Ngô Chi Vinh lên đến Bắc Kinh, liền viết ngay một tờ trình, cáo giác với bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty ba nơi, nói rõ họ Trang đút lót các nơi thế nào để đổi bản in mới.
Ngờ đâu y ở kinh thành chờ đến hơn một tháng, cả ba nơi đều trước sau trả lời, nói là đã xem kỹ Minh Thư Tập Lược của Trang Đình Long, nội dung không có chỗ nào phạm cấm, những điều tri huyện bị cách chức là Ngô Chi Vinh cáo buộc, không phải chuyện thực, hiển nhiên chỉ vì thù ghét mà vu oan cho người ta, còn như quan lại ăn của đút gì gì đó, đều chỉ là những chuyện vu vơ đặt điều không nói thành có. Tờ phúc đáp của Thông Chính Ty còn gay gắt hơn nói rằng:
“Tên Ngô Chi Vinh vì tham ô mà bị cách chức, cứ tưởng quan lại trên đời này ai ai cũng như y cả.”
Thì ra Trang Duẫn Thành đã được Trình Duy Phiên chỉ bảo nên đã đem bộ Minh Sử mới gửi lên tặng bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty rồi, các quan lại sư gia người nào cũng đều đã được tặng hậu lễ.
Ngô Chi Vinh lại bị thêm một vố đau nữa, thấy dẫu có về quê cũng chẳng xong, chỉ còn có nước lưu lạc ăn nhờ ở đậu nơi đất lạ. Thời đó người Thanh đối với văn nhân người Hán cực kỳ khắc nghiệt, nếu viết gì có chút cấm kỵ là xử tử ngay, Ngô Chi Vinh nếu như tố cáo một kẻ tầm thường thì đã xong rồi, có điều đối thủ lại là một gia đình giàu có, thành ra mới khó khăn đến thế. Có điều đã đến nước cùng không còn đường lui, thôi thì dẫu có ngồi tù thì cũng phải theo đuổi cho đến đầu đến đũa, thành thử viết thêm bốn tờ bẩm thiếp nữa, trình lên bốn vị cố mệnh đại thần, rồi lại ngồi trong khách điếm viết thêm mấy trăm tờ truyền đơn, kể rõ khúc nhôi đem dán khắp thành Bắc Kinh.
Việc đó của y quả là làm liều, nếu như quan phủ truy ra gán cho cái tội ăn càn nói rỡ, ưu loạn nhân tâm thì không tránh khỏi cái tội sát thân.
Bốn viên cố mệnh đại thần đó tên là Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long, Ngao Bái[1] đều là khai quốc công thần của nhà Mãn Thanh. Khi vua Thuận Trị từ trần đã để di chiếu ủy thác cho bốn người này phụ chính. Trong bốn người đó thì Ngao Bái là kẻ bạo ngược nhất, trong triều phe đảng của y cực đông, đại quyền nhà Thanh dường như một tay y nắm hết. Y sợ rằng đảng đối nghịch gây chuyện bất lợi cho mình cho nên sai ra rất nhiều thám tử, trong ngoài kinh thành dò xét động tĩnh.
Hôm đó y được mật báo, nói là trong thành Bắc Kinh xuất hiện vô số truyền đơn, tố giác tên dân họ Trang ở Chiết Giang viết sách mưu phản, đại nghịch bất đạo nhưng quan lại Chiết Giang ăn của đút nên ém nhẹm đi không lý đến.
Ngao Bái nhận được tin đó lập tức tra xét, cũng vừa lúc tờ cáo trạng của Ngô Chi Vinh vào đến phủ, phong ba bão tố nổi lên. Y cho đòi Ngô Chi Vinh vào gặp, hỏi han ngọn ngành đầu đuôi rồi cho bọn thủ hạ người Hán xem kỹ nguyên bản Minh Sử, những lời nói ra quả nhiên là thật.
Ngao Bái vốn do công lao trận mạc mà được phong đến tước Công, làm quan to, trước nay vẫn ghét bỏ người Hán và bọn nho sĩ, bây giờ chấp chưởng đại quyền đang rình rập để lập vài vụ đại án, trấn nhiếp nhân tâm, để người Hán không dám có bụng phản loạn, lại khiến những kẻ đối nghịch trong triều chẳng dám ho he. Y lập tức phái khâm sai xuống Chiết Giang tra cứu.
Chuyện như thế, lẽ dĩ nhiên toàn gia họ Trang bị giải về kinh, mà cả tướng quân Hàng Châu là Tùng Khôi, tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tộ cùng quan viên lớn bé, đều bị cách chức để điều tra. Những danh sĩ được liệt kê trên cuốn Minh Sử, không ai là thoát khỏi cảnh tù đày.
Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi hai người ở trong nhà Lã Lưu Lương kể lại từ đầu chí cuối nguyên do vụ án rồi, Lã Lưu Lương chỉ còn nước thở dài sườn sượt. Đêm hôm đó ba người kê giường cạnh nhau bàn tán, nghị luận chuyện đời, nhắc đến thời Minh mạt bọn thái giám Ngụy Trung Hiền hãm hại trung lương, lũng đoạn triều chính, làm chuyện trái tai gai mắt, đến nỗi Minh thất bị sụp đổ. Trung Quốc rơi vào tay người Mãn Thanh rồi, người Hán càng bị chém giết thảm khốc hơn, tai họa càng sâu không ai không khỏi chau mày nghiến răng.
Sáng sớm hôm sau, toàn gia Lã Lưu Lương và Cố Hoàng hai người xuống thuyền đi về hướng đông. Ở Giang Nam những nhà khá giả đều có sẵn thuyền, đường thủy giăng mắc tứ phía, dày đặc như mạng nhện nên ai ai cũng đi bằng thuyền, thành thử mới có câu “người Bắc đi ngựa, người Nam đi thuyền”, từ xưa đã thế.
Đến Hàng Châu, theo Vận Hà đi thuyền ngược lên mặt bắc. Tối hôm đó ở ngoài thành Hàng Châu nghe ngóng tin tức, Thanh triều nhân vụ án này chém giết rất nhiều quan viên bách tính; Trang Đình Long chết rồi cũng bị quật mồ lên, còn Trang Duẫn Thành ở trong ngục chịu khảo đả không nổi cũng đã từ trần, nhà họ Trang mấy chục người, từ mười lăm tuổi trở lên đều bị xử trảm, vợ con thì bị đày đi Phiên Dương, làm nô tì cho các kỳ binh Mãn Châu. Tiền Lễ Bộ thị lang Lý Lệnh Triết là người đề tựa thì bị lăng trì xử tử, bốn người con bị xử trảm. Đứa con út của Lý Lệnh Triết mới mười sáu tuổi, pháp ty thấy giết nhiều người quá trong dạ cũng xót xa nên bảo y khai thụt đi một tuổi, chiếu theo luật nhà Thanh, từ mười lăm tuổi trở xuống được miễn tội chết mà chỉ phải sung quân. Thiếu niên đó nói:
- Cha tôi anh tôi đều chết cả rồi, tôi cũng chẳng muốn sống một mình.
Y nhất định không đổi lời khai nên cũng bị chém đầu. Tùng Khôi, Chu Xương Tộ bị giam trong ngục chờ thẩm vấn, còn mạc khách Trình Duy Phiên thì bị lăng trì bỏ ngoài chợ. Hai học quan ở Qui An, Ô Trình đều bị chém. Vụ án cứ thế mà lan ra, những người vô tội bị giết không biết bao  nhiêu mà kể. Tri phủ Ho đây.
Cảnh xưa nhìn lại hôm nay,
Hỏi ai ngậm đắng nuốt cay sao đành.
Tranh kia nước mắt vẽ thành,
Lệ ta pha mực đan thanh đôi hàng.
Xem tranh chua xót bẽ bàng,
Ngậm trong bốn chữ há màng thêm văn.
Ước gì Hồng Võ tái sanh,
Mù kia sáng mắt, què lành đôi chân.
Ngọc lại sáng, mây mù tan,
Muôn dân vui sướng ca vang đất trời.”
(Kỳ vi Tống chi nam độ da?
Như thử giang sơn chân khả sỉ.
Kỳ vi Nhai sơn dĩ hậu da?
Như thử giang sơn bất nhẫn thị.[10]
Ngô kim thủy ngộ tác họa ý,
Thống khốc lưu thế hữu nhược thị.
Dĩ kim thị tích tích do kim,
Thôn thanh bất dụng mai hàm chủy.
Họa tương Cao Vũ tây đài lệ.
Nghiên nhập đan thanh đề bút thử.
Sở dĩ hữu họa vô thi văn,
Thi văn tận tại tứ tự lý.
Thường vị sinh phùng Hồng Võ sơ,
Như cổ hốt đồng phả khả lý.
Sơn xuyên khai tế cố bích hoàn,
Hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ?)
Viết xong, Lã Lưu Lương vứt bút xuống đất bùi ngùi rơi lệ. Cố Viêm Võ nói:
- Quả là thống khoái lâm li, tuyệt diệu hảo từ.
Lã Lưu Lương đáp:
- Bài thơ này chẳng có gì hàm súc, không thể coi là hay được, chỉ vẽ lại cái nguyên ý của Nhị Chiêm tiên sinh, để người xem tranh có thể hiểu được đấy thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đến bao giờ nước non tươi sáng trở lại, khi đó “sơn xuyên khai tế cố bích hoàn”, thì dẫu có núi nghèo nước dở thế nào chăng nữa thì mình coi cũng không chán mắt, lúc ấy đúng thật là “hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ”.
Cố Viêm Võ đáp:
- Bài thơ này kết thực hay! Thể nào rồi cũng có ngày mình đuổi được quân Hồ Lỗ, lấy lại sơn hà cho Đại Hán chúng ta thì niềm vui đó hùng tráng gấp bao nhiêu lần cái bi phẫn hôm nay.
Hoàng Tông Hi chậm rãi cuốn bức tranh lại nói:
- Bức tranh này không còn treo được nữa rồi, Vãn Thôn huynh nên cất kỹ đi là hơn. Nếu để những kẻ gian ác như Ngô Chi Vinh trông thấy, rồi quan phải đến tra xét, lẽ dĩ nhiên Vãn Thôn huynh bị làm phiền mà còn liên lụy đến cả Nhị Chiêm tiên sinh.
Cố Viêm Võ vỗ bàn chửi:
- Cái tên cẩu tặc Ngô Chi Vinh, ta thực hận không được ăn sống nuốt tươi nó.
Lã Lưu Lương nói:
- Hại vị hạ cố đến chơi bảo là có việc quan trọng. Bọn thư sinh như mình xưa nay chỉ quen làm thơ đề họa, còn chuyện chính lại chẳng lo, không hiểu có chuyện chi thế?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Hai chúng ta đến hôm nay cũng vì người nhà của Nhị Chiêm tiên sinh là Y Hoàng tiên sinh. Tiểu đệ và Cố huynh hôm trước được tin, hóa ra vụ án Minh Sử có liên can đến cả Y Hoàng tiên sinh nữa.
Lã Lưu Lương kinh hãi hỏi lại:
- Y Hoàng huynh cũng có liên quan ư?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Quả thế. Chiều hôm qua hai chúng ta lật đật đi qua Viên Hoa trấn ở Hải Ninh, Y Hoàng tiên sinh không có nhà, nói là đi thăm bạn rồi. Viêm Võ huynh thấy sự tình cấp bách, dặn người nhà Y Hoàng tiên sinh trốn ngay đi, lại nghĩ Y Hoàng tiên sinh với Vãn Thôn huynh có giao tình rất hậu nên vội đến báo tin.
Lã Lưu Lương lắp bắp:
- Y...  y không đến đây, chẳng biết đi đâu.
Cố Viêm Võ nói:
- Nếu ông ta có mặt trong quí phủ thì hẳn đã ra gặp nhau rồi. Tại hạ cũng có đề một bài thơ trên tường thư phòng của y, nếu đã về nhà thì cũng minh bạch mà tìm đường trốn tránh, chỉ sợ không biết tin nên lộ diện ra bên ngoài, để quan quân bắt được, ấy mới là khốn khổ.
Hoàng Tông Hi nói:
- Vụ án Minh Sử này khiến cho tất cả danh sĩ ở Chiết Giang đều rơi vào độc thủ. Dụng ý của Thanh đình cực kỳ ác độc, tên tuổi của Vãn Thôn huynh lại quá lớn, cứ như ý của Đình Lâm huynh và của tiểu đệ, muốn khuyên Vãn Thôn huynh tạm thời xa nhà đi chơi đâu để tránh khỏi cơn phong ba này.
Lã Lưu Lương hậm hực nói:
- Hoàng đế Thát tử nếu như muốn bắt tại hạ giải về Bắc Kinh, lăng trì xử tử thì cũng phải chửi cho y một trận cho hả dạ, rồi có chết cũng cam lòng.
Cố Viêm Võ nói:
- Hào khí của Vãn Thôn huynh quả là ngất trời khiến cho ai cũng bội phục. Chỉ sợ rằng chưa gặp được hoàng đế Thát tử mà lại chết dưới tay một đứa nô tài hạ tiện. Hơn nữa, hoàng đế Mãn Thanh chỉ là một đứa bé con, chẳng hiểu biết gì, triều chính đại quyền đều ở trong tay đại thần Ngao Bái. Huynh đệ và Lê Châu huynh cũng đã nghĩ, lần này sở dĩ vụ án Minh Sử bọn chúng đánh trống khua chiêng, sấm ran chớp giật, hẳn là Ngao Bái muốn đập cho tan nhuệ khí của sĩ phu Giang Nam chúng ta đấy thôi.
Lã Lưu Lương đáp:
- Sở kiến của hai vị quả là chính đáng. Từ khi Thanh binh nhập quan đến nay, nơi Giang Bắc hoành hành không ai ngăn trở, thế nhưng đến Giang Nam thì nơi nơi đều phản kháng, những kẻ đọc sách chẳng ai là không biết cái khác biệt của Hoa Di nên đều cố tình gây hấn. Ngao Bái nhân cơ hội này nên cố tình trấn áp sĩ phu Giang Nam một chuyến cho bõ ghét.
Ôi!
Lửa đồng tuy dập nhưng nào tắt,
Gió xuân dứt đợt lại trồi lên.[11]
Trừ phi y giết sạch những kẻ đọc sách đất Giang Nam không còn một mống lúc đó mới thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đúng thế! Chính vì vậy mà chúng mình cần giữ lại tấm thân hữu dụng để một mai sống mái với quân Thát tử cho đến nơi đến chốn, chứ nếu chỉ vì cái huyết khí chi dũng nhất thời thì lại rơi vào cái bẫy của bọn chúng.
Lã Lưu Lương lúc ấy mới hiểu ra, Hoàng Cố hai người đội mưa chịu lạnh đến đây, một là đi tìm Tra Y Hoàng, hai là bảo mình lánh đi, e ngại mình nhịn không nổi, bỏ mạng một cách uổng phí, cái lòng của người bạn tốt quả thật cảm kích không biết chừng nào, bèn đáp:
- Những lời khuyên chí tình vàng đá của hai vị, huynh đệ nào dám không tuân theo? Ngay sáng sớm mai, toàn gia huynh đệ sẽ tránh đi một bước.
Hoàng Cố hai người mừng rỡ, cùng nói:
- Thôi thì cứ thế.
Lã Lưu Lương trầm ngâm nói:
- Thế nhưng không biết muốn trốn tránh thì đi đâu mới xong?
Ông chỉ thấy trời đất bao la nhưng chỗ nào cũng là đất của Thát tử, không một chỗ nào có thể bình an. Ông ngâm lên:
“Tìm đâu ra chốn Đào Nguyên?
Để ta tránh được bạo quyền một phen.[12]”
Cố Viêm Võ đáp:
- Trên cõi đời bây giờ lấy đâu ra được chỗ Đào Nguyên? Chúng ta chẳng nên tính chuyện “độc thiện kỳ thân”, trốn lánh lo cho một mình mình...
Lã Lưu Lương không để cho y dứt lời, vỗ bàn đứng dậy lớn tiếng nói:
- Đình Lâm huynh trách cứ như thế phải lắm, quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, tạm thời trốn lánh thì nên thế nhưng nếu lại kiếm một chỗ cây reo suối chảy, tiêu dao tự tại, mặc cho bách tính sinh linh chịu khổ dưới móng ngựa của bọn Thát Đát thì lòng mình sao yên? Huynh đệ quả là lỡ lời.
Cố Viêm Võ mỉm cười đáp:
- Huynh đệ những năm gần đây lang bạt kỳ hồ, kết giao được không ít bằng hữu. Từ nam chí bắc sông Trường Giang mắt thấy tai nghe đã nhiều, không phải chỉ kẻ đọc sách phản đối Thát tử, mà cả dân ngu khu đen, phu phen chợ búa, đâu đâu cũng có kẻ máu nóng dâng tràn, khẳng khái hào hiệp. Vãn Thôn huynh cũng là có ý, ba chúng ta cùng đi Dương Châu để huynh đệ dẫn kiến tôn huynh với vài anh em đồng đạo, liệu có nên chăng?
Lã Lưu Lương mừng rỡ nói:
- Thế thì còn gì bằng! Anh em mình ngày mai đi Dương Châu, hai vị ngồi chơi, huynh đệ vào từ biệt chuyết kinh để bảo tiện nội thu xếp hành lý.
Nói rồi hấp tấp đi vào nội đường. Chẳng bao lâu Lã Lưu Lương trở lại thư phòng hỏi:
- Vụ án Minh Sử tuy bên ngoài người ta bàn tán xôn xao nhưng những tin đồn miệng vị tất đã xác thực, thứ nữa người nói lại cực kỳ dè dặt, không dám nói hết, huynh đệ thui thủi một mình ở đây nên chỗ biết chưa tường tận, không biết nguyên do là thế nào?
Cố Viêm Võ thở dài một tiếng nói:
- Bộ Minh Sử đó, anh em ta cũng đã coi qua rồi, bên trong đối với bọn Thát tử không có gì cung kính, quả là có thật. Sách này vốn dĩ do tướng quốc Đại Minh chúng ta là Chu Quốc Trinh soạn ra, viết về việc ở quan ngoại thì làm gì có chuyện nể nang cho được?
Lã Lưu Lương gật đầu:
- Nghe nói nhà họ Trang ở Hồ Châu tốn mất đến mấy ngàn lạng bạc mới mua được nguyên cảo của con cháu nhà Chu tướng quốc, lấy tên mình in ra, có ngờ đâu gây ra đại họa thế này.
°
Ở phía tây Chiết Giang là ba phủ Hàng Châu, Gia Châu, Hồ Châu nằm bên bờ Thái Hồ, địa thế bằng phẳng, đất đai màu mỡ, sản xuất nhiều thóc gạo tơ tằm. Huyện đứng đầu ở Hồ Châu là Ngô Hưng, đời Thanh chia làm hai huyện Ô Trình, Qui An. Nơi đó vốn là chốn văn chương chữ nghĩa, xưa nay lắm danh sĩ xuất thân, đời nhà Lương có Thẩm Ước chia tiếng Trung Quốc ra làm bốn thanh bình thượng khứ nhập, đời Nguyên thì có Triệu Mạnh Phủ cả thư lẫn họa đều đứng đầu, hai người đều từ Hồ Châu mà ra. Đương địa lại sản xuất bút nổi tiếng, bút Hồ Châu, mực Huy Châu, giấy Tuyên Thành, nghiên Đoan Khê Triệu Khánh là những món thiên hạ trì danh trong văn phòng tứ bảo.[13]
Phủ Hồ Châu có trấn Nam Tầm, tuy tiếng chỉ là một trấn nhưng so với những châu huyện tầm thường còn lớn hơn nhiều. Trong trấn phú hộ rất đông, trong đó có một gia tộc nổi tiếng họ Trang. Khi đó nhà phú hộ họ Trang tên là Trang Duẫn Thành, sinh được mấy người con, trưởng tử tên là Đình Long, thích đọc thi thư từ nhỏ, kết giao rất đông đảo danh sĩ Giang Nam. Đến đời Thuận Trị, Trang Đình Long vì đọc sách quá nhiều nên đột nhiên bị lòa, đã tìm đủ loại danh y nhưng không sao chữa khỏi, trong lòng uất ức không vui.
Một hôm kia, có một thanh niên họ Chu ở gần bên đem tới một bộ thủ cảo[14], nói là di cảo của tổ phụ Chu tướng quốc muốn dùng làm vật thế chân để mượn vài trăm lượng bạc. Họ Trang xưa nay vốn khẳng khái, vẫn thường giúp đỡ con cháu Chu tướng quốc, nay đến mượn tiền cũng không cần y phải lấy vật gì cầm cố. Thế nhưng thanh niên họ Chu kia nói rằng sau khi mượn tiền rồi sẽ đi xa, nếu bộ di cảo này đem theo trong người e rằng thất lạc, còn để ở nhà thì lại không yên tâm nên muốn giữ tại nhà họ Trang. Trang Duẫn Thành nghe thế mới bằng lòng. Sau khi gã họ Chu đi khỏi, Trang Duẫn Thành muốn con đỡ buồn mới sai những người có chút chữ nghĩa trong nhà đọc sách đó cho con nghe.
Bộ Minh Sử Cảo của Chu Quốc Trinh phần lớn đã in ra thành sách lưu truyền nhân thế. Thế nhưng lần này người cháu ông ta đem đến nhà họ Trang để cầm là nhiều thiên liệt truyện viết sau cùng. Trang Đình Long nghe đọc mấy hôm cảm thấy hứng thú đột nhiên nghĩ ra: “Xưa kia Tả Khâu Minh cũng lòa đôi mắt, vậy mà chỉ viết một bộ Tả Truyện nên tiếng để muôn đời. Ta hiện nay mắt cũng mù, nhàn cư không có việc gì làm, sao không viết một bộ sử để lưu truyền hậu thế?”.
Con nhà đại phú làm chuyện gì cũng dễ dàng. Y có hứng làm chuyện đó lập tức mời ngay mấy người học thức đến đem bộ Minh Sử Cảo đó từ đầu đến cuối đọc cho y nghe một lượt, thấy chỗ nào cần thêm vào, chỗ nào cần bỏ bớt liền nói ra để cho tân khách chép lại.
Thế nhưng nghĩ bụng mắt mình đã lòa rồi không còn thể nào đọc hết các sách vở được nữa, bộ Minh Sử này soạn ra nếu còn nhiều chỗ sai lầm thì đã chẳng được tiếng tăm gì mà lại làm trò cười cho thiên hạ thành thử y không ngại bỏ tiền bạc mời những danh sĩ hồng nho, hết sức sửa sang để sao tận thiện tận mỹ mới vừa lòng. Nếu có những bậc đại học vấn tiền tài không thể mua chuộc được, Trang Đình Long lại khẩn khoản nhờ người khác, dùng lời lẽ nhún nhường mời mọc. Đất Thái Hồ vốn dĩ nhiều danh sĩ, được Trang gia mời đến, phần vì thương y mù lòa cảm kích tấm lòng thành, hai nữa việc giúp một tay tu bổ Minh Sử cũng là một việc tốt nên hầu hết đều đến nhà họ Trang làm khách dăm bữa nửa tháng, hoặc giú việc sửa lại những sai lầm, hoặc thêm bớt cho thêm văn vẻ, hoặc chép giùm một vài chương. Thành thử bộ Minh Sử đó quả là tập trung được nhiều đại thủ bút. Cuốn sách làm xong chưa bao lâu thì Trang Đình Long tạ thế.
Trang Duẫn Thành thương xót đứa con bạc mệnh nên lập tức lo việc in ra. Đời Thanh muốn in một quyển sách quả không phải dễ mà phải gọi thợ khắc thành mộc bản, lúc ấy mới in thành sách được. Bộ Minh Sử đó rất dày, tiền công khắc bản gỗ và in ấn rất tốn kém. Thế nhưng nhà họ Trang lắm bạc nhiều tiền, lập tức dọn ngay mấy căn phòng lớn làm xưởng việc, gọi thêm thợ chỉ mấy năm sau sách đã in xong. Cuốn sách đó có nhan đề là Minh Thư Tập Lược, người soạn là Trang Đình Long, lại mời danh sĩ Lý Lệnh Triết đề tựa. Tất cả những người đã từng giúp đỡ hoàn thành cuốn sách đều được in ở đầu, nào là Mao Nguyên Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung, Lý Nhưng Đào, Mao Thứ Lai, Ngô Sở, Đường Nguyên Lâu, Nghiêm Vân Khởi, Tưởng Lân Trưng, Vi Kim Hựu, Vi Nhất Viên, Trương Tuấn, Đổng Nhị Dậu, Ngô Viêm, Phan Sanh Chương, Lục Kỳ, Tra Kế Tá, Phạm Tương...  tổng cộng cả thảy mười tám danh sĩ.
Trong sách cũng ghi là bộ này căn cứ thêm bớt vào bản nháp của Chu thị mà thành, có điều Chu Quốc Trinh là tướng quốc nhà Minh, danh tiếng quá lớn nên không tiện để thẳng tên nên chỉ nói lập lờ là “Chu thị nguyên cảo”.
Minh Thư Tập Lược qua biết bao nhiêu tay danh sĩ học giả sử đổi chọn lựa nên quả cực kỳ đầy đủ, nói đâu ra đấy, văn chương lại chau chuốt thanh nhã, in ra rồi rất được người trong sĩ lâm tán thưởng. Trang gia lại cốt để được tiếng tăm nên giá bán thật hạ. Trong nguyên cảo mỗi khi nhắc đến người Mãn Châu, vốn dĩ không thiếu gì những đoạn chê bai, nhưng người tu đính đều đem bỏ đi hết nhưng những đoạn tán dương triều Minh không thể không có. Lúc đó nhà Minh mất chưa lâu, người đọc sách dạ hoài cố quốc nên sách in ra ai nấy đều mát lòng mát dạ, tên tuổi của Trang Đình Long nổi như cồn khắp Giang Nam, Giang Bắc. Trang Duẫn Thành tuy đau lòng nhưng thấy con người tuy mất nhưng danh vẫn còn, cũng thấy an ủi cho tuổi già.
Thế nhưng vào thời loạn, tiểu nhân đắc chí khiến người quân tử gặp tai ương. Tri huyện Qui An ở Hồ Châu tên là Ngô Chi Vinh, làm quan tham lam chẳng kể gì đến phép nước, trăm họ hận y tận xương tủy, khiến cho có người tố cáo nên bị triều đình cách chức. Ngô Chi Vinh làm tri huyện Qui An tuy bòn rút được đến trên vạn lạng bạc nhưng khi lệnh cách chức xuống rồi, y chạy đôn chạy đáo khắp nơi để khỏi bị tù tội nên bao nhiêu tiền bạc tích cóp được đều hết nhẵn, đến cả gia nhân cũng bỏ đi đâu không biết. Y quan chức lẫn tiền bạc đều chẳng còn, chỉ còn cách đến các nhà có máu mặt tả oán, than rằng làm quan thanh bạch, nay bị về vườn, chẳng còn đồng xu dính túi để ăn đường nên không thể nào qui cố hương được.
Những phú hộ đó chẳng muốn rầy rà, nên ai cũng cho y ít nhiều, kẻ mười lạng người tám lượng. Khi y đến nhà họ Chu, chủ nhân Chu Hựu Minh vốn là người chính nhân quân tử, ghét kẻ ác như kẻ thù, đã chẳng cho đồng nào thì chớ lại mắng cho một trận, bảo là các hạ làm quan, bách tính trăm điều khổ sở, họ Chu này dù có tiền thì cũng đem đi giúp cho những người bị các hạ hút máu hút mủ còn hơn. Ngô Chi Vinh tuy giận lắm nhưng cũng chẳng làm gì được, y bị cách chức rồi, quyền không mà thế cũng không, đâu có dám cà khịa với một phú gia bát ăn bát để? Sau đó y bèn nuốt hận đi sang bái phỏng Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành bình thời chỉ kết giao với thanh lưu danh sĩ, vẫn chẳng coi bọn quan lại vào đâu, thấy y đến mè nheo, cười nhạt một tiếng, thí cho y một lượng bạc nói:
- Cái thứ người như các hạ, đúng ra một lượng cũng chẳng đáng cho, có điều nhân dân Hồ Châu chỉ mong các hạ đi sớm ngày nào khuất mắt ngày ấy, cho một lượng để cút sớm một khắc, cũng là điều hay.
Ngô Chi Vinh trong bụng tức lắm, liếc qua thấy trên bàn có để một bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Tên họ Trang này tính thích phỉnh phờ, người ta chỉ cần khen bộ Minh Thư Tập Lược này vài câu là lập tức đem tiền dâng ngay, không hề ngần ngại”. Y bèn cười cầu tài nói:
- Trang công hậu tứ, không nhận thì không cung kính. Huynh đệ hôm nay từ biệt Hồ Châu, điều đáng tiếc nhất là không mang được một bộ Hồ Châu chi bảo về quê để cho những kẻ cô lậu quả văn nơi tệ hương được mở mắt.
Trang Duẫn Thành hỏi lại:
- Cái gì mà gọi là Hồ Châu chi bảo?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Trang công quả là khiêm tốn quá! Trong chốn sĩ lâm, ai ai cũng đều tấm tắc, lệnh lang Đình Long công tử thân bút soạn ra bộ Minh Thư Tập Lược, sử tài, sử thức, sử bút cả ba điều tự cổ đến nay hiếm ai hơn được, Tả Mã Ban Trang, đó là cổ kim lương sử tứ đại gia. Hồ Châu chi bảo chính là bộ Minh Sử do lệnh lang thân bút soạn ra chứ còn gì nữa.
Ngô Chi Vinh nhắc đi nhắc lại “do chính lệnh lạng soạn ra”khiến Trang Duẫn Thành nghe mà như nở hoa trong bụng. Ông biết rõ bộ sử này nào có phải do chính con mình “thân bút”đâu, trong lòng không khỏi áy náy nhưng Ngô Chi Vinh nói thế quả là gãi đúng chỗ ngứa, nghĩ thầm: “Ai ai cũng bảo gã này tham lam, là một tên tiểu nhân hèn hạ, hóa ra y cũng là người đọc sách có chút kiến thức. Thì ra bên ngoài người ta bảo tập sách của Long nhi là Hồ Châu chi bảo, bây giờ ta mới nghe lần đầu”.
Trang công mặt mày tươi rói nói:
- Vinh công nói gì mà Tả Mã Ban Trang, cổ kim tứ đại lương sử, huynh đệ có điều chưa rõ, mong được chỉ giáo.
Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành dịu hẳn lại, biết rằng cá đã cắn câu, trong bụng mừng thầm, liền đáp:
- Trang công chẳng nên quá khiêm tốn. Tả Khâu Minh soạn Tả Truyện, Tư Mã Thiên soạn Sử Ký, Ban Cố soạn Hán Thư đều là những danh tác truyền từ nghìn xưa, thế nhưng sau Ban Cố, đại sử gia chẳng còn ai nữa. Âu Dương Tu soạn Ngũ Đại Sử, Tư Mã Quang soạn Tư Trị Thông Giám, văn chương tuy xuất sắc nhưng tài ba, kiến thức có phần chưa đủ.
Mãi đến thời thịnh thế nhà Đại Thanh ta, lệnh lang thân bút soạn ra một bộ Minh Thư Tập Lược bừng bừng như thế mới có được người cùng Tả Khâu Minh, Tư Mã Thiên, Ban Cố ba vị tiền bối tịnh giá tề khu, thành thử người đời mới có câu “Tứ Đại Lương Sử, Tả Mã Ban Trang”.
Trang Duẫn Thành cười híp cả mắt, hai tay xoắn tít lại luôn mồm:
- Nói quá thôi! Nói quá thôi! Cái câu Hồ Châu chi bảo quả là không dám nhận.
Ngô Chi Vinh nghiêm mặt nói:
- Cái gì mà không dám nhận? Bên ngoài ai ai cũng nói: “Trong Hồ Châu tam bảo sử, lụa và bút thì Trang sử đứng đầu.”
Tơ tằm và bút lông của Hồ Châu là hai đặc sản nổi danh, Ngô Chi Vinh tuy phẩm hạnh bết bát nhưng được cái nhanh mồm nhanh miệng, xuất khẩu thành chương, ghép ngay Trang sử chung với Hồ ti, Hồ bút; Trang Duẫn Thành nghe thế hết sức vừa lòng.
Ngô Chi Vinh lại tiếp:
- Huynh đệ đến quí xứ làm quan, hai bàn tay trắng chẳng tơ hào gì. Hôm nay đành muối mặt đến xin Trang công một bộ Minh Sử để đem về làm bảo vật truyền gia, sau này con cháu nhà họ Ngô ngày đêm dùi mài, may ra tài nghệ kiến thức tiến triển, làm rạng rỡ cho tổ tiên, âu cũng là nhờ hậu tứ của Trang công.
Trang Duẫn Thành cười đáp:
- Thế thì xin phụng tặng.
Ngô Chi Vinh lại đẩy đưa thêm vài câu nữa, không thấy Trang Duẫn Thành tỏ ý gì khác, lại đem bộ Minh Sử ra ca ngợi một hồi. Thực ra bộ sách đó y chưa đọc đến một trang, nên chỉ nói lòng vòng nào là sử tài cao siêu hiếm có, sử thức phong phú, trác tuyệt. Trang Duẫn Thành nói:
- Vinh công xin ngồi nán lại một chút.
Nói xong đi vào hậu đường. Qua một lúc sau, một gia đinh bưng một cái bọc ra, để lên bàn. Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành chưa xuất hiện, vội vàng cầm cái bao lên nhắc nhắc thử, bao đó tuy to nhưng nhẹ hều, hiển nhiên bên trong chẳng có tiền bạc gì, trong lòng hết sức thất vọng. Một hồi sau, Trang Duẫn Thành trở lại đại sảnh, bưng cái bọc lên, cười nói:
- Vinh công coi trọng thổ sản của chúng tôi quá vậy xin kính tặng.
Ngô Chi Vinh tạ ơn, cáo từ đi ra, chưa đến khách điếm đã cho tay vào mò thử, quả nhiên là một bộ sách, một cuộn tơ tằm và vài mươi cây bút. Y mất bao nhiêu công lao miệng lưỡi, vẫn tưởng Trang Duẫn Thành ngoài bộ Minh Sử ra, thể nào cũng tặng thêm cho vài trăm lượng bạc, ngờ đâu món quà chỉ đúng có “Hồ Châu tam bảo”mà y thuận miệng bịa ra, bèn chửi thầm: “Con mẹ nó, cái bọn tài chủ ở Nam Tầm này đều tính khí nhỏ nhen. Âu cũng là tại mình nói sai, chứ nếu như nói Hồ Châu tam bảo là vàng bạc và Minh Sử thì có phải đã khá rồi không?’.
Y hậm hực quay về khách điếm, cầm chiếc bao vứt toẹt lên bàn, rồi lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy thì trời đã tối, giờ ăn của quán cũng qua rồi, y cũng không buồn gọi mang cơm lên, vừa buồn bực vừa đói lòng càng thêm day dứt nên không sao ngủ được, khi ấy mới cởi chiếc bao, lật bộ Minh Thư Tập Lược ra xem. Vừa xem được vài trang bỗng thấy ánh vàng lấp lánh, hóa ra có một lá vàng. Tim Ngô Chi Vinh đập thình thình, vội vàng đưa lên xem kỹ, chẳng phải vàng y thì là gì? Y vội vàng cầm lên giũ giũ, trong sách rơi ra đủ mười lá vàng, mỗi lá ít nhất cũng phải năm tiền, mười trương vàng lá ấy là năm lượng hoàng kim. Thời đó vàng quí, năm lượng vàng tính ra bằng bốn trăm lượng bạc.
Ngô Chi Vinh mừng không đâu kể xiết, nghĩ thầm: “Lão họ Trang quả là giảo quyệt, y sợ mình xin bộ sách này rồi về quăng đi, không thèm mở ra, thành ra mới cài vàng lá vào trong sách, để nếu ai chịu đọc sách của con y thì người ấy có phúc nhặt được tiền. Đúng rồi, ta phải đọc vài trang học thuộc vài đoạn, sáng mai đến nhà y tạ y tặng vàng, tiện thể sẽ ca tụng văn chương thêm một chập nữa. Y sung sướng không chừng lại cho thêm vài lạng vàng nữa”.
Y bèn khêu đèn cho sáng, mở sách ra đọc, đọc đến đời Vạn Lịch năm thứ bốn mươi bốn, Thái Tổ nhà Hậu Kim Nỗ Nhi Cáp Xích tức vị, quốc hiệu là Kim, niên hiệu Thiên Mệnh, đột nhiên hơi giật mình: “Năm Bính Thìn Vua Thái Tổ lên ngôi, từ năm đó trở đi, không còn dùng niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh nữa, phải dùng Thiên Mệnh nguyên niên mới phải”.
Y tiếp tục đọc xuống dưới thấy năm Đinh Mão Kim Thái Tông tức vị rồi, trong sách vẫn để năm thứ bảy Thiên Khải đời Minh chứ không đề Đại Kim Thiên Thống nguyên niên. Từ năm Bính Tí trở đi nhà Hậu Kim đổi quốc hiệu là Thanh, cải niên Sùng Đức, vậy mà trong sách vẫn đề Sùng Trinh năm thứ chín chứ không chép là Đại Thanh Sùng Đức nguyên niên, năm Giáp Thân trong sách viết năm Sùng Trinh thứ mười bảy chứ không viết Đại Thanh Thuận Trị nguyên niên. Đến sau khi Thanh binh nhập quan rồi, năm Ất Dậu sách vẫn chép Long Võ nguyên niên, năm Đinh Hợi thì chép Vĩnh Lịch nguyên niên mà hai niên hiệu Long Võ, Vĩnh Lịch chẳng qua chỉ là của Đường Vương, Quế Vương, người viết sách rõ ràng tôn lên như những vị vua chính thống của Minh triều, chẳng coi Thanh triều vào đâu. Y đọc đến chỗ này, nhịn không nổi vỗ bàn kêu lên:
- Phản tặc! Phản tặc! Rõ rành rành ra đây rồi!
Y vỗ mạnh quá chiếc bàn rung rinh khiến ngọn đèn lật nghiêng, dầu sóng ra dính đầy bàn tay y. Trong đêm tối y chợt nghĩ ra, hết sức mừng rỡ như điên cuồng: “Cái này chẳng phải là ông trời cho mình một món hoạnh tài hay sao? Thăng quan phát tài cũng ở đây mà ra cả”.
Y nghĩ thế trong lòng sướng quá bất giác kêu ầm lên. Bỗng nghe điếm tiểu nhị gõ cửa hỏi vọng vào:
- Khách quan! Khách quan! Có chuyện gì thế?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Không có gì cả.
Y đốt đèn dầu lên, đọc lại một lần nữa. Tối hôm đó y đọc suốt tới khi gà gáy mới để nguyên quần áo lên giường nằm nhưng vì mới tìm thêm ra đến bảy tám chục chỗ văn tự cấm kỵ thành thử trong giấc mơ cũng vẫn thỉnh thoảng cười sằng sặc.
Mỗi khi thay đổi một triều đại, niên hiệu của tân triều cực kỳ quan trọng rất dễ phạm cấm vì ngôn ngữ văn tự dễ khiến cho người ta nhớ lại cựu trào. Minh Thư Tập Lược chép chuyện đời Minh, dùng niên hiệu nhà Minh đúng ra không có gì sai quấy nhưng trong khi việc nghiêm cấm còn gay gắt thì chỉ sơ xẩy một chút cũng mang họa vào thân. Những người tham gia tu sử, đại đa số chỉ giúp vài quyển, chẳng ai đọc hết từ đầu chí cuối, lại thêm những ai giúp việc sửa đổi mấy quyển cuối là những người hận Thanh triều thấu xương, có ai chịu dùng niên hiệu Đại Thanh. Trang Đình Long là con nhà giàu có, hai mắt lại lòa không khỏi sơ xuất khiến cho kẻ tiểu nhân có dịp nước đục thả câu.
Trưa hôm sau, Ngô Chi Vinh lập tức xuống thuyền đi về hướng đông đến Hàng Châu, ở trong khách điếm viết một lá thư cáo giác, kèm luôn bộ Minh Sử đưa vào trong phủ Tùng Khôi tướng quân. Y chắc mẩm Tùng Khôi khi nhận được lá thư rồi thể nào cũng gọi y vào gặp mặt. Khi đó người Mãn Châu tra xét những âm mưu phản nghịch rất nghiêm nhặt, ban thưởng rất hậu, y lập được công to như thế này, được phục chức làm quan thể nào cũng chắc, có khi còn thăng lên mấy cấp nữa.
Ngờ đâu y ở tại khách điếm chờ đợi mỏi mòn, luôn đến hơn nửa năm, ngày ngày đến cửa phủ tướng quân nghe ngóng hỏi han nhưng chỉ như ném hòn đá xuống biển, chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Về sau y bị những kẻ canh cửa trách mắng đuổi đi không cho y đến mè nheo nữa.
Ngô Chi Vinh trong lòng bồn chồn, mấy lá vàng Trang Duẫn Thành tặng cho đã đổi ra bạc tiêu sạch rồi mà việc cáo giác chưa đi đến đâu cả, vừa buồn bực, lại vừa kinh ngạc.
Hôm đó y lang thang trong thành Hàng Châu đi ngang qua nhà sách Văn Thông Đường mới đi vào định coi ké cho qua ngày giờ, thấy trên giá sách có bày ba bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Không lẽ những chỗ mình tìm thấy không đủ để làm tội Trang Duẫn Thành hay sao? Phải tìm thêm vài chỗ đại nghịch bất đạo khác, sáng mai viết thêm một bản cáo trạng trình lên phủ tướng quân lần nữa”. Tuần phủ Chiết Giang là người Hán, còn tướng quân là người Mãn Châu, y sợ tuần phủ không muốn gây ra vụ đại án văn tự ngục này nên định bụng sẽ cáo giác với tướng quân người Mãn.
Y lật một bộ ra xem, mới coi vài trang đã hết hồn hết vía, chẳng khác gì rơi tọt vào một hầm nước đá, hoang mang vô định, không còn biết đâu vào đâu, bao nhiêu chỗ cấm kỵ trong sách tuyệt nhiên biến mất không thấy tăm hơi, từ khi Thái Tổ nhà Đại Thanh khai quốc trở về sau đều biến thành niên hiệu của Mãn Châu cả, đến cả việc Vệ đô đốc đánh vào Kiến Châu (thân thích của tổ tông nhà Mãn Thanh), cùng các nơi chép về Long Võ, Vĩnh Lịch cũng chẳng còn gì nữa. Thế nhưng văn chương từ trước tới sau đều liền lạc, những tranh sách đều mới tinh không thấy dấu vết gì tẩy xóa, không hiểu sao lại biến hóa ra thế này thực là hết sức quái lạ.
Y tay cầm bộ sử đứng trong hiệu sách ngơ ngẩn như trời trồng, qua một hồi sau mới buột miệng kêu lên:
- Đúng rồi!
Y thấy bộ sách này ngoài bìa cũng như giấy bên trong đều mới tinh mới quay qua chủ tiệm hỏi kỹ thì ra nhà buôn từ Hồ Châu mới giao lại chỉ độ bảy tám ngày gần đây. Y nghĩ bụng: “Tên Trang Duẫn Thành kia ghê gớm thật! Quả đúng là “có tiền mua tiên cũng được”, y thu hồi sách cũ, in lại bản mới làm như sách vừa in xong, còn bao nhiêu sách cũ những đoạn cấm kỵ xé bỏ cả rồi. Ôi, không lẽ mình đành bỏ cuộc hay sao?”.
Những gì Ngô Chi Vinh suy nghĩ quả đúng như thế. Thì ra Tùng Khôi tướng quân của Hàng Châu không biết chữ Hán, người sư gia trong phủ đọc được bản cáo giác của Ngô Chi Vinh ai nấy toát mồ hôi lạnh, biết rằng chuyện này liên qua cực kỳ lớn lao, cầm lá thư mà hai tay run bần bật.
Người đề lại đó họ Trình, tên Duy Phiên, là người Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Thời hai triều Minh Thanh, đề lại trong các phủ huyện mười người đến chín là người Thiệu Hưng, thành thử hai chữ “sư gia”bao giời cũng thêm “Thiệu Hưng”để thành “Thiệu Hưng sư gia”. Người đề lại đó học được kinh nghiệm của những người đi trước, thành thử làm việc đâu ra đấy cực kỳ chín chắn. Trong phủ quan mỗi khi có công văn đều do sư gia xem trước, đa số là văn thư từ các cấp hạ liêu đồng hương trình lên để khỏi có điều trách móc chê bai. Thành ra quan chức lớn nhỏ mới đáo nhiệm sở, cần nhất là phải bỏ tiền mua chuộc những vị đề lại Thiệu Hưng. Hai triều Minh Thanh tuy đất Thiệu Hưng không mấy người làm quan lớn thế nhưng lại thao túng bút mực hành chánh suốt cả trăm năm, là một kỳ tích trong lịch sử chính trị Trung Quốc.
Gã Trình Duy Phiên bụng dạ trung hậu, tin tưởng vào điều “một đời làm lại gia hại ba đời”, đã mang thân vào chốn công môn thì nên khéo đường tu. Cũng phải nói thao túng sinh sát bách tích tuy trong tay quan lại thật, nhưng đề lại chỉ thêm bớt vài chữ là có thể làm cho người ta tan cửa nát nhà, còn như khai đường mở lối một câu, cũng có thể là chết đi sống lại, thành thử nếu ở cửa quan cứu người còn to lớn gấp mấy lần nương thân thiền môn tụng kinh gõ mõ. Y thấy vụ án Minh Sử này có thể gây nên đại họa, không biết vùng Tô Chiết bao nhiêu người táng mạng phá gia, nên vội vàng xin tướng quân cho nghỉ vài ngày, lập tức ngày đêm đi thuyền đến trấn Nam Tầm Hồ Châu đem chuyện này cáo tri Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành thấy đại họa đổ ập xuống đầu mình, kinh hãi đến mất hồn mất vía, miệng há hốc, nước dãi chảy lòng thòng, không còn biết tính làm sao, một hồi lâu mới vội vàng đứng lên quì gập xuống lạy tạ đại ân của Trình Duy Phiên rồi vấn kế y xem phải làm gì.
Trình Duy Phiên trên đường đi từ Hàng Châu đến Nam Tầm đã suy đi tính lại, tìm ra được một cách thật hay, nghĩ thầm bộ Minh Thư Tập Lược này lưu truyền đã lâu, có dấu cũng không được, chi bằng thi hành kế “phủ để trừu tân”, một mặt sai người đi khắp các tiệm sách, thu hồi tất cả các bộ Minh Sử về tiêu hủy, một mặt thuê công nhân ngày đêm in lại bản mới, bỏ hết những chỗ húy kỵ rồi đem ra lưu hành. Nếu như quan phủ có truy cứu, tra xét bản mới thấy những lời cáo giác của Ngô Chi Vinh không đúng sự thực, thế là thoát được một mối họa bất ngờ.
Y bèn nói kế đó cho Trang Duẫn Thành nghe khiến ông lão vừa mừng vừa sợ, liên tiếp rập đầu tạ ơn. Trình Duy Phiên lại chỉ hết mọi đường đi nước bước, nơi nào chỗ nào cần đút lót bao nhiêu, cửa nào quan nào cần đấm mõm, Trang Duẫn Thành vâng vâng dạ dạ nghe theo cả.
Trình Duy Phiên quay trở về Hàng Châu, chờ đến hơn nửa tháng rồi mới đem lá thư của Ngô Chi Vinh và bộ sách trình lên cho tuần phủ Chiết Giang là Chu Xương Tộ, viết thêm vài hàng vào công văn, nói là người cáo buộc ấm ức vì chuyện bị mất chức tri huyện, xin xỏ không cho để bụng thù hằn, vậy xin phủ đài tra xét minh bạch.
Trong khi Ngô Chi Vinh mòn con mắt ở khách điếm đợi chờ thì tiền bạc Trang Duẫn Thành đổ ra như nước mua chuộc khắp nơi. Hậu lễ của họ Trang đã rải khắp cửa tướng quân, cửa tuần phủ, cửa học chính rồi, nên Chu Xương Tộ nhận được văn thư, cho rằng loại sách vở như thế này là chuyện của học chính ti cai quản, lại dìm đó thêm mươi ngày nữa mới gửi sang bên ti học chính. Đề lại bên học chính ngô môn lại bỏ xó thêm nửa tháng nữa, rồi cáo ốm nghỉ ở nhà một tháng, sau đó mới viết nhì nhằng gửi cho phủ Hồ Châu. Quan phủ Hồ Châu lại ngâm tôm thêm hai mươi ngày mới gửi sang học quan huyện Qui An và Ô Trình, yêu cầu hai người xem xét. Hai viên học quan này vốn đã được Trang Duẫn Thành dấm dúi cho một món tiền to, khi đó bản mới đã in ra xong, hai người liền đem bộ đó trình lên rằng:
“Bộ sách này tầm thường sơ sài, chẳng có gì là xách động được nhân tâm, đã xem xét thật kỹ từ đầu chí cuối, không thấy chỗ nào phạm cấm cả.”
Nơi nào trình lên cũng đều thế cả, chuyện kể như xong.
Ngô Chi Vinh phát hiện bản Minh Sử mới trong thư quán, nghĩ thầm chỉ có cách nào kiếm ra được một bộ nguyên bản thì mới xin tái thẩm được thôi. Những bộ Minh Sử bản cũ ở tất cả các nhà sách tại Hàng Châu Trang Duẫn Thành đều đã mua lại hết rồi nên y vội vàng sang miền đông huyện Tích Châu lùng sục thế nhưng cũng không tìm đâu ra. Y hết sức thất vọng đành phải bỏ cuộc về quê. Thế nhưng việc cũng lạ đời, trên đường đi tại một khách điếm trông thấy chủ quán đang đọc sách, vừa đọc vừa lắc đầu, nhìn kỹ lại hóa ra y đang đọc bộ Minh Thư Tập Lược. Y mượn coi qua, té ra đó là nguyên bản. Y mừng không đâu cho xiết, nghĩ bụng nếu như đòi mua lại chắc gì y đã chịu bán, huống nữa trong túi lại hết tiền lấy gì mà mua, chi bằng ăn cắp cho xong.
Đến đêm khuya y len lén trở dậy, trộm được bộ sách liền trốn đi ngay, thấy tỉnh Chiết Giang chỗ nào quan lại cũng bị Trang Duẫn Thành mua chuộc hết rồi, thôi thì đâm lao phải theo lao, đành lên tận Bắc Kinh cáo giác.
---
[1] Người là dao thớt, ta là cá thịt
[2] Người là vạc đỉnh, ta là hươu nai
[3] Nhà Tần mất con hươu (cũng có nghĩa là mất lộc phúc), thiên hạ hè nhau đuổi nó.
[4] Đuổi hươu Trung Nguyên
[5] Thần biết rằng tội khinh nhờn đại vương quả là đáng giết, xin được bỏ vào vạc mà đun.
[6] Hỏi đỉnh Trung Nguyên
[7] Sở Tử (lúc ấy là Sở Trang Vương): Tử là một trong năm tước. Thật ra thì khi ấy Sở đã tự xưng vương (tức ngang hàng với nhà Chu) từ lâu.
[8] Hai câu này trên lấy chữ Thanh, dưới lấy chữ Minh đứng đầu ý nói hoài vọng nhà Minh, bất phục nhà Thanh.
[9] Giang sơn hoa gấm
[10] Bốn câu này nói về cuối đời Tống, Trung Hoa rơi vào tay người Mông Cổ, vua nhà Tống phải nhảy xuống biển tự tận ở Quảng Châu (Xem thêm Vó Ngựa và cánh cung, Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)
[11] Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh.
[12] Đào Nguyên hà xứ, khả tị bạo Tần?
[13] Xem thêm Bút Nghiên, Thư Họa của Nguyễn Duy Chính
[14] Sách viết nháp, chưa in

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
Hồi 3 (a)
PHÙ LAI TỤ LÝ VI PHƯƠNG GIẢI
CHÙY THOÁT NANG TRUNG SỰ CÁNH THÀNH

Một ngày kia hai người đã đến Bắc Kinh, vào trong thành thì đã xế trưa. Mao Thập Bát dặn Vi Tiểu Bảo ăn nói hành vi phải hết sức giữ gìn, nơi chốn kinh thành tai mắt công sai nhiều lắm, chớ để lộ chút sơ hở gì. Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ta có gì mà sơ hở? Đại ca mới là cần dè chừng để khỏi lộ chuyện, chẳng phải lão huynh đang đi kiếm Ngao Bái để tỉ võ ư? Vào trong điện kiếm là xong ngay.
Mao Thập Bát chỉ cười gượng không đáp. Hôm trước y nói sẽ lên Bắc Kinh để tỉ võ với Ngao Bái, chẳng qua chỉ vì trong cơn khích động nên nỏ mồm nói mẽ một câu cho oai, tuy là kẻ lỗ mãng thô hào nhưng chẳng gì cũng đã qua lại trên giang hồ non hai chục năm nay, lẽ nào không biết Ngao Bái là một đại quan chỉ dưới một người mà trên vạn người, ai thèm ra tay tỉ võ với một hán tử như y?
Y cũng biết mình bất quá chỉ là một cao thủ hạng hai hạng ba, nếu như Ngao Bái quả là Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ thì hẳn là không thể nào thắng y được. Chỉ hiềm đã chót huênh hoang trước mặt Vi Tiểu Bảo lẽ nào không lên Bắc Kinh, bụng tính thầm sẽ dẫn thằng bé đi loanh quanh phố phường mươi ngày nửa tháng, xem phong cảnh, ăn uống một trận cho thỏa thuê, rồi sẽ đưa nó trở về Dương Châu.
Còn Ngao Bái thì chắc chắn đời nào chịu tỉ võ với y, lúc đó sẽ nại cớ đối phương không chịu, chứ đâu phải mình không dám, Vi Tiểu Bảo không thể chê cười y là kẻ già trái non hột, miệng hùm gan sứa. Còn như Ngao Bái lại chấp thuận so tài thì đành bỏ mạng mà thôi.
Hai người đến một tiểu tửu điếm ở phía tây thành, Mao Thập Bát gọi rượu thịt còn đang ăn, bỗng thấy bên ngoài tiến vào hai người, một già một trẻ. Người già ước chừng sáu mươi tuổi, còn đứa trẻ thì chỉ độ mười hai mười ba. Hai người đó ăn mặc hết sức kỳ lạ, Vi Tiểu Bảo không biết họ là hạng người gì nhưng Mao Thập Bát thì biết ngay họ là thái giám trong hoàng cung.
Người thái giám già mặt mũi nhợt nhạt, lưng còng, liên tiếp ho sù sụ dường như trong người có bệnh nặng. Tiểu thái giám đỡ ông ta, chậm rãi đi đến bàn kế bên ngồi xuống. Lão thái giám cất giọng eo éo:
- Đem rượu ra đây!
Tửu bảo vội vàng vâng dạ, lật đật mang rượu đến. Người thái giám già lấy trong người ra một gói giấy, mở ra, cẩn thận dùng móng tay khều một chút bỏ vào trong rượu rồi lại cất gói thuốc vào trong bọc, cầm chén rượu lên chậm rãi uống một hơi hết sạch. Qua một hồi bỗng dưng y toàn thân biến chuyển, run rẩy không ngớt. Gã tửu bảo hoảng hốt vội vàng hỏi:
- Sao thế? Sao thế?
Gã tiểu thái giám liền quát lớn:
- Cút ra chỗ khác! Ở đây léo nhéo cái gì?
Người hầu bàn gượng cười, vội vàng tránh xa, nhưng vẫn lấm lét ngó trộm hai người. Người thái giám già hai tay vịn vào bàn, răng đập vào nhau kêu lách cách, càng lúc càng nhiều, một hồi sau cả cái bàn cũng rung lên bần bật, đũa trên bàn từng chiếc từng chiếc lăn xuống đất.
Tiểu thái giám cũng quýnh quáng hỏi:
- Công công, uống thêm một liều nữa nhé?
Y thò tay vào túi lấy gói thuốc, toan mở ra. Người thái giám già kêu lên eo éo:
- Không... không... không... không được...!
Vẻ mặt y đầy vẻ hốt hoảng, gã thái giám trẻ chỉ đành cầm gói thuốc không dám mở ra nữa. Vừa lúc đó, ngoài cửa tửu điếm có tiếng chân rầm rập, rồi bảy đại hán tiến vào. Cả bọn ai cũng cởi trần, mặc quần da bò, đầu thắt đuôi sam, thân thể bóng nhẫy, tưởng chừng như dùng mỡ thoa từ đầu đến chân.
Cả bảy người ai cũng bắp thịt cuồn cuộn, ngực đầy lông đen, bàn tay giơ ra to như nan quạt, ngón tay to như chuối mắn. Bảy người chia ra ngồi thành hai bàn lớn tiếng quát:
- Mau đem rượu ra đây, thịt bò gà quay càng nhanh càng tốt.
Tửu bảo luôn mồm vâng dạ, vội vàng dọn đũa bát, miệng hỏi:
- Khách quan dùng món gì?
Một đại hán giận dữ nói:
- Bộ ngươi điếc hay sao?
Một đại hán khác đột nhiên vươn tay, chộp ngay sau lưng gã hầu bàn, nhấc bổng y lên. Tên tửu bảo sợ quá la bải hải, tay chân vùng vẫy, cả bảy tên kia cười sằng sặc. Đại hán liền hất tay một cái, quăng luôn gã hầu bàn ra khỏi cửa, bình một tiếng ngã phịch xuống đất. Tửu bảo kêu lên:
- Ối trời ôi! Ối mẹ ơi!
Cả bọn kia lại càng cười như vỡ chợ. Mao Thập Bát hạ giọng nói nhỏ:
- Đây là bọn đô vật. Bọn chúng nắm được ai liền quăng ra xa cho người ta khỏi đến gần, có thể phản công được.
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Vậy đại ca có biết đánh vật không?
Mao Thập Bát đáp:
- Ta chưa học qua. Môn ngạnh công này nếu như gặp võ lâm hảo thủ thì không dùng được bao nhiêu.
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Vậy đại ca đánh lại bọn kia không?
Mao Thập Bát mỉm cười:
- Đánh với bọn mãng phu này có gì thú vị đâu?
Vi Tiểu Bảo nói:
- Nhưng đại ca một đánh với bảy thì thua là cái chắc!
Mao Thập Bát đáp:
- Bọn chúng đâu phải là đối thủ của ta được.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên la lớn:
- Nè, tất cả mấy người kia, ông bạn của ta đây nói là một mình y dư sức đánh cho cả bảy người chạy tóe khói.
Mao Thập Bát vội vàng quát lên:
- Thôi đừng có gây chuyện nữa.
Thế nhưng Vi Tiểu Bảo lại là kẻ thích khích bác, thấy bảy người kia vô duyên vô cố đánh cho gã tửu bảo chết đi sống lại, trong bụng đã lộn ruột, lại nghe Mao Thập Bát nói là có thể đánh bại bọn người này, lập tức đâm thọc để Mao Thập Bát trừng trị bọn kia một mẻ.
Cả bảy tên cùng quay lại nhìn trừng trừng vào Mao Vi hai người, một gã hỏi:
- Thằng nhãi kia, ngươi nói gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Vị bằng hữu của ta đây nói rằng bọn ngươi ăn hiếp tên tửu bảo, đâu có anh hùng hảo hán, có giỏi thì đấu với y xem nào.
Một đại hán trợn mắt nhìn Mao Thập Bát hất hàm:
- Thằng khốn kiếp kia, ngươi có nói vậy không?
Mao Thập Bát biết rằng bảy tên này đều là đô vật, vốn chẳng muốn gây chuyện làm gì thế nhưng y thoạt nhìn thấy người Mãn Châu đã hầm trong bụng, lại nghe gã kia ăn nói xách mé, lập tức cầm be rượu lên vung tay ném về phía bọn kia. Gã nọ đưa tay ra gạt, có biết đâu khi Mao Thập Bát ném ra đã truyền nội kình vào, lách cách mấy tiếng, be rượu vừa đụng vào cánh tay, gã kia thấy đau nhói kêu “Ối”một tiếng.
Một đại hán khác lập tức xông tới, Mao Thập Bát liền phóng ra một ngọn cước. Người Mãn Châu khi vật rất ít dùng chân nên không né tránh được, trúng ngay bụng dưới, lập tức bắn ra ngoài.
Năm gã còn lại lập tức chửi ầm lên:
- Quân khốn kiếp, đồ đê tiện!
Rồi cùng nhau xông tới. Mao Thập Bát thân hình lanh lợi, sử dụng cầm nã thủ pháp, thúc cùi chỏ, chém cương đao, trong khoảnh khắc đánh ngã luôn bốn đứa, gã còn lại bị trúng một chưởng vào vai, giơ tay nắm được sau lưng Mao Thập Bát, nhắc lên thuận tay lộn ngược định đập đầu đối phương xuống đất cho vỡ sọ chết tươi. Mao Thập Bát liên tiếp đá liên hoàn, bịch bịch hai tiếng trúng ngay ngực y. Đại hán đó há hốc mồm, máu tươi phun ra như suối, hai tay lập tức buông lỏng.
Mao Thập Bát thuận thế y đang ngã ngửa, nhảy lên giậm vào ngực y, song chưởng dùng chiêu Hồi Phong Phất Liễu, chém xéo tới, trúng ngay hậu tâm của gã hồi nãy bị y ném bình rượu, nghe lụp cụp, đại hán kia bị gãy luôn mấy rẻ xương sườn, nằm phục xuống bàn. Mao Thập Bát một tay dắt Vi Tiểu Bảo, miệng nói:
- Thằng tiểu quỉ, ngươi lại gây họa rồi, chạy cho mau!
Hai người nhắm ngay cửa quán phóng ra. Chỉ mới chạy được hai bước, đã thấy người thái giám già đang lom khom đứng chắn ngay lối đi, Mao Thập Bát đưa tay đẩy nhẹ vào tay y một cái, định hẩy y sang một bên. Ngờ đâu thủ chưởng vừa chạm vào vai y, bỗng thấy toàn thân chấn động, chịu không nổi loạng choạng, văng bật ra đến ba bốn bước, sườn va vào cạnh bàn, cái bàn lập tức đổ chỏng gọng còn y bị đẩy ngược lại kéo theo luôn cả Vi Tiểu Bảo ngã lăn cù. Vi Tiểu Bảo kêu lớn:
- Ối trời ơi! Ối mẹ ơi! Đau chết mất!
Mao Thập Bát vịn vào chân bàn cố đứng lên, thấy người trộn trạo như bị lửa đốt. Y hết sức kinh hãi, nhìn lại lão thái giám thấy y lưng còng, người lẩy bẩy, vẫn ho sù sụ, chuyện mới rồi dường như không hề hay biết.
Mao Thập Bát biết rằng hôm nay mình đã gặp cao nhân, đối phương hẳn là có tà thuật, còn không thì võ công hơn mình xa lắc, chứ làm sao mà có thể mượn cái đẩy nhẹ nhàng của mình biến thành một luồng lực đạo lớn đến thế. Trong võ công tuy có thuật “mượn lực đánh trả lại”hay phép “bốn lạng gạt nghìn cân”, nhưng cũng đều là do đối phương dùng bao nhiêu sức đánh tới thì mình cũng đem bấy nhiêu hơi sức trả trở về, chứ có lý nào lại đem lực nhỏ biến thành lực lớn cho được. Y lập tức xoay người, xách luôn thằng nhỏ Vi Tiểu Bảo đang kêu trời như bộng chạy vọt về phía hậu đường.
Chỉ mới chạy được ba bước đã nghe một tiếng ho, lão thái giám kia chặn ngay trước mặt rồi. Mao Thập Bát kinh hãi, gót chân sử kình, thân trên lao tới, tưởng như định xông vào đối phương nhưng thân trên lại bật ngửa về sau. Hai chân y chưa chạm đất, bổng thấy sau lưng có một luồng lực đạo ập vào lập tức đưa tay trái đánh ngược lại một chưởng, nhưng chỉ đánh vào chỗ không, người bổ nhào về trước, ngã chổng kềnh lên người hai đại hán.
Y bị ngã vố này khá nặng, cũng may hai gã kia vừa to vừa béo, chẳng khác gì một cái đệm thịt nên không bị thương. Hai gã kia xương đùi bị gãy, không đứng lên được nhưng hai tay không sao cả, lập tức thi triển phép đánh vật, ôm chặt lấy y. Mao Thập Bát muốn chống lại nhưng chân tay không còn chút hơi sức nào, hóa ra huyệt đạo ở sau lưng đã bị người ta điểm trúng rồi.
Y đang nằm sấp nên không nhìn rõ tình hình ra sao nhưng vẫn nghe lão thái giám tiếp tục ho sù sụ, thều thào mắng tiểu thái giám:
- Mi bảo ta uống thuốc thêm nữa, bộ muốn cho ta chết hay sao? Thuốc đó chỉ dùng thêm một chút đỉnh nữa thì là mất mạng rồi, khục… khục… khục… cái đồ trẻ con, thật chỉ láo lếu.
Tiểu thái giám nói:
- Hài tử thật chẳng biết gì cả, từ rày trở đi không dám thế nữa.
Người thái giám già đáp:
- Lại còn lần sau hay sao? Ôi, ta cũng chẳng biết mình còn sống được mấy ngày, khục... khục... khục …
Tiểu thái giám hỏi:
- Công công, gã này lai lịch thế nào? E rằng là một tên phản tặc.
Lão thái giám không trả lời quay sang mấy gã kia:
- Này các ông bạn là bố khố ở đâu thế?
Một đại hán đáp:
- Bẩm công công, chúng tôi đều ở phủ của Trịnh vương gia. Hôm nay nếu không nhờ công công xuất thủ, bắt tên phản tặc này thì chúng tôi chẳng còn mặt mũi nào nữa.
Người thái giám già hừ một tiếng nói:
- Ấy... ấy cũng chỉ là gặp dịp thôi. Khục... khục... khục... các ngươi chớ làm kinh động bên ngoài, hãy đem hán tử này và thằng bé con đưa tới Thượng Thiện Giám trong đại nội, bảo là người của Hải lão công bắt đấy.
Lập tức có mấy đại hán vâng vâng dạ dạ. Lão thái giám lại nói:
- Còn chờ gì mà không đi kiếm kiệu? Ngươi xem ta như thế này, còn có sức mà đi được nữa hay sao?
Tiểu thái giám vội đáp lời, chạy vọt ra ngoài. Người thái giám già nằm phục xuống bàn, ho sù sụ không ngớt. Vi Tiểu Bảo thấy Mao Thập Bát bị bắt rồi, nhớ lại lời thầy đồ kể chuyện vẫn nói:
Núi xanh như vẫn còn kia,
Lẽ đâu thiếu củi mà lo chuyện đời.[1]
Lập tức chân chẳng khác gì bôi mỡ, ba mươi sáu chước, chạy là hơn cả. Y men theo bờ tường, len lén lần xuống hậu đường, mắt trước mắt sau thấy không ai để ý, đang mừng thầm thì lão công công kia đã giơ tay búng một cái, một chiếc đũa bay vụt ra, trúng ngay khoeo chân bên phải. Chân Vi Tiểu Bảo liền ê ẩm, thân hình sụm xuống, không còn cử động gì được nữa, chỉ còn nước ngoác mồm ra chửi:
- Lão rùa đen ho lao thành tinh kia …
Y nhìn lên thấy một đại hán đang hầm hầm nhìn mình, trong bụng chột dạ, đến mươi câu chửi độc địa chưa kịp tuôn ra đã nuốt ngay xuống bụng. Chẳng bao lâu, một chiếc kiệu khiêng đến ngoài cửa, tiểu thái giám đi vào nói:
- Công công, kiệu đến rồi đây.
Lão thái giám ho mấy tiếng, được tiểu thái giám đỡ vào ngồi trong kiệu, hai người phu liền khiêng đi, tiểu thái giám lẽo đẽo theo sau.
Trong bảy đại hán thì bốn người bị thương rất nhẹ, lập tức lấy dây chão trói gô Mao Thập Bát và Vi Tiểu Bảo lại, vừa trói vừa tay đấm chân đá Mao Thập Bát. Vi Tiểu Bảo nhịn không nổi mồm năm miệng mười sa sả chửi, bị hai cái tát lúc ấy mới đành làm thinh. Bọn kia gọi thêm hai chiếc kiệu tới, lấy giẻ nhét vào mồm hai người, dùng vải đen bịt mắt lại, vứt vào trong kiệu. Vi Tiểu Bảo hồi bảy tuổi có được một ngồi kiệu đi lễ với mẹ một lần, lúc này đành tự nhủ: “Mẹ nó chứ, lão tử lâu lắm không được ngồi kiệu, hôm nay bọn con hiếu thảo đem kiệu cho bố nó ngồi, quả thực ngoan quá, tử tế quá!”. Thế nhưng khi nghĩ tới mình sẽ cùng Mao Thập Bát bị chém đầu, y bất giác run như cầy sấy.
Tuy ở trong kiệu chỉ thấy tối thui nhưng y cũng biết đi chưa tới. Thỉnh thoảng kiệu dừng lại, có người cật vấn, lại nghe đại hán đi theo bên ngoài đáp:
- Hải lão công ở Thượng Thiện Giám ra lệnh đem tới.
Vi Tiểu Bảo không biết Thượng Thiện Giám là cái quái gì nhưng xem chừng Hải lão công là người quyền thế, chỉ nhắc đến tên y, lập tức kiệu được đi qua không ai ngăn trở gì. Có một lần kẻ lục vấn kia mở rèm kiệu dòm vào, kêu lên:
- Ồ, chỉ là một thằng nhãi con.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: “Là ông tổ ngươi đó!”. Có điều miệng y bị nhét giẻ, không nói được. Trên đường đi y mơ mơ màng màng tưởng chừng muốn lăn ra ngủ, đột nhiên kiệu ngừng lại, có người nói:
- Người mà Hải công công muốn giữ đến rồi đây.
Giọng một đứa trẻ nói:
- Thế ư, Hải công công đang nghỉ, để họ vào đây được rồi.
Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm, biết ngay đó là tiểu thái giám gặp nơi tửu điếm. Lại nghe người nói trước lên tiếng:
- Chúng tôi quay về bẩm với Trịnh vương gia, vương gia thể nào cũng sai người đến cảm tạ Hải lão công.
Thằng bé kia đáp:
- Được rồi, ngươi trình lại với vương gia là Hải lão công hỏi thăm.
Người kia đáp:
- Cái đó không dám.
Sau đó có người lôi Mao Thập Bát và Vi Tiểu Bảo từ trong kiệu ra đem vào nhà vứt toẹt xuống đất.
Nghe tiếng chân người đi xa dần, rồi có mấy tiếng ho húng hắng của Hải lão công. Vi Tiểu Bảo ngửi thấy một mùi thuốc cực nồng, nghĩ thầm: “Lão quỉ này bệnh sắp chết đến nơi, sao không chết sớm vài bữa, xem chừng y bắt mình và Mao đại ca thế mạng xuống gặp Diêm vương trước”. Chỉ thấy bốn bề lặng yên, trừ tiếng ho của Hải lão công, không còn động tĩnh gì hết. Vi Tiểu Bảo chân tay bị trói chặt, ngón tay, ngón chân đã tê dại, khổ sở nhường nào, còn Hải lão công xem chừng quên mất có hai người ở đây, chẳng ngó ngàng gì đến.
Qua một lúc lâu thật lâu, mới nghe tiếng Hải lão công thều thào rên lên một tiếng:
- Tiểu Quế tử!
Thằng bé kia bèn đáp lời:
- Dạ!
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: “Thì ra thằng nhỏ thối tha này tên là Tiểu Quế tử, so với tên thằng bố nó cũng có chung một chữ tiểu”. Lại nghe Hải lão công dặn:
- Ngươi cởi trói cho hai đứa đó, ta muốn hỏi chúng nó mấy câu.
Tiểu Quế tử đáp:
- Vâng!
Vi Tiểu Bảo nghe tiếng soạt soạt, chắc là Tiểu Quế tử dùng dao cắt dây trói chân Mao Thập Bát, một hồi sau, dây trói chân tay y cũng bị cắt đứt, rồi tấm vải đen bịt mắt được gỡ ra. Vi Tiểu Bảo giương mắt nhìn, thấy chỗ mình đang ở là một gian phòng lớn, trong phòng đồ đạc lưa thưa, chỉ gồm một cái bàn, một cái ghế, trên bàn để ấm trà bình trà. Hải lão công ngồi trên ghế, nửa ngồi nửa nằm, hai má hõm sâu, mắt lim dim nửa nhắm nửa mở. Lúc này trời đã tối, trên tường có hai chân đèn bằng đồng, mỗi bên đốt một ngọn nến, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt vàng vọt của Hải lão công.
Tiểu Quế tử móc nắm giẻ trong miệng Mao Thập Bát ra, rồi qua định gỡ nắm giẻ trong miệng Vi Tiểu Bảo. Hải lão công nói:
- Thằng bé này mồm miệng dơ dáy lắm, cứ để nó như thế đã.
Vi Tiểu Bảo hai tay đã tự do rồi, nhưng không dám tự mình thò tay lôi nắm giẻ ra, ô ngôn uế ngữ thầm chửi trong đầu e rằng còn gấp mười lần Hải lão công có thể tưởng tượng được. Hải lão công nói:
- Lấy cái ghế cho y ngồi.
Tiểu Quế tử qua phòng bên cạnh nhắc một chiếc ghế để ở bên cạnh Mao Thập Bát, Mao Thập Bát lập tức ngồi xuống. Vi Tiểu Bảo thấy mình không có ghế, chẳng khách sáo gì ngồi phệt ngay xuống đất.
Hải lão công quay sang hỏi Mao Thập Bát:
- Tôn tính đại danh lão huynh là gì? Thuộc nhà nào phái nào thế? Cầm nã thủ pháp của các hạ không phải tệ, xem ra không phải là võ công phương bắc chúng tôi.
Mao Thập Bát đáp:
- Ta họ Mao, tên gọi Mao Thập Bát, là môn hạ của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao Tần Châu Giang Bắc.
Hải lão công gật gù:
- Mao Thập Bát Mao lão huynh, ta cũng đã từng nghe đến tên tuổi của các hạ. Nghe nói lão huynh ở suốt một dải Dương Châu, cướp của đốt nhà, giết quan vượt ngục, làm nhiều việc không phải nhỏ.
Mao Thập Bát đáp:
- Đúng thế!
Y đối với võ công kinh người của lão thái giám ho lao này chẳng dám coi thường nên không dám buông lời khích bác. Hải lão công lại tiếp:
- Các hạ đến chốn kinh sư hẳn có việc gì, liệu có thể nói cho ta nghe được chăng?
Mao Thập Bát đáp:
- Đã rơi vào tay ngươi, muốn chém muốn giết xin cứ tự tiện, họ Mao này là giang hồ hảo hán, quyết chẳng cau mày. Còn như ngươi định bức cung thì e rằng lầm người rồi đó.
Hải lão công mỉm cười nói:
- Ai chẳng biết Mao Thập Bát là một hán tử khẳng khái hiên ngang, bức cung thì đâu dám. Nghe nói các hạ là tay chân thân tín của Bình Tây Vương ở Vân Nam…
Câu của y chưa nói hết, Mao Thập Bát đã giận dữ đứng phắt dậy, quát lớn:
- Ai liên hệ gì đến tên đại Hán gian Ngô Tam Quế bao giờ? Ngươi nói thế chẳng làm nhơ bẩn thanh danh của một đời hào kiệt Mao Thập Bát này hay sao?
Hải lão công ho khúc khắc mấy tiếng, lại mỉm cười nói:
- Bình Tây Vương lập nên công lớn với nhà Đại Thanh, chủ nhân đối với vương gia cực kỳ ỷ trọng, nếu các hạ là người thân tín của Bình Tây Vương, bọn ta nể mặt vương gia, nếu phạm lỗi nhỏ thì có thể bỏ qua không tính đến.
Mao Thập Bát lớn tiếng:
- Không phải, không phải! Mao Thập Bát này với tên giặc thối tha Ngô Tam Quế không có dính dấp gì cả, họ Mao này việc gì phải dựa hơi tên Hán gian kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, còn bảo ta là thân tín tâm phúc gì đó của Ngô tặc, thì đến ông cha nhà họ Mao cũng phải nhục lây.
Ngô Tam Quế dẫn Thanh binh nhập quan khiến cho nhà Minh bị tiêu diệt, Vi Tiểu Bảo ở chốn thị tỉnh nghe người nào đề cập đến Ngô Tam Quế đều thêm mấy chữ “Hán gian”, “tên giặc thối tha”, “đồ chó săn”…bèn nghĩ thầm: “Nghe giọng lưỡi lão ô qui này thì nếu như Mao đại ca mạo nhận là người tâm phúc của Ngô Tam Quế thì y sẽ thả mình ra. Thế nhưng Mao đại ca lại cứng đầu, không chịu nhận vơ như thế. Thế nhưng cứng đầu thì sẽ thịt nát xương tan. Người đời vẫn bảo: Hảo hán thà chết không chịu luồn cúi, luồn cúi thì đâu còn là hảo hán nữa. Chi bằng mình ba hoa chích chòe một phen, nói Ngô Tam Quế coi trọng đại ca như thế nào, thế nào, bao giờ chim sổ lồng rồi, mình sẽ chửi mười tám đời nhà Ngô Tam Quế cũng không muộn”.
Máu huyết chân tay bắt đầu bình hòa trở lại, Vi Tiểu Bảo liền đưa tay áo lên che miệng, len lén móc cục vải trong mồm ra. Hải lão công khi đó đang chăm chú nhìn Mao Thập Bát nên không biết Vi Tiểu Bảo giở trò ma mãnh, thấy Mao Thập Bát sắc mặt hậm hực, liền mỉm cười nói:
- Ta lại tưởng các hạ do Bình Tây Vương sai đến kinh sư, hóa ra đoán sai rồi.
Mao Thập Bát nghĩ thầm: “Lần này mình bị chính tay chân của hoàng đế bắt tại Bắc Kinh, chắc chắn không thể nào thoát thân được. Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Mao Thập Bát có chết cũng chẳng đáng gì nhưng không thể để cho người ta bôi bác được”. Y nhìn thấy Vi Tiểu Bảo đang chăm bẳm nhìn mình, liền lớn tiếng nói:
- Để ta nói thực cho nhà ngươi nghe, ta ở phương nam nghe trên giang hồ đồn đãi, Ngao Bái là đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu, nào là quyền đánh trâu điên, cước đá hổ dữ, nghe ghê gớm lắm. Họ Mao này không phục nên lên Bắc Kinh định cùng y tỉ thí một phen.
Hải lão công thở dài, nói:
- Ngươi muốn cùng Ngao thiếu bảo tỉ võ ư? Ngao thiếu bảo quan cư cực phẩm, trong thành Bắc Kinh này trừ Hoàng thượng, Hoàng thái hậu ra kế đến là Ngao thiếu bảo. Lão huynh ở Bắc Kinh đợi mười năm, tám năm cũng chưa chắc đã gặp được, nói gì đến chuyện tỉ võ?
Mao Thập Bát lúc đầu còn cho rằng Hải lão công có tà thuật, về sau huyệt đạo sau lưng bị đóng, mãi đến lúc này mới từ từ được giải khai, mới biết đây là võ thuật dùng nội công thượng thừa. Nghe hình dáng khẩu âm lão thái giám này hẳn là người Mãn Châu, đến một lão già bệnh hoạn người Mãn mình còn địch không nổi, nói gì đến chuyện tỉ thí với đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu? Khi y ở nơi núi Đắc Thắng thành Dương Châu ác chiến với bọn Sử Tùng, tuy tình thế nguy cấp nhưng vẫn chẳng coi vào đâu, lúc này gặp phải lão quỉ ho lao này thì bao nhiêu hào khí mất sạch, nhịn không nổi thở dài một tiếng.
Hải lão công liền hỏi:
- Các hạ có còn tính đến chuyện cùng Ngao thiếu bảo tỉ võ nữa hay chăng?
Mao Thập Bát đáp:
- Xin hỏi võ công cái gã Ngao Bái kia được chừng mấy thành của tôn giá?
Hải lão công mỉm cười nói:
- Ngao thiếu bảo là xuất tướng nhập tướng cố mệnh đại thần, phú quí cực phẩm, vinh hoa không ai sánh kịp. Ta chỉ là một tên hạ tiện khốn khổ, so với Ngao thiếu bảo người ở trên trời, kẻ ở dưới đất, làm sao sánh được?
Y nói về thân phận địa vị của hai người, còn võ công nói lảng ra không đề cập đến. Mao Thập Bát nói:
- Nếu như Ngao Bái võ công được bằng nửa ông thì ta vạn vạn không phải địch thủ của y rồi.
Hải lão công mỉm cười:
- Lão huynh quá ư khiêm tốn đấy thôi. Theo nhận xét của lão huynh, võ công thô thiển của tại hạ, nếu so sánh với Trần Cận Nam thì như thế nào?
Mao Thập Bát đứng bật dậy, ấp úng:
- Ngươi... ngươi... ngươi nói sao?
Hải lão công đáp:
- Ta hỏi là so với tổng đà chủ Trần Cận Nam của quí hội thì sao? Nghe nói Trần tổng đà chủ luyện môn võ công Ngưng Huyết Thần Trảo, nội công cao cường người ta khó mà hình dung được, vẫn mong có dịp thưởng lãm. Có điều tại hạ là kẻ hạ tiện chưa có phúc được bái kiến Trần tổng đà chủ lần nào.
Mao Thập Bát đáp:
- Ta không phải là người trong Thiên Địa Hội, cũng chưa có phúc gặp Trần tổng đà chủ lần nào. Nghe nói Trần tổng đà chủ võ công cực cao nhưng cao đến mực nào thì ta cũng không rõ.
Hải lão công thở dài một tiếng nói:
- Mao huynh, ta vẫn biết lão huynh là một hảo hán tử, với thân thủ tài nghệ như thế, sao không vì hoàng gia ra sức một phen? Tương lai chức đề đốc, tướng quân đâu phải là chuyện khó khăn gì? Còn đi theo Thiên Địa Hội làm loạn, tạo phản, ôi …
Y vừa nói vừa lắc đầu, rồi tiếp:
- Thật chẳng tốt lành gì. Ta có một lời hay khuyên lão huynh, nếu biết gò cương bờ vực, rút lui ra khỏi Thiên Địa Hội là hơn.
Mao Thập Bát ấp úng:
- Ta... ta... đâu phải ở trong Thiên Địa Hội.
Y đột nhiên tằng hắng một cái, nói:
- Cái đó chẳng phải ta đánh nước bài bây cãi xóa. Họ Mao này vẫn mong mỏi được gia nhập Thiên Địa Hội, có điều không có người tiếp dẫn mà thôi. Trên giang hồ có câu rằng:
Bằng như chẳng biết ông Trần,
Còn đâu mà bảo anh hùng với ai.
Hải lão công, câu nói đó hẳn ông cũng đã nghe qua rồi. Họ Mao đường đường người Hán, tuy chưa gia nhập Thiên Địa Hội, nhưng cũng quyết chí phản Thanh phục Minh, lẽ nào lại đầu hàng Mãn Thanh để thành một tên Hán gian hay sao? Ngươi hãy mau mau giết ta đi cho xong! Họ Mao này giết người phóng hỏa, phạm nhiều tội lắm rồi, đáng lẽ đã phải chết, có điều chưa được gặp Trần Cận Nam nên không khỏi chết không nhắm mắt.
Hải lão công nói:
- Người Hán các ngươi không phục người Mãn chiếm được thiên hạ, thực ra cũng chẳng có gì là sai. Ta kính trọng ngươi là một hảo hán tử, hôm nay không giết ngươi vội, để cho ngươi về gặp Trần Cận Nam cho chết được nhắm mắt. Ngươi làm sao gặp y sớm chừng nào tốt chừng nấy, nhắn với y rằng Hải lão công rất mong được kiến diện lĩnh giáo công phu Ngưng Huyết Thần Trảo, để xem lợi hại cỡ nào, mong y sớm giá lâm kinh sư. Ôi, lão đầu nhi chẳng còn được mấy ngày, Trần tổng đà chủ nếu không đến Bắc Kinh, e rằng ta không gặp được y nữa. Ha ha!
Bằng như chẳng biết ông Trần,
Còn đâu mà bảo anh hùng với ai.
Trần Cận Nam không biết anh hùng đến đâu? Sao trên giang hồ lại uy danh đến thế?
Mao Thập Bát nghe thấy y muốn thả cho mình về, quả thực ngoài ý muốn, đứng bật dậy nhưng không dám bỏ đi. Hải lão công nói:
- Ngươi còn đợi gì nữa? Sao chưa chịu đi?
Mao Thập Bát đáp:
- Được!
Y quay người nắm tay Vi Tiểu Bảo, toan thốt ra vài câu qua lại nhưng không biết phải nói gì. Hải lão công lại thở dài một tiếng nói:
- Tưởng ngươi là kẻ qua lại giang hồ lâu năm, sao cái qui củ đó cũng không biết? Ngươi không để lại cái gì, cứ nghênh ngang ra đi vậy hay sao?
Mao Thập Bát nghiến răng nói:
- Đúng lắm, ấy là họ Mao này sơ xuất. Tiểu huynh đệ, cho ta mượn con dao kia một chút, ta chặt cánh tay này đưa cho ngươi.
Y nói xong chỉ vào lưỡi chủy thủ ở bên cạnh tiểu thái giám. Con dao đó dài chừng tám tấc, chính là con dao Tiểu Quế tử vừa dùng để cắt dây trói cho y. Hải lão công nói:
- Một cánh tay trái không chưa đủ.
Mặt Mao Thập Bát đanh lại hỏi:
- Ngươi muốn ta chặt nốt cả tay phải hay sao?
Hải lão công gật đầu:
- Chính thế! Cả hai tay. Ta vốn định, định đòi ngươi cả đôi mắt, khục…khục… nhưng ngươi còn phải đi gặp Trần Cận Nam, nếu không có mắt thì đâu có kiếm được. Thành thử, ngươi tự mình phế bỏ mắt trái, để lại mắt phải thôi.
Mao Thập Bát lùi lại hai bước, buông tay Vi Tiểu Bảo ra, chưởng trái giơ lên, tay phải đè nghiêng xuống, thủ thế Tê Ngưu Vọng Nguyệt, nghĩ bụng: “Ngươi muốn ta hủy mắt trái, sau đó lại chặt hai cánh tay, người tàn phế như thế còn sống làm gì? Chi bằng tỉ thí một phen có chết dưới chưởng của ngươi thì cũng đành lòng”.
Hải lão công chẳng buồn ngẩng lên nhìn y, vẫn tiếp tục ho sặc sụa, càng lúc càng gắt, đến sau không còn hơi sức gì nữa, khuôn mặt vốn vàng như nghệ nay thành đỏ gay. Tiểu Quế tử hỏi:
- Công công, uống thêm một liều thuốc nữa nhé?
Hải lão công lắc đầu quầy quậy, nhưng miệng vẫn ho sù sụ, hết thôi này đến thôi khác, chịu không nổi phải đứng lên hai tay đưa lên bóp cổ mình, thần tình cực kỳ thống khổ.
Mao Thập Bát nghĩ thầm: “Lúc này không chạy thì còn lúc nào nữa?”. Y nhảy tới vươn tay nắm Vi Tiểu Bảo, lao ra ngoài cửa. Hải lão công đưa ngón tay trỏ và ngón tay cái véo vào cạnh bàn một cái đã lấy ra được một miếng gỗ nhỏ, vèo một tiếng búng ngay ra. Mao Thập Bát đang chạy băng băng, miếng gỗ bắn trúng ngay huyệt Phục Thố ở chân phải, chân ê ẩm, khuỵu ngay xuống. Ngay sau đó lại vèo một tiếng, một mảnh gỗ khác bắn ra trúng ngay huyệt đạo chân trái của Mao Thập Bát khiến cả hai người cùng ngã lăn chiêng trong khi Hải lão công vẫn tiếp tục ho không ngớt.
Tiểu Quế tử nói:
- Uống thêm nửa liều chắc không đến nỗi nào.
Hải lão công thều thào:
- Được, được! Chỉ... chỉ một chút xíu thôi, nhiều... nhiều là nguy hiểm lắm đấy.
Tiểu Quế tử vội đáp:
- Vâng!
Y thò tay vào túi ông ta lấy gói thuốc ra, quay lại đi vào nội thất, đem ra một chén rượu, mở gói thuốc, đưa ngón tay út, dùng móng tay khều một chút thuốc bột. Hải lão công vội ngăn:
- Nhiều... nhiều quá …
Tiểu Quế tử nói:
- Vâng.
Y đổ chút phấn ở móng tay trở vào bao, đưa mắt nhìn Hải lão công dò hỏi. Hải lão công gật đầu rồi lại gập người ho sù sụ, đột nhiên thân hình nhào về trước, nằm lăn quay ra, thân hình giựt giựt không ngớt. Tiểu Quế tử kinh hãi quá, vội chạy tới đỡ, miệng kêu:
- Công công, công công, sao thế?
Hải lão công thở hổn hển nói:
- Nóng... nóng quá... đỡ... đỡ ta …vào trong... bồn nước... cho …
Tiểu Quế tử đáp:
- Vâng!
Y cố sức đỡ Hải lão công, hai người chầm chậm lết vào trong phòng, sau đó nghe tiếng nước lõm bõm vọng ra.
Những việc đó Vi Tiểu Bảo đều nhìn thấy rõ ràng, lập tức len lén đứng lên rón rén đi tới bên cạnh bàn, đưa ngón tay trái, xúc luôn ba móng tay bột thuốc, đổ vào chén rượu, lại e vẫn còn chưa đủ, lại múc thêm hai móng tay nữa, sau đó gói bao thuốc lại rồi lại mỏ ra để xóa hết dấu mấy móng tay y vừa để lại. Chỉ nghe Tiểu Quế tử bên trong nội đường nói:
- Công công khỏe lại chưa? Đừng ngâm lâu quá.
Hải lão công đáp:
- Nóng quá... nóng... nóng như lửa đốt.
Vi Tiểu Bảo thấy chiếc chủy thủ còn để trên bàn, lập tức cầm lấy, quay lại chỗ Mao Thập Bát nằm phục một bên. Chẳng bao lâu, có tiếng nước rào rào, Hải lão công người ướt như chuột lột, được Tiểu Quế tử đỡ từ nội đường đi ra nhưng vẫn liên tiếp ho sù sụ. Tiểu Quế tử cầm chén rượu lên, để vào mồm ông ta, Hải lão công vẫn ho sù sụ không uống được.
Trái tim của Vi Tiểu Bảo tưởng như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài. Hải lão công nói:
- Tốt nhất là đừng uống... đừng uống... thứ thuốc này …
Tiểu Quế tử đáp:
- Vâng!
Y để chén rượu lên bàn, gói thuốc kỹ càng bỏ trở vào túi cho Hải lão công. Ngờ đâu Hải lão công lại ho sặc sụa, giơ tay chỉ vào chén rượu. Tiểu Quế tử lại cầm chén rượu lên, để ghé vào mồm ông ta, lần này Hải lão công uống một mạch hết sạch.
Mao Thập Bát mừng quá, nhịn không nổi kêu lên một tiếng. Hải lão công nói:
- Ngươi... ngươi …tưởng... sống mà ra khỏi được sao?
Đột nhiên nghe tiếng lách cách, chiếc ghế nghiêng đi, thân hình Hải lão công đổ ập lên bàn, lực đạo hết sức lớn, lách cách, lách cách hai tiếng nữa, bàn cũng nghiêng theo, luôn cả người cùng đổ về phía trước.
Tiểu Quế tử kinh hãi, kêu lớn:
- Công công, công công!
Y lập tức nhào tới đỡ Hải lão công dậy, lưng quay về phía Mao Thập Bát và Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo len lén ngồi dậy, giơ chủy thủ lên, đâm phập xuống lưng y. Tiểu Quế tử chỉ hự được một tiếng thì đã chết ngay, còn Hải lão công vẫn dãy dụa dưới đất. Vi Tiểu Bảo lại giơ dao lên nhắm đúng giữa lưng Hải lão công, đang định đâm xuống. Ngay lúc đó, Hải lão công ngẩng đầu lên nói:
- Tiểu... Tiểu Quế tử, thuốc này không đúng rồi.
Vi Tiểu Bảo sợ đến mất cả hồn vía, chủy thủ trong tay nào có dám đâm xuống nữa? Hải lão công xoay người lại vươn tay ra nắm lấy chân Vi Tiểu Bảo nói:
- Tiểu Quế tử, lúc nãy ngươi lấy thuốc không sai đấy chứ?
Vi Tiểu Bảo ậm ừ đáp:
- Không... không sai đâu …
Y thấy chân trái như bị kẹp trong một cái kìm sắt, đau thấu xương, sợ quá khiến tay phải đang cầm dao phải rụt về đến một thước. Hải lão công run run nói:
- Mau... mau đốt đèn cầy lên, để tối thui, sao... sao ta không thấy gì cả.
Vi Tiểu Bảo hết sức ngạc nhiên, hai ngọn nến rõ ràng đang cháy sáng, sao y lại bảo là tối thui? Không lẽ mắt y bị đui rồi sao? Y bèn nói:
- Đèn cầy đã tắt đâu? Công công! Bộ... bộ ông không thấy gì sao?
Y và Tiểu Quế tử tuy cũng đều còn giọng trẻ nít, nhưng Tiểu Quế tử nói theo kiểu kỳ binh quan thoại, y nhất thời đâu đã học được, nên đành giả vờ ậm à ậm ừ, chỉ mong Hải lão công không phát giác.
Hải lão công lại kêu lên:
- Ta... ta có thấy gì đâu, sao lại bảo là đèn cầy chưa tắt? Mau ra đốt lên nào!
Nói rồi buông cổ tay Vi Tiểu Bảo ra. Vi Tiểu Bảo đáp:
- Dạ! Dạ!
Y vội tránh ra, đi đến bên chúc đài treo trên tường, đưa tay lắc chiếc
khoen đồng trên giá nến thành tiếng leng keng nói:
- Châm lên rồi đó!
Hải lão công hốt hoảng:
- Cái gì? Chỉ nói tầm xàm, sao ngươi không đốt lên cho sáng …
Y nói chưa hết câu, thân thể lại quằn quại, ngã ngửa ra. Vi Tiểu Bảo đưa tay ra hiệu cho Mao Thập Bát, giục y chạy cho mau. Mao Thập Bát cũng giơ tay vẫy Vi Tiểu Bảo, muốn y cùng chạy với mình. Vi Tiểu Bảo xoay người chạy ra đến cửa, bỗng nghe Hải lão công rên lên một tiếng:
- Tiểu …Tiểu Quế tử, Tiểu... Tiểu Quế tử... ngươi …
Vi Tiểu Bảo vội đáp:
- Dạ, hài tử ở đây.
Tay trái y xua lia lịa, giục Mao Thập Bát chạy cho nhanh rồi tính sau, mình phải ở lại tìm cách trấn an Hải lão công trước đã. Mao Thập Bát cố gượng đứng lên nhưng huyệt đạo hai chân bị phong rồi, đưa tay tự mình xoa bóp hai chân và ngang lưng, kình lực tuy có đến nhưng không thấy động tĩnh gì, nghĩ thầm: “Hai chân ta không thể nào cử động được, chỉ còn cách bò lết ra thôi. Thằng bé này tinh ma như quỉ, lại là một đứa bé con, người ta không thèm để ý, y có muốn thoát thân cũng không khó, nếu đi chung với ta, lỡ như gặp phải kẻ địch, lại thêm gieo vạ cho y”. Nghĩ thế y bèn đưa tay vẫy Vi Tiểu Bảo, sau đó chống hai tay xuống đất, rón rén bò ra cửa.
---
[1] Lưu đắc thanh sơn tại,
Bất phạ một sài thiêu.