Ngô Chi Vinh lên đến Bắc Kinh, liền viết ngay một tờ trình, cáo giác với bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty ba nơi, nói rõ họ Trang đút lót các nơi thế nào để đổi bản in mới.
Ngờ đâu y ở kinh thành chờ đến hơn một tháng, cả ba nơi đều trước sau trả lời, nói là đã xem kỹ Minh Thư Tập Lược của Trang Đình Long, nội dung không có chỗ nào phạm cấm, những điều tri huyện bị cách chức là Ngô Chi Vinh cáo buộc, không phải chuyện thực, hiển nhiên chỉ vì thù ghét mà vu oan cho người ta, còn như quan lại ăn của đút gì gì đó, đều chỉ là những chuyện vu vơ đặt điều không nói thành có. Tờ phúc đáp của Thông Chính Ty còn gay gắt hơn nói rằng:
“Tên Ngô Chi Vinh vì tham ô mà bị cách chức, cứ tưởng quan lại trên đời này ai ai cũng như y cả.”
Thì ra Trang Duẫn Thành đã được Trình Duy Phiên chỉ bảo nên đã đem bộ Minh Sử mới gửi lên tặng bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty rồi, các quan lại sư gia người nào cũng đều đã được tặng hậu lễ.
Ngô Chi Vinh lại bị thêm một vố đau nữa, thấy dẫu có về quê cũng chẳng xong, chỉ còn có nước lưu lạc ăn nhờ ở đậu nơi đất lạ. Thời đó người Thanh đối với văn nhân người Hán cực kỳ khắc nghiệt, nếu viết gì có chút cấm kỵ là xử tử ngay, Ngô Chi Vinh nếu như tố cáo một kẻ tầm thường thì đã xong rồi, có điều đối thủ lại là một gia đình giàu có, thành ra mới khó khăn đến thế. Có điều đã đến nước cùng không còn đường lui, thôi thì dẫu có ngồi tù thì cũng phải theo đuổi cho đến đầu đến đũa, thành thử viết thêm bốn tờ bẩm thiếp nữa, trình lên bốn vị cố mệnh đại thần, rồi lại ngồi trong khách điếm viết thêm mấy trăm tờ truyền đơn, kể rõ khúc nhôi đem dán khắp thành Bắc Kinh.
Việc đó của y quả là làm liều, nếu như quan phủ truy ra gán cho cái tội ăn càn nói rỡ, ưu loạn nhân tâm thì không tránh khỏi cái tội sát thân.
Bốn viên cố mệnh đại thần đó tên là Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long, Ngao Bái[1] đều là khai quốc công thần của nhà Mãn Thanh. Khi vua Thuận Trị từ trần đã để di chiếu ủy thác cho bốn người này phụ chính. Trong bốn người đó thì Ngao Bái là kẻ bạo ngược nhất, trong triều phe đảng của y cực đông, đại quyền nhà Thanh dường như một tay y nắm hết. Y sợ rằng đảng đối nghịch gây chuyện bất lợi cho mình cho nên sai ra rất nhiều thám tử, trong ngoài kinh thành dò xét động tĩnh.
Hôm đó y được mật báo, nói là trong thành Bắc Kinh xuất hiện vô số truyền đơn, tố giác tên dân họ Trang ở Chiết Giang viết sách mưu phản, đại nghịch bất đạo nhưng quan lại Chiết Giang ăn của đút nên ém nhẹm đi không lý đến.
Ngao Bái nhận được tin đó lập tức tra xét, cũng vừa lúc tờ cáo trạng của Ngô Chi Vinh vào đến phủ, phong ba bão tố nổi lên. Y cho đòi Ngô Chi Vinh vào gặp, hỏi han ngọn ngành đầu đuôi rồi cho bọn thủ hạ người Hán xem kỹ nguyên bản Minh Sử, những lời nói ra quả nhiên là thật.
Ngao Bái vốn do công lao trận mạc mà được phong đến tước Công, làm quan to, trước nay vẫn ghét bỏ người Hán và bọn nho sĩ, bây giờ chấp chưởng đại quyền đang rình rập để lập vài vụ đại án, trấn nhiếp nhân tâm, để người Hán không dám có bụng phản loạn, lại khiến những kẻ đối nghịch trong triều chẳng dám ho he. Y lập tức phái khâm sai xuống Chiết Giang tra cứu.
Chuyện như thế, lẽ dĩ nhiên toàn gia họ Trang bị giải về kinh, mà cả tướng quân Hàng Châu là Tùng Khôi, tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tộ cùng quan viên lớn bé, đều bị cách chức để điều tra. Những danh sĩ được liệt kê trên cuốn Minh Sử, không ai là thoát khỏi cảnh tù đày.
Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi hai người ở trong nhà Lã Lưu Lương kể lại từ đầu chí cuối nguyên do vụ án rồi, Lã Lưu Lương chỉ còn nước thở dài sườn sượt. Đêm hôm đó ba người kê giường cạnh nhau bàn tán, nghị luận chuyện đời, nhắc đến thời Minh mạt bọn thái giám Ngụy Trung Hiền hãm hại trung lương, lũng đoạn triều chính, làm chuyện trái tai gai mắt, đến nỗi Minh thất bị sụp đổ. Trung Quốc rơi vào tay người Mãn Thanh rồi, người Hán càng bị chém giết thảm khốc hơn, tai họa càng sâu không ai không khỏi chau mày nghiến răng.
Sáng sớm hôm sau, toàn gia Lã Lưu Lương và Cố Hoàng hai người xuống thuyền đi về hướng đông. Ở Giang Nam những nhà khá giả đều có sẵn thuyền, đường thủy giăng mắc tứ phía, dày đặc như mạng nhện nên ai ai cũng đi bằng thuyền, thành thử mới có câu “người Bắc đi ngựa, người Nam đi thuyền”, từ xưa đã thế.
Đến Hàng Châu, theo Vận Hà đi thuyền ngược lên mặt bắc. Tối hôm đó ở ngoài thành Hàng Châu nghe ngóng tin tức, Thanh triều nhân vụ án này chém giết rất nhiều quan viên bách tính; Trang Đình Long chết rồi cũng bị quật mồ lên, còn Trang Duẫn Thành ở trong ngục chịu khảo đả không nổi cũng đã từ trần, nhà họ Trang mấy chục người, từ mười lăm tuổi trở lên đều bị xử trảm, vợ con thì bị đày đi Phiên Dương, làm nô tì cho các kỳ binh Mãn Châu. Tiền Lễ Bộ thị lang Lý Lệnh Triết là người đề tựa thì bị lăng trì xử tử, bốn người con bị xử trảm. Đứa con út của Lý Lệnh Triết mới mười sáu tuổi, pháp ty thấy giết nhiều người quá trong dạ cũng xót xa nên bảo y khai thụt đi một tuổi, chiếu theo luật nhà Thanh, từ mười lăm tuổi trở xuống được miễn tội chết mà chỉ phải sung quân. Thiếu niên đó nói:
- Cha tôi anh tôi đều chết cả rồi, tôi cũng chẳng muốn sống một mình.
Y nhất định không đổi lời khai nên cũng bị chém đầu. Tùng Khôi, Chu Xương Tộ bị giam trong ngục chờ thẩm vấn, còn mạc khách Trình Duy Phiên thì bị lăng trì bỏ ngoài chợ. Hai học quan ở Qui An, Ô Trình đều bị chém. Vụ án cứ thế mà lan ra, những người vô tội bị giết không biết bao  nhiêu mà kể. Tri phủ Ho đây.
Cảnh xưa nhìn lại hôm nay,
Hỏi ai ngậm đắng nuốt cay sao đành.
Tranh kia nước mắt vẽ thành,
Lệ ta pha mực đan thanh đôi hàng.
Xem tranh chua xót bẽ bàng,
Ngậm trong bốn chữ há màng thêm văn.
Ước gì Hồng Võ tái sanh,
Mù kia sáng mắt, què lành đôi chân.
Ngọc lại sáng, mây mù tan,
Muôn dân vui sướng ca vang đất trời.”
(Kỳ vi Tống chi nam độ da?
Như thử giang sơn chân khả sỉ.
Kỳ vi Nhai sơn dĩ hậu da?
Như thử giang sơn bất nhẫn thị.[10]
Ngô kim thủy ngộ tác họa ý,
Thống khốc lưu thế hữu nhược thị.
Dĩ kim thị tích tích do kim,
Thôn thanh bất dụng mai hàm chủy.
Họa tương Cao Vũ tây đài lệ.
Nghiên nhập đan thanh đề bút thử.
Sở dĩ hữu họa vô thi văn,
Thi văn tận tại tứ tự lý.
Thường vị sinh phùng Hồng Võ sơ,
Như cổ hốt đồng phả khả lý.
Sơn xuyên khai tế cố bích hoàn,
Hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ?)
Viết xong, Lã Lưu Lương vứt bút xuống đất bùi ngùi rơi lệ. Cố Viêm Võ nói:
- Quả là thống khoái lâm li, tuyệt diệu hảo từ.
Lã Lưu Lương đáp:
- Bài thơ này chẳng có gì hàm súc, không thể coi là hay được, chỉ vẽ lại cái nguyên ý của Nhị Chiêm tiên sinh, để người xem tranh có thể hiểu được đấy thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đến bao giờ nước non tươi sáng trở lại, khi đó “sơn xuyên khai tế cố bích hoàn”, thì dẫu có núi nghèo nước dở thế nào chăng nữa thì mình coi cũng không chán mắt, lúc ấy đúng thật là “hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ”.
Cố Viêm Võ đáp:
- Bài thơ này kết thực hay! Thể nào rồi cũng có ngày mình đuổi được quân Hồ Lỗ, lấy lại sơn hà cho Đại Hán chúng ta thì niềm vui đó hùng tráng gấp bao nhiêu lần cái bi phẫn hôm nay.
Hoàng Tông Hi chậm rãi cuốn bức tranh lại nói:
- Bức tranh này không còn treo được nữa rồi, Vãn Thôn huynh nên cất kỹ đi là hơn. Nếu để những kẻ gian ác như Ngô Chi Vinh trông thấy, rồi quan phải đến tra xét, lẽ dĩ nhiên Vãn Thôn huynh bị làm phiền mà còn liên lụy đến cả Nhị Chiêm tiên sinh.
Cố Viêm Võ vỗ bàn chửi:
- Cái tên cẩu tặc Ngô Chi Vinh, ta thực hận không được ăn sống nuốt tươi nó.
Lã Lưu Lương nói:
- Hại vị hạ cố đến chơi bảo là có việc quan trọng. Bọn thư sinh như mình xưa nay chỉ quen làm thơ đề họa, còn chuyện chính lại chẳng lo, không hiểu có chuyện chi thế?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Hai chúng ta đến hôm nay cũng vì người nhà của Nhị Chiêm tiên sinh là Y Hoàng tiên sinh. Tiểu đệ và Cố huynh hôm trước được tin, hóa ra vụ án Minh Sử có liên can đến cả Y Hoàng tiên sinh nữa.
Lã Lưu Lương kinh hãi hỏi lại:
- Y Hoàng huynh cũng có liên quan ư?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Quả thế. Chiều hôm qua hai chúng ta lật đật đi qua Viên Hoa trấn ở Hải Ninh, Y Hoàng tiên sinh không có nhà, nói là đi thăm bạn rồi. Viêm Võ huynh thấy sự tình cấp bách, dặn người nhà Y Hoàng tiên sinh trốn ngay đi, lại nghĩ Y Hoàng tiên sinh với Vãn Thôn huynh có giao tình rất hậu nên vội đến báo tin.
Lã Lưu Lương lắp bắp:
- Y...  y không đến đây, chẳng biết đi đâu.
Cố Viêm Võ nói:
- Nếu ông ta có mặt trong quí phủ thì hẳn đã ra gặp nhau rồi. Tại hạ cũng có đề một bài thơ trên tường thư phòng của y, nếu đã về nhà thì cũng minh bạch mà tìm đường trốn tránh, chỉ sợ không biết tin nên lộ diện ra bên ngoài, để quan quân bắt được, ấy mới là khốn khổ.
Hoàng Tông Hi nói:
- Vụ án Minh Sử này khiến cho tất cả danh sĩ ở Chiết Giang đều rơi vào độc thủ. Dụng ý của Thanh đình cực kỳ ác độc, tên tuổi của Vãn Thôn huynh lại quá lớn, cứ như ý của Đình Lâm huynh và của tiểu đệ, muốn khuyên Vãn Thôn huynh tạm thời xa nhà đi chơi đâu để tránh khỏi cơn phong ba này.
Lã Lưu Lương hậm hực nói:
- Hoàng đế Thát tử nếu như muốn bắt tại hạ giải về Bắc Kinh, lăng trì xử tử thì cũng phải chửi cho y một trận cho hả dạ, rồi có chết cũng cam lòng.
Cố Viêm Võ nói:
- Hào khí của Vãn Thôn huynh quả là ngất trời khiến cho ai cũng bội phục. Chỉ sợ rằng chưa gặp được hoàng đế Thát tử mà lại chết dưới tay một đứa nô tài hạ tiện. Hơn nữa, hoàng đế Mãn Thanh chỉ là một đứa bé con, chẳng hiểu biết gì, triều chính đại quyền đều ở trong tay đại thần Ngao Bái. Huynh đệ và Lê Châu huynh cũng đã nghĩ, lần này sở dĩ vụ án Minh Sử bọn chúng đánh trống khua chiêng, sấm ran chớp giật, hẳn là Ngao Bái muốn đập cho tan nhuệ khí của sĩ phu Giang Nam chúng ta đấy thôi.
Lã Lưu Lương đáp:
- Sở kiến của hai vị quả là chính đáng. Từ khi Thanh binh nhập quan đến nay, nơi Giang Bắc hoành hành không ai ngăn trở, thế nhưng đến Giang Nam thì nơi nơi đều phản kháng, những kẻ đọc sách chẳng ai là không biết cái khác biệt của Hoa Di nên đều cố tình gây hấn. Ngao Bái nhân cơ hội này nên cố tình trấn áp sĩ phu Giang Nam một chuyến cho bõ ghét.
Ôi!
Lửa đồng tuy dập nhưng nào tắt,
Gió xuân dứt đợt lại trồi lên.[11]
Trừ phi y giết sạch những kẻ đọc sách đất Giang Nam không còn một mống lúc đó mới thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đúng thế! Chính vì vậy mà chúng mình cần giữ lại tấm thân hữu dụng để một mai sống mái với quân Thát tử cho đến nơi đến chốn, chứ nếu chỉ vì cái huyết khí chi dũng nhất thời thì lại rơi vào cái bẫy của bọn chúng.
Lã Lưu Lương lúc ấy mới hiểu ra, Hoàng Cố hai người đội mưa chịu lạnh đến đây, một là đi tìm Tra Y Hoàng, hai là bảo mình lánh đi, e ngại mình nhịn không nổi, bỏ mạng một cách uổng phí, cái lòng của người bạn tốt quả thật cảm kích không biết chừng nào, bèn đáp:
- Những lời khuyên chí tình vàng đá của hai vị, huynh đệ nào dám không tuân theo? Ngay sáng sớm mai, toàn gia huynh đệ sẽ tránh đi một bước.
Hoàng Cố hai người mừng rỡ, cùng nói:
- Thôi thì cứ thế.
Lã Lưu Lương trầm ngâm nói:
- Thế nhưng không biết muốn trốn tránh thì đi đâu mới xong?
Ông chỉ thấy trời đất bao la nhưng chỗ nào cũng là đất của Thát tử, không một chỗ nào có thể bình an. Ông ngâm lên:
“Tìm đâu ra chốn Đào Nguyên?
Để ta tránh được bạo quyền một phen.[12]”
Cố Viêm Võ đáp:
- Trên cõi đời bây giờ lấy đâu ra được chỗ Đào Nguyên? Chúng ta chẳng nên tính chuyện “độc thiện kỳ thân”, trốn lánh lo cho một mình mình...
Lã Lưu Lương không để cho y dứt lời, vỗ bàn đứng dậy lớn tiếng nói:
- Đình Lâm huynh trách cứ như thế phải lắm, quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, tạm thời trốn lánh thì nên thế nhưng nếu lại kiếm một chỗ cây reo suối chảy, tiêu dao tự tại, mặc cho bách tính sinh linh chịu khổ dưới móng ngựa của bọn Thát Đát thì lòng mình sao yên? Huynh đệ quả là lỡ lời.
Cố Viêm Võ mỉm cười đáp:
- Huynh đệ những năm gần đây lang bạt kỳ hồ, kết giao được không ít bằng hữu. Từ nam chí bắc sông Trường Giang mắt thấy tai nghe đã nhiều, không phải chỉ kẻ đọc sách phản đối Thát tử, mà cả dân ngu khu đen, phu phen chợ búa, đâu đâu cũng có kẻ máu nóng dâng tràn, khẳng khái hào hiệp. Vãn Thôn huynh cũng là có ý, ba chúng ta cùng đi Dương Châu để huynh đệ dẫn kiến tôn huynh với vài anh em đồng đạo, liệu có nên chăng?
Lã Lưu Lương mừng rỡ nói:
- Thế thì còn gì bằng! Anh em mình ngày mai đi Dương Châu, hai vị ngồi chơi, huynh đệ vào từ biệt chuyết kinh để bảo tiện nội thu xếp hành lý.
Nói rồi hấp tấp đi vào nội đường. Chẳng bao lâu Lã Lưu Lương trở lại thư phòng hỏi:
- Vụ án Minh Sử tuy bên ngoài người ta bàn tán xôn xao nhưng những tin đồn miệng vị tất đã xác thực, thứ nữa người nói lại cực kỳ dè dặt, không dám nói hết, huynh đệ thui thủi một mình ở đây nên chỗ biết chưa tường tận, không biết nguyên do là thế nào?
Cố Viêm Võ thở dài một tiếng nói:
- Bộ Minh Sử đó, anh em ta cũng đã coi qua rồi, bên trong đối với bọn Thát tử không có gì cung kính, quả là có thật. Sách này vốn dĩ do tướng quốc Đại Minh chúng ta là Chu Quốc Trinh soạn ra, viết về việc ở quan ngoại thì làm gì có chuyện nể nang cho được?
Lã Lưu Lương gật đầu:
- Nghe nói nhà họ Trang ở Hồ Châu tốn mất đến mấy ngàn lạng bạc mới mua được nguyên cảo của con cháu nhà Chu tướng quốc, lấy tên mình in ra, có ngờ đâu gây ra đại họa thế này.
°
Ở phía tây Chiết Giang là ba phủ Hàng Châu, Gia Châu, Hồ Châu nằm bên bờ Thái Hồ, địa thế bằng phẳng, đất đai màu mỡ, sản xuất nhiều thóc gạo tơ tằm. Huyện đứng đầu ở Hồ Châu là Ngô Hưng, đời Thanh chia làm hai huyện Ô Trình, Qui An. Nơi đó vốn là chốn văn chương chữ nghĩa, xưa nay lắm danh sĩ xuất thân, đời nhà Lương có Thẩm Ước chia tiếng Trung Quốc ra làm bốn thanh bình thượng khứ nhập, đời Nguyên thì có Triệu Mạnh Phủ cả thư lẫn họa đều đứng đầu, hai người đều từ Hồ Châu mà ra. Đương địa lại sản xuất bút nổi tiếng, bút Hồ Châu, mực Huy Châu, giấy Tuyên Thành, nghiên Đoan Khê Triệu Khánh là những món thiên hạ trì danh trong văn phòng tứ bảo.[13]
Phủ Hồ Châu có trấn Nam Tầm, tuy tiếng chỉ là một trấn nhưng so với những châu huyện tầm thường còn lớn hơn nhiều. Trong trấn phú hộ rất đông, trong đó có một gia tộc nổi tiếng họ Trang. Khi đó nhà phú hộ họ Trang tên là Trang Duẫn Thành, sinh được mấy người con, trưởng tử tên là Đình Long, thích đọc thi thư từ nhỏ, kết giao rất đông đảo danh sĩ Giang Nam. Đến đời Thuận Trị, Trang Đình Long vì đọc sách quá nhiều nên đột nhiên bị lòa, đã tìm đủ loại danh y nhưng không sao chữa khỏi, trong lòng uất ức không vui.
Một hôm kia, có một thanh niên họ Chu ở gần bên đem tới một bộ thủ cảo[14], nói là di cảo của tổ phụ Chu tướng quốc muốn dùng làm vật thế chân để mượn vài trăm lượng bạc. Họ Trang xưa nay vốn khẳng khái, vẫn thường giúp đỡ con cháu Chu tướng quốc, nay đến mượn tiền cũng không cần y phải lấy vật gì cầm cố. Thế nhưng thanh niên họ Chu kia nói rằng sau khi mượn tiền rồi sẽ đi xa, nếu bộ di cảo này đem theo trong người e rằng thất lạc, còn để ở nhà thì lại không yên tâm nên muốn giữ tại nhà họ Trang. Trang Duẫn Thành nghe thế mới bằng lòng. Sau khi gã họ Chu đi khỏi, Trang Duẫn Thành muốn con đỡ buồn mới sai những người có chút chữ nghĩa trong nhà đọc sách đó cho con nghe.
Bộ Minh Sử Cảo của Chu Quốc Trinh phần lớn đã in ra thành sách lưu truyền nhân thế. Thế nhưng lần này người cháu ông ta đem đến nhà họ Trang để cầm là nhiều thiên liệt truyện viết sau cùng. Trang Đình Long nghe đọc mấy hôm cảm thấy hứng thú đột nhiên nghĩ ra: “Xưa kia Tả Khâu Minh cũng lòa đôi mắt, vậy mà chỉ viết một bộ Tả Truyện nên tiếng để muôn đời. Ta hiện nay mắt cũng mù, nhàn cư không có việc gì làm, sao không viết một bộ sử để lưu truyền hậu thế?”.
Con nhà đại phú làm chuyện gì cũng dễ dàng. Y có hứng làm chuyện đó lập tức mời ngay mấy người học thức đến đem bộ Minh Sử Cảo đó từ đầu đến cuối đọc cho y nghe một lượt, thấy chỗ nào cần thêm vào, chỗ nào cần bỏ bớt liền nói ra để cho tân khách chép lại.
Thế nhưng nghĩ bụng mắt mình đã lòa rồi không còn thể nào đọc hết các sách vở được nữa, bộ Minh Sử này soạn ra nếu còn nhiều chỗ sai lầm thì đã chẳng được tiếng tăm gì mà lại làm trò cười cho thiên hạ thành thử y không ngại bỏ tiền bạc mời những danh sĩ hồng nho, hết sức sửa sang để sao tận thiện tận mỹ mới vừa lòng. Nếu có những bậc đại học vấn tiền tài không thể mua chuộc được, Trang Đình Long lại khẩn khoản nhờ người khác, dùng lời lẽ nhún nhường mời mọc. Đất Thái Hồ vốn dĩ nhiều danh sĩ, được Trang gia mời đến, phần vì thương y mù lòa cảm kích tấm lòng thành, hai nữa việc giúp một tay tu bổ Minh Sử cũng là một việc tốt nên hầu hết đều đến nhà họ Trang làm khách dăm bữa nửa tháng, hoặc giú việc sửa lại những sai lầm, hoặc thêm bớt cho thêm văn vẻ, hoặc chép giùm một vài chương. Thành thử bộ Minh Sử đó quả là tập trung được nhiều đại thủ bút. Cuốn sách làm xong chưa bao lâu thì Trang Đình Long tạ thế.
Trang Duẫn Thành thương xót đứa con bạc mệnh nên lập tức lo việc in ra. Đời Thanh muốn in một quyển sách quả không phải dễ mà phải gọi thợ khắc thành mộc bản, lúc ấy mới in thành sách được. Bộ Minh Sử đó rất dày, tiền công khắc bản gỗ và in ấn rất tốn kém. Thế nhưng nhà họ Trang lắm bạc nhiều tiền, lập tức dọn ngay mấy căn phòng lớn làm xưởng việc, gọi thêm thợ chỉ mấy năm sau sách đã in xong. Cuốn sách đó có nhan đề là Minh Thư Tập Lược, người soạn là Trang Đình Long, lại mời danh sĩ Lý Lệnh Triết đề tựa. Tất cả những người đã từng giúp đỡ hoàn thành cuốn sách đều được in ở đầu, nào là Mao Nguyên Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung, Lý Nhưng Đào, Mao Thứ Lai, Ngô Sở, Đường Nguyên Lâu, Nghiêm Vân Khởi, Tưởng Lân Trưng, Vi Kim Hựu, Vi Nhất Viên, Trương Tuấn, Đổng Nhị Dậu, Ngô Viêm, Phan Sanh Chương, Lục Kỳ, Tra Kế Tá, Phạm Tương...  tổng cộng cả thảy mười tám danh sĩ.
Trong sách cũng ghi là bộ này căn cứ thêm bớt vào bản nháp của Chu thị mà thành, có điều Chu Quốc Trinh là tướng quốc nhà Minh, danh tiếng quá lớn nên không tiện để thẳng tên nên chỉ nói lập lờ là “Chu thị nguyên cảo”.
Minh Thư Tập Lược qua biết bao nhiêu tay danh sĩ học giả sử đổi chọn lựa nên quả cực kỳ đầy đủ, nói đâu ra đấy, văn chương lại chau chuốt thanh nhã, in ra rồi rất được người trong sĩ lâm tán thưởng. Trang gia lại cốt để được tiếng tăm nên giá bán thật hạ. Trong nguyên cảo mỗi khi nhắc đến người Mãn Châu, vốn dĩ không thiếu gì những đoạn chê bai, nhưng người tu đính đều đem bỏ đi hết nhưng những đoạn tán dương triều Minh không thể không có. Lúc đó nhà Minh mất chưa lâu, người đọc sách dạ hoài cố quốc nên sách in ra ai nấy đều mát lòng mát dạ, tên tuổi của Trang Đình Long nổi như cồn khắp Giang