy tin rằng họ sẽ tới gõ cửa nhà tớ.” Tôi hít thở thật sâu. “Vì thế mà tớ tình nguyện tham gia Xnet. Vì thế mà cuộc đời của tớ, từ giờ trở đi, là chiến đấu chống lại DHS. Bằng từng hơi thở. Từng ngày. Cho tới khi chúng ta lại được tự do. Bất kỳ ai trong số các cậu cũng có thể khiến tớ vào tù, nếu các cậu muốn.”
  Ange lại giơ tay lên. “Tụi này sẽ không phản bội các cậu đâu,” cô nói. “Không bao giờ. Tớ biết khá rõ mọi người ở đây và có thể hứa với cậu điều này. Tớ không biết làm thế nào để biết nên tin tưởng ai, nhưng tớ biết không nên tin tưởng ai: những người già. Bố mẹ chúng ta. Những người lớn. Khi họ nghĩ về ai đó đang bị theo dõi, họ nghĩ đến ai đó khác, một kẻ xấu. Khi họ nghĩ về việc ai đó bị bắt và tống vào tù, đó sẽ là ai đó khác - ai đó da màu, ai đó trẻ, ai đó là người ngoại quốc.
  “Họ đã quên những đứa trẻ như tụi mình thì thế nào. Lúc nào cũng là đối tượng bị nghi ngờ! Bao nhiêu lần bạn lên xe buýt và bị mọi người nhìn như thể bạn đã súc miệng bằng chất thải và lột da những chú chó con?
  “Tệ hơn nữa là, ngoài kia càng ngày người ta càng biến thành người lớn sớm hơn. Trước đây, mọi người thường nói ‘Đừng bao giờ tin bất kỳ ai trên 30 tuổi’. Tớ sẽ nói, ‘Đừng tin bất kỳ tên khốn khiếp nào trên 25 tuổi!’ ”
  Câu nói đó khiến mọi người bật cười, cô cũng cười. Cô thật xinh, một vẻ xinh đẹp kỳ cục với khuôn mặt và quai hàm dài. “Không hẳn là tớ đang đùa đâu, biết không hả? Ý tớ là, nghĩ mà xem. Ai đã bỏ phiếu bầu những tên hề lố bịch đó? Ai đã để chúng xâm lược thành phố của chúng ta? Ai đã bỏ phiếu đồng ý đặt camera trong phòng học và theo dõi chúng ta khắp nơi bằng những con chip gián điệp đáng sợ trong những cái thẻ thông hành và ô tô? Không phải là những đứa mười sáu tuổi. Chúng ta có thể ngố, chúng ta có thể trẻ, nhưng chúng ta không phải là lũ cặn bã.”
  “Tớ muốn có câu đó trên áo phông,” tôi nói.
  “Sẽ là một câu hay đấy,” cô đáp. Bọn tôi mỉm cười với nhau.
  “Tớ đi đâu để tạo khóa đây?” cô nói rồi lôi điện thoại ra.
  “Chúng ta sẽ làm ở đằng kia, ở vị trí kín đáo gần hang. Tớ sẽ đưa cậu tới đó và cài đặt giúp cậu, rồi cậu cứ làm việc của mình và đưa máy cho các bạn xung quanh chụp ảnh khóa công cộng của cậu để họ có thể đăng nhập khi về nhà.”
  Tôi lên giọng, “Ồ! Thêm một điều nữa! Chúa ơi, tớ không thể tin mình đã quên điều này. Hãy xóa những bức ảnh đó sau khi các cậu đã nhập khóa! Chúng ta không đời nào muốn có một loạt ảnh cả đám đang tụ tập với nhau ngập tràn trên trang Flickr.”
  Đây đó vang lên tiếng cười khúc khích pha lẫn căng thẳng, rồi Jolu tắt đèn và trong bóng tối bất ngờ, tôi không thấy gì cả. Dần dần, mắt tôi điều chỉnh lại và tôi hướng về phía hang. Ai đó đi sau tôi. Ange. Tôi quay lại và cười với cô, cô cười lại, hàm răng phát sáng trong bóng tối.
  “Cảm ơn vì điều đó,” tôi nói. “Cậu thật tuyệt.”
  “Cậu nói thật về cái bao trùm đầu cậu và tất cả những thứ khác chứ?”
  “Tớ nói thật,” tôi nói. “Nó đã xảy ra. Tớ chưa bao giờ nói với bất kỳ ai, nhưng nó đã xảy ra.” Tôi nghĩ về nó vài giây. “Cậu biết đấy, trải qua suốt quãng thời gian kể từ lúc đó mà không được hé răng bất cứ điều gì, tớ bắt đầu cảm thấy nó như một cơn ác mộng. Nhưng lại là thật.” Tôi dừng lại và trèo lên hang. “Tớ mừng vì cuối cùng tớ đã nói được cho mọi người. Chỉ thêm một lúc nữa là có lẽ tớ sẽ nghi ngờ sự điên rồ của chính mình.”
  Tôi đặt laptop trên phần khô của tảng đá và khởi động nó từ đĩa DVD trong khi cô quan sát tôi. “Tớ sẽ khởi động lại cho từng người. Đây là một đĩa ParanoidLinux tiêu chuẩn, dù sao thì tớ nghĩ cậu phải tin tớ.”
  “Chết tiệt,” cô nói. “Tất cả là về sự tin tưởng phải không?”
  “Đúng thế,” tôi đáp. “Sự tin tưởng.”
  Tôi thiết lập lại khoảng cách khi cô chạy phần mềm tạo khóa, lắng nghe cô gõ phím và di chuyển chuột tạo nên những sự ngẫu nhiên, lắng nghe tiếng tiếng sóng vỗ, lắng nghe tiếng ồn của bữa tiệc từ mọi nơi có bia.
  Cô bước ra khỏi hang, mang theo laptop. Trên đó, trong những ký tự màu trắng phát sáng khổng lồ, là khóa công cộng, vân tay và địa chỉ e-mail của cô. Cô giữ màn hình cạnh mặt mình và đợi trong khi tôi rút điện thoại ra.
  “Cười nào,” cô nói. Tôi chụp ảnh cô và cho máy ảnh vào túi. Cô đi quanh gặp các thành viên trong buổi tiệc và để từng người chụp ảnh cô với cái màn hình. Thật náo nhiệt. Thật vui vẻ. Cô quả là có sức hút rất lớn - bạn không muốn cười cô mà chỉ muốn cười với cô thôi. Và Chúa ơi, thật là buồn cười! Chúng tôi đang tuyên bố một cuộc chiến bí mật với cảnh sát ngầm. Chúng tôi nghĩ mình là cái quái gì cơ chứ?
  Và mọi việc cứ thế tiếp diễn, trong một tiếng sau đó hoặc hơn, mọi người chụp ảnh nhau và lập khóa. Tôi đã gặp gỡ tất cả mọi người ở đó. Tôi biết nhiều người trong số họ - một vài người là do tôi mời tới - và những người khác là bạn của bạn tôi hoặc bạn của bạn của bạn tôi. Tất cả chúng tôi nên kết bạn với nhau. Cuối buổi tối hôm ấy, chúng tôi đã trở thành bạn của nhau. Họ đều là những người tốt.
  Khi mọi người đã xong việc, Jolu lập khóa cho mình rồi nhe răng cười bẽn lẽn với tôi. Dù sao cơn bực dọc của tôi cũng đã qua. Nó làm điều nó phải làm. Tôi biết dù nó có nói điều gì thì nó vẫn sẽ luôn ở đó vì tôi. Và chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian ở trong xà lim của DHS. Cả Van nữa. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra thì điều đó cũng sẽ gắn kết chúng tôi với nhau mãi mãi.
  Tôi lập khóa cho mình và đi quanh để mọi người chụp ảnh. Rồi tôi trèo lên cao, chỗ tôi đứng phát biểu ban đầu và kêu gọi mọi người chú ý.
  “Vậy là rất nhiều người trong các cậu đã để ý thấy rằng có một thiếu sót quan trọng trong quy trình này: điều gì sẽ xảy ra nếu chiếc laptop này không đáng tin? Điều gì sẽ xảy ra nếu nó đang lưu lại những chỉ lệnh của chúng ta? Điều gì xảy ra nếu nó đang theo dõi chúng ta? Điều gì sẽ xảy ra nếu Jose-Luis và tớ không đáng tin?”
  Thêm nhiều tiếng xôn xao nữa. Bầu không khí đã ấm hơn trước một chút, thêm nhiều bia hơn.
  “Tớ nghiêm túc đấy,” tôi nói. “Nếu chúng ta ở nhầm phe, việc này có thể đẩy tất cả chúng ta - tất cả các cậu - vào một đống rắc rối. Vào tù chẳng hạn.”
  Những tiếng xôn xao chuyển thành căng thẳng hơn.
  “Vậy nên tớ sẽ làm việc này,” tôi nói và nhặt cái búa lấy từ hộp dụng cụ của bố. Tôi đặt cái laptop xuống cạnh mình trên tảng đá và vung búa lên, Jolu cũng làm như vậy với cái móc chìa khóa. Rầm - tôi luôn mơ tới việc phá một cái laptop bằng búa, và giờ tôi đang làm đây. Tôi cảm thấy tuyệt vời một cách quái lạ. Và tệ hại nữa.
  Rầm rầm! Bảng màn hình rớt xuống và vỡ tan thành hàng nghìn mảnh, lộ ra bàn phím. Tôi tiếp tục đập nó cho tới khi bàn phím rơi ra, phơi ra bảng mạch chính và ổ cứng. Rầm! Tôi nhằm vào ổ cứng, vận hết sức bình sinh mà phang. Đến phát thứ ba lớp vỏ bọc mới tách ra, để lộ phần bên trong mỏng manh. Tôi cứ đập cho đến lúc không còn gì to hơn một cái bật lửa, rồi cho tất cả vào túi rác. Đám đông reo hò cuồng nhiệt - ồn đến mức tôi thực sự lo ai đó ở xa có thể nghe thấy và gọi cảnh sát mất.
  “Được rồi!” tôi nói. “Giờ thì, nếu các cậu muốn đi cùng tớ, tớ sẽ mang thứ này ra biển và ngâm trong nước muối mười phút.”
  Ban đầu không ai theo tôi, nhưng rồi Ange tiến tới, nắm tay tôi trong bàn tay ấm áp của cô và nói “Đẹp tuyệt” vào tai tôi, chúng tôi cùng nhau đi bộ xuống biển.
  Bãi cát tối om như mực và nguy hiểm khó lường, ngay cả khi chúng tôi dùng đèn móc khóa. Bình thường, những tảng đá trơn tuột và sắc nhọn đã đủ khó đi rồi, chưa nói đến việc phải cố gắng giữ thăng bằng với gần ba kilôgam đồ điện tử vỡ tan tành trong túi. Tôi bị trượt chân một lần và cứ tưởng sẽ bị thương, nhưng Ange đã tóm lấy tôi bằng một lực mạnh bất ngờ và giúp tôi đứng vững lại. Cô kéo tôi lại gần mình, đủ gần để tôi ngửi thấy mùi nước hoa cô dùng, giống như mùi ô tô mới. Tôi yêu mùi đó.
  “Cảm ơn,” tôi đứng vững lại, nhìn vào đôi mắt to được phóng đại bởi cặp kính gọng kim loại đen kiểu con trai của cô. Trong bóng tối, tôi không thể nói chúng màu gì, nhưng tôi đoán màu gì đó trầm, dựa trên mái tóc sẫm và nước da ô liu của cô. Trông cô giống dân Địa Trung Hải, có thể là Hy Lạp, Tây Ban Nha hoặc Ý.
  Tôi cúi người nhúng túi xuống biển, để nó ngập trong nước muối. Tôi bị trượt chân một chút, khiến giày bị thấm nước, và tôi thề là cô đã cười. Chúng tôi không nói một lời từ lúc đi ra biển đến giờ. Có điều gì đó thật diệu kỳ trong sự im lặng của chúng tôi.
  Tính đến thời điểm đó trong đời, tôi đã hôn tổng cộng ba cô gái, không tính khoảnh khắc khi tôi quay lại trường và được đón chào như một anh hùng. Đó là một con số không lớn cũng không nhỏ. Tôi có một rađa về con gái khá chính xác, và tôi nghĩ lúc đó mình đã có thể hôn Ange. Cô không quyến rũ và xinh đẹp theo kiểu truyền thống, nhưng sự kết hợp giữa một cô gái, một buổi tối và một bãi biển thật dễ khiến người ta xao lòng, thêm vào đó, cô còn thông minh, sôi nổi và nhiệt tình.
  Nhưng tôi đã không hôn hay nắm tay cô. Thay vào đó chúng tôi có một khoảnh khắc mà tôi chỉ có thể miêu tả về mặt tinh thần. Sóng, đêm, biển, đá, và hơi thở của chúng tôi. Khoảnh khắc cứ kéo mãi. Tôi thở dài. Thật giống một chuyến rong chơi. Tối nay tôi có rất nhiều việc phải làm, nhập tất cả chìa khóa của mọi người vào chùm chìa khóa của mình, đăng ký chúng và công bố những khóa đã được đăng ký. Khởi động mạng lưới tin cậy.
  Cô cũng thở dài.
  “Đi thôi,” tôi nói.
  “Ừ,” cô đáp.
  Chúng tôi quay về. Đêm đó là một đêm tuyệt vời.
  Jolu đợi bạn của anh trai mình tới lấy thùng đá. Tôi cùng những người khác đi bộ tới trạm xe buýt gần nhất và lên xe. Tất nhiên, không ai trong chúng tôi sử dụng thẻ xe buýt. Tới thời điểm đó thì các thành viên Xnet đã hình thành thói quen sao thẻ của người khác ba hay bốn lần một ngày, như vậy mỗi lần đi họ lại có một danh tính mới.
  Thật khó để giữ trật tự trên xe buýt. Cả đám đều đã ngà ngà say, và dưới ánh sáng chói của đèn xe, mặt mũi đứa nào trông cũng tếu tếu. Bọn tôi khá ồn ào và tài xế đã phải sử dụng hệ thống liên lạc nội bộ hai lần để nhắc bọn tôi trật tự, rồi nói nếu bọn tôi không im mồm đi thì ông sẽ gọi cảnh sát.
  Lời dọa dẫm khiến bọn tôi lại cười rúc rích rồi lũ lượt xuống xe trước khi ông gọi cánh sát thật. Giờ thì cả đám đang ở North Beach, có nhiều xe buýt, taxi, BART tại phố Chợ, các hộp đêm sáng đèn neon và các quán cà phê, thế là bọn tôi tản ra mỗi người một hướng.
  Tôi về nhà, khởi động Xbox và bắt đầu gõ các mã khóa từ màn hình điện thoại của mình. Thật là một công việc nhàm chán và buồn ngủ. Tôi hơi say, và nó đã ru tôi vào giấc ngủ gật gù.
  Tôi chuẩn bị gục đầu xuống thì một cửa sổ tin nhắn hiện lên.
  > Xin trào!
  Tôi không nhận ra cái nick này - spexgril - nhưng tôi có thể đoán được đó là ai.
  > hi
  Tôi thận trọng gõ.
  > tớ đây, mình đã gặp nhau tối nay
  Rồi cô gõ một dòng ký tự mã hóa. Tôi đã nhập mã công cộng của cô vào chùm chìa khóa của mình nên tôi ra lệnh cho chương trình chat dùng khóa đó để giải mã.
  > tớ đây, mình đã gặp nhau tối nay
  Chính là cô!
  > Thật vui vì gặp cậu ở đây
  Tôi gõ, mã hóa nó bằng khóa công cộng của mình rồi gửi đi.
  > Gặp cậu thật tuyệt
  Tôi gõ.
  > Cậu cũng thế. Tớ không gặp nhiều anh chàng thông minh, dễ thương mà còn có ý thức xã hội nữa. Được lắm, cậu không cho một cô gái cơ hội nào cả.
  Tim tôi dộng thịch thịch trong lồng ngực.
  > Xin chào? Này này? Vẫn còn ở đấy chứ hả? Tớ không sinh ra ở đây đâu, các cậu, nhưng chắc chắn tớ sẽ chết ở đây. Đừng quên trả tiền boa cho những cô bồi bàn, họ đã làm việc chăm chỉ. Tớ ở đây cả tuần.
  Tôi cười lớn.
  > Tớ đây, tớ đây. Đang cười nhiều tới mức không gõ nổi
  > Chà ít nhất trò hài kịch chat của tớ vẫn còn hấp dẫn
  Ừm.
  > Tớ cũng thấy thực sự rất tuyệt vời khi được gặp cậu
  > Yeah, tất nhiên rồi. Cậu sẽ đưa tớ đi đâu?
  > Đưa cậu?
  > Trong cuộc phiêu lưu tiếp theo của chúng ta?
  > Tớ cũng chưa có kế hoạch gì
  > Oki-vậy tớ sẽ đưa CẬU đi. Thứ Sáu. Công viên Dolores. Buổi hòa nhạc ngoài trời bất hợp pháp. Hãy tới đó nếu không cậu là đồ mười hai mặt.
  > Đợi đã gì cơ?
  > Cậu không đọc Xnet à? Nó ở khắp mọi nơi. Cậu đã bao giờ nghe nói về Speedwhores chưa?
  Suýt nữa thì tôi chết sặc. Đó là ban nhạc của Trudy Doo - và Trudy Doo chính là người phụ nữ đã trả tiền để tôi và Jolu cập nhật mã indienet.
  > Có tớ nghe rồi
  > Họ tổ chức một buổi biểu diễn lớn và đã có khoảng năm mươi ban nhạc đăng ký, diễn ra tại các sân tennis, mang xe tải với dàn loa tới và chơi cả đêm
  Tôi cảm giác như thể mình sống trên hoang đảo vậy. Làm sao mà tôi lại bỏ lỡ điều này chứ? Thỉnh thoảng, trên đường tới trường, tôi có đi ngang qua một hiệu sách của những người theo chủ trương vô chính phủ ở Valencia, chỗ đó treo poster của một nhà cách mạng cũ tên là Emma Goldman với lời chú thích “Nếu tôi không thể nhảy múa, tôi không muốn là một phần trong cuộc cách mạng của bạn.” Tôi đã vắt kiệt toàn bộ tâm sức mới tìm ra cách sử dụng Xnet để tổ chức cho những chiến binh tận tụy phá rối DHS, nhưng vụ này còn “ngầu” hơn rất nhiều. Một buổi hòa nhạc lớn - tôi không biết làm thế nào để tổ chức những sự kiện như thế này, nhưng tôi mừng vì ai đó đã làm.
  Và giờ đây, khi nghĩ về nó, tôi tự hào khủng khiếp vì họ đang sử dụng Xnet để làm điều đó.
  Ngày hôm sau, tôi giống hệt một thây ma. Ange và tôi đã chat chit - tán tỉnh - tới tận bốn giờ sáng. May cho tôi, hôm ấy là thứ Bảy và tôi có thể ngủ nướng, nhưng trong tình trạng váng vất sau cơn say và thiếu ngủ thì tôi khó có thể kết hợp được hai thông tin đó với nhau.
  Cuối cùng thì đến giờ ăn trưa tôi cũng bò dậy được và vác xác xuống phố. Tôi vật vờ đến cửa hàng Thổ để mua cà phê - dạo này, nếu đi một mình, tôi luôn mua cà phê ở đó, như kiểu anh chàng người Thổ và tôi cùng tham gia vào một câu lạc bộ bí mật.
  Trên đường, tôi đi ngang qua rất nhiều bức graf- fiti mới. Tôi thích nghệ thuật graffiti ở Mission; nó thường xuyên xuất hiện trong những tác phẩm trên tường cực lớn và đẹp tuyệt hoặc tranh biếm họa của sinh viên mỹ thuật. Tôi thích một điều là những người mê vẽ graffiti bất hợp pháp ở Mission vẫn tiếp tục hoạt động, ngay trước mũi DHS. Một hình thức khác của Xnet, tôi nghĩ vậy - họ hẳn phải có tất cả các cách để biết điều gì đang xảy ra, ở đâu vẽ được, camera nào đang hoạt động. Tôi thấy có vài camera đã bị phun sơn lên.
  Có lẽ họ sử dụng Xnet!
  Trên tường rào của một bãi để xe ô tô là dòng chữ phun sơn mới tinh, cao ba mét: ĐỪNG TIN BẤT KỲ AI TRÊN 25.
  Tôi dừng lại. Ai đó đã rời “bữa tiệc” tối qua và tới đây cùng với một bình sơn chăng? Rất nhiều người trong số họ sống ở khu vực này.
  Tôi mua cà phê rồi lang thang quanh thành phố một chút. Tôi cứ nghĩ mình nên gọi cho ai đó để hỏi xem họ có muốn đi xem phim hay làm gì đó không. Đó là việc tôi thường làm vào một ngày thứ Bảy lười nhác như hôm nay. Nhưng tôi gọi cho ai đây? Van sẽ không nói chuyện với tôi, tôi cũng không nghĩ mình đã sẵn sàng nói chuyện với Jolu, và Darryl...
  Chà, tôi không thể gọi Darryl.
  Tôi cầm cà phê về nhà, lướt qua các blog trên Xnet. Người ta không thể dùng những blog ẩn danh này để truy ra bất kỳ tác giả nào - trừ khi tác giả đó ngớ ngẩn đến mức tự viết tên mình lên - và có rất nhiều người như vậy. Hầu hết bọn họ thờ ơ với chính trị, nhưng cũng có nhiều người khác không như vậy. Họ nói về trường học và sự bất công ở đó. Họ nói về cảnh sát. Họ tag nhau.
  Hóa ra kế hoạch cho buổi biểu diễn ở công viên đã được đăng hàng tuần nay. Nó nhảy từ blog này sang blog khác, tạo thành một phong trào nở rộ mà tôi không hề biết. Và buổi biểu diễn có tên là “ĐỪNG TIN BẤT KỲ AI TRÊN 25.”
  Chà, điều này giải thích Ange lấy nó từ đâu. Đúng là một khẩu hiệu hay.
  Sáng thứ Hai, tôi quyết định sẽ ghé qua hiệu sách vô chính phủ, định bụng sẽ mua một trong những tấm poster của Emma Goldman. Tôi cần một lời nhắc nhở.
  Tôi vòng xuống phố 16 và khu Mission trên đường tới trường, đi lên Valencia và đi ngang qua. Cửa hàng đóng cửa, nhưng tôi thấy giờ đóng cửa và biết chắc là họ vẫn treo tấm poster đó.
  Lúc đi xuống Valencia, tôi choáng ngợp khi thấy bao nhiêu thứ ĐỪNG TIN BẤT KỲ AI TRÊN 25 ở đó. Một nửa số cửa hàng bày các món đồ ĐỪNG TIN trên cửa sổ: hộp ăn trưa, quần áo ngủ nữ, hộp bút chì, mũ lưỡi trai. Các cửa hàng hippie càng ngày càng trở nên nhanh nhạy hơn, tất nhiên rồi. Khi những khái niệm mới lan tỏa trên mạng được khoảng một hoặc hai ngày, các cửa hàng đã bắt kịp bằng cách bày các sản phẩm lên cửa sổ. Một đoạn video ngắn và vui nhộn trên YouTube của một gã tự phóng mình lên không trung bằng hai ống phản lực chứa nước có ga sẽ hạ cánh xuống hộp thư của bạn vào thứ Hai, đến thứ Ba là bạn đã có thể mua áo phông in hình lấy từ đoạn video đó.
  Nhưng thật kinh ngạc khi thấy thứ gì đó nhảy từ Xnet vào các cửa hàng lớn. Những chiếc quần jean mài của các nhà thiết kế với những khẩu hiệu được viết tỉ mẩn bằng mực bút bi cấp ba. Những miếng đắp thêu cầu kỳ.
  Tin tốt thường lan nhanh.
  Nó được viết trên bảng khi tôi tới lớp học Nghiên cứu Xã hội của cô Galvez. Bọn tôi ngồi xuống bàn, cười với nó. Dường như nó cũng cười lại. Tôi cực kỳ phấn khích với cái ý tưởng rằng tất cả bọn tôi có thể tin tưởng lẫn nhau, rằng kẻ thù có thể bị nhận diện. Tôi biết nó không hoàn toàn đúng, nhưng nó cũng không hoàn toàn sai.
  Cô Galvez bước vào, hất tóc và đặt SchoolBook của mình lên bàn rồi khởi động máy. Cô cầm phấn lên, quay mặt về phía bảng. Cả lớp bật cười. Cười vui thôi.
  Cô quay lại và cũng bật cười. “Có vẻ như lạm phát đã hạ gục những chuyên gia viết khẩu hiệu của quốc gia. Bao nhiêu người trong số các em biết câu nói này xuất phát từ đâu?”
  Chúng tôi nhìn nhau. “Dân hippie?” Ai đó lên tiếng và cả lớp cười phá lên. Dân hippie xuất hiện khắp nơi ở San Francisco, cả kiểu cũ - những kẻ nghiện ngập, râu ria xồm xoàm và quần áo tự nhuộm lấy, lẫn kiểu mới - những kẻ thích chưng diện và chơi bóng ném hơn là chống đối lại bất cứ điều gì.
  “Chà, đúng rồi, dân hippie. Nhưng ngày nay, khi nói đến dân hippie, chúng ta chỉ nghĩ đến quần áo và âm nhạc. Quần áo và âm nhạc chỉ là phụ so với phần chính của cái đã khiến thập niên ấy, những năm sáu mươi, trở nên quan trọng.
  “Các em đã nghe nói về việc phong trào dân quyền đã đặt dấu chấm hết cho nạn phân biệt chủng tộc, những đứa trẻ da đen và da trắng như các em đi xe buýt đến miền Nam để ký những phiếu bầu cử đen và chống lại sự phân biệt chủng tộc của nhà nước. California là một trong những nơi sản sinh ra nhiều nhà lãnh đạo phong trào dân quyền nhất. Chúng ta luôn quan tâm đến chính trị hơn một chút so với những nơi khác trên đất nước, và California cũng là nơi mà những người da đen có thể tìm được công việc trong các nghiệp đoàn nhà máy như người da trắng, vậy nên họ khá hơn một chút so với bà con của mình ở miền Nam.
  “Các sinh viên ở Berkeley đã cử một phái đoàn gồm những người tích cực đòi tự do đi về phía Nam, những người này được chiêu mộ thêm người từ các bàn thông tin trong khuôn viên trường đại học, ở Bancroft và đại lộ Telegraph. Có lẽ các em đã thấy những chiếc bàn ấy vẫn còn ở đó tới ngày nay.
  “Trường Berkeley đã cố dập tắt phong trào này. Hiệu trưởng ra lệnh cấm tổ chức các hoạt động chính trị trong trường, nhưng những sinh viên đòi dân quyền không lùi bước. Cảnh sát cố gắng bắt một anh chàng đang phát tài liệu tại một trong những bàn này và tống anh ta vào một cái xe tải, nhưng ba nghìn người đã bao vây chiếc xe và không cho nó nhúc nhích. Họ không để cảnh sát tống anh ta vào tù. Họ đứng trên nóc xe tải và diễn thuyết về Luật sửa đổi đầu tiên và Quyền tự do ngôn luận.
  “Việc này đã kích động phong trào đòi quyền tự do ngôn luận. Đó là nơi khởi đầu của trào lưu hippie, nhưng cũng là nơi nhiều phong trào sinh viên cấp tiến xuất hiện. Những tổ chức quyền lực đen(1) như Báo Đen - rồi cả những nhóm đòi quyền lợi cho người đồng tính nam như Báo Hồng. Các nhóm phụ nữ cấp tiến, thậm chí cả ‘những người ly khai đồng tính nữ’ muốn thủ tiêu tất cả đàn ông! Và những người Yippie(2). Đã ai từng nghe về người Yippie chưa?”
  “Có phải họ đã cho Lầu Năm Góc bay lên không ạ?” tôi hỏi. Tôi đã xem một bộ phim tài liệu về vụ này.
  Cô Galvez bật cười. “Cô quên mất việc này đấy, nhưng đúng thế, chính là họ! Yippie là những người hippie rất quan tâm đến chính trị, nhưng cách nhìn của họ không nghiêm trọng như cách chúng ta nghĩ về chính trị ngày nay. Họ rất ham vui. Thích chơi khăm. Họ ném tiền vào Sàn Chứng khoán New York. Họ kéo hàng trăm người chống đối đến bao vây Lầu Năm Góc với hàng trăm những kẻ biểu tình và nói một câu thần chú mà người ta cho là để làm tòa nhà bay lên. Họ phát minh ra một loại ma túy gây ảo giác tưởng tượng mà các em có thể phun vào nhau bằng súng phun nước, bắn nhau và giả bộ bị kích thích. Họ rất vui vẻ và làm nên những chương trình truyền hình tuyệt vời - một anh hề Yippie tên là Wavy Gravy đã từng tập hợp được hàng trăm người chống đối ăn vận giống ông già Noel rồi các máy quay sẽ chiếu hình ảnh cảnh sát đang bắt giữ, lôi kéo ông già Noel trên bản tin tối hôm đó - và họ đã huy động được rất nhiều người.
  “Khoảnh khắc hoành tráng nhất của họ là Hội nghị Dân chủ Quốc gia năm 1968, nơi họ kêu gọi các cuộc biểu tình để phản đối chiến tranh Việt Nam. Hàng nghìn người biểu tình đổ về Chicago, ngủ trong công viên và đứng gác hàng ngày. Năm đó, họ đã biểu diễn rất nhiều trò kỳ lạ, ví dụ cho một con lợn tên là Pigasus tranh cử tổng thống. Cảnh sát và người biểu tình chiến đấu trên đường - họ đã làm việc này nhiều lần trước đây, nhưng cảnh sát Chicago không đủ thông minh để chừa các phóng viên ra. Họ đánh các phóng viên, vậy là cả đất nước chứng kiến cảnh con cái họ bị cảnh sát Chicago đánh đập tàn bạo. Họ gọi đó là “cuộc bạo động của cảnh sát”.
  “Những người Yippie thích nói rằng, ‘Đừng bao giờ tin ai trên 30 tuổi.’ Điều này có nghĩa là những người được sinh ra ở thế hệ trước, khi nước Mỹ đang chiến đấu với kẻ thù như phát xít Đức, không bao giờ có thể hiểu được ý nghĩa của việc họ yêu đất nước mình đủ để phản đối cuộc chiến tranh với Việt Nam. Họ nghĩ rằng đến khi một người bước sang tuổi ba mươi, quan điểm của người đó đã đóng băng và không bao giờ hiểu được tại sao những đứa trẻ ngày nay lại đổ xuống đường, bỏ học và cư xử như một kẻ lập dị.
  “San Francisco là trung tâm của phong trào này. Những đội quân cách mạng đã được thành lập ở đây. Vì lý lẽ của mình, một vài nhóm đã cho nổ tung các tòa nhà và cướp ngân hàng. Rất nhiều đứa trẻ trong số này đã lớn lên và ít nhiều cũng sinh sống bình thường, trong khi những người khác phải vào tù. Một số người bỏ dở con đường đại học đã làm được những việc lớn lao, tuyệt vời - ví dụ như Steve Jobs và Steve Wozniak, những người đã sáng lập hãng máy tính Apple và phát minh ra chiếc PC.”
  Tôi thực sự bị cuốn hút bởi câu chuyện này. Tôi đã biết một chút về nó, nhưng chưa bao giờ nghe kể tường tận như thế này. Hoặc có lẽ nó chưa bao giờ quan trọng như lúc này. Đột nhiên, những cuộc biểu tình nghiêm trang, lãng nhách của người lớn trên đường không còn lãng nhách nữa. Những hoạt động như thế cũng có thể tìm được chỗ đứng trong phong trào Xnet.
  Tôi giơ tay lên. “Họ có thắng không ạ? Những người Yippie có thắng không ạ?”
  Cô nhìn tôi thật lâu, như thể cô đang suy nghĩ lại. Không ai nói một lời. Chúng tôi đều muốn nghe câu trả lời.
  “Họ không thua,” cô nói. “Họ bị dội ngược lại một chút. Vài người bị vào tù vì ma túy hay những thứ khác. Vài người đổi hướng, trở thành những yuppie(3) và tiếp tục đi khắp nơi diễn thuyết về việc họ đã ngu ngốc, tham lam và ngớ ngẩn như thế nào.”
  “Nhưng họ đã thay đổi thế giới. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc và sự tuân thủ, phục tùng không nghi ngờ mà mọi người gọi là chủ nghĩa ái quốc đã thay đổi theo một hướng rất khác. Quyền lợi của người da đen, quyền lợi của phụ nữ và quyền lợi của người đồng tính đã được ghi nhận. Quyền lợi của người Mỹ gốc Mỹ La tinh, quyền lợi của người tàn tật, toàn bộ truyền thống quyền tự do công dân được thiết lập hoặc củng cố bởi những con người này. Những phong trào chống đối ngày nay là hậu duệ trực tiếp của những cuộc đấu tranh đó.”
  “Em không thể tin cô đang nói về họ như thế,” Charles lên tiếng. Nó nghiêng người xa khỏi ghế đến mức gần như đứng dậy, gương mặt sắc sảo, gầy gò của nó đỏ bừng. Charles có đôi mắt to, ướt và cặp môi dầy, mỗi khi nó phấn khích trông nó hơi giống một con cá.
  Cô Galvez củng cố tinh thần một chút rồi nói, “Em nói tiếp đi, Charles.”
  “Cô vừa miêu tả những kẻ khủng bố. Những kẻ khủng bố thực sự. Bọn chúng cho nổ tung các tòa nhà, cô đã nói thế. Bọn chúng cố gắng phá hủy sàn giao dịch chứng khoán. Bọn chúng đánh cảnh sát, ngăn cảnh sát bắt giữ những kẻ phạm pháp. Bọn chúng tấn công chúng ta!”
  Cô Galvez gật đầu chậm rãi. Tôi có thể thấy cô đang cố gắng tìm cách để đối đáp với Charles, trông nó như thể chuẩn bị nổ tung đến nơi. “Charles đã nêu lên một điểm thú vị. Những người Yippie không phải người ngoại quốc, họ là những công dân Mỹ. Khi em nói ‘Bọn chúng tấn công chúng ta,’ em cần phải xem xét rằng ai là ‘bọn chúng’ và ai là ‘chúng ta’. Khi mà đó chính là đồng bào của em...”
  “Tào lao!” nó hét lên. Giờ nó đã đứng hẳn dậy. “Sau đó chúng ta đã ở trong một cuộc chiến. Những kẻ này đã viện trợ và tạo điều kiện cho kẻ thù. Rất dễ để nói ai là chúng ta và ai là bọn chúng: nếu bạn ủng hộ nước Mỹ, bạn là chúng ta. Nếu bạn ủng hộ những kẻ bắn vào người Mỹ, bạn là bọn chúng.”
  “Còn ai muốn nhận xét về việc này không?”
  Vài cánh tay giơ lên. Cô Galvez gọi bọn nó. Vài đứa chỉ ra rằng lý do Việt Nam chống lại người Mỹ là vì người Mỹ đã bay đến Việt Nam và chạy quanh trong rừng với những khẩu súng. Những đứa khác nghĩ Charles có ý đúng, đó là mọi người không nên được phép làm những việc trái pháp luật.
  Ai cũng đưa ra những luận điểm thú vị ngoại trừ Charles, nó chỉ hét vào mọi người, ngắt lời khi ai đó bày tỏ quan điểm. Mấy lần cô Galvez phải cố gắng bảo nó đợi đến lượt mình, nhưng nó không nghe.
  Tôi tìm kiếm vài thứ trong SchoolBook, điều gì đó mà tôi biết mình đã đọc qua. Cô Galvez nhìn tôi đầy hy vọng. Những người khác dõi theo ánh mắt của cô và im lặng. Thậm chí, sau một hồi thì cả Charles cũng nhìn tôi, đôi mắt to ướt của nó đang bừng lên ngọn lửa thù hằn dành cho tôi.
  “Em muốn đọc một cái này,” tôi nói. “Nó ngắn thôi. ‘Các chính phủ đều bắt nguồn từ nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, nên bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ.’ ”
  Chú thích:
  1. Black Power: là một khẩu hiệu chính trị và tên để gọi những tư tưởng liên quan khác. Nó là phong trào của người Mỹ gốc Phi.
  2. Hội viên của Đảng Thanh niên Quốc tế (Youth International Party), một nhóm phản văn hóa quyết liệt thành lập năm 1968, hay còn được biết đến với cái tên Yippie.
  3. Viết tắt của Young Urban Professional: những người trẻ tuổi thành thị chuyên nghiệp, là một khái niệm trong những năm 1980 và đầu năm 1990 để chỉ những người trẻ tuổi từ 20 đến 30 tuổi tầng lớp thượng lưu và trung lưu, ổn định về tài chính.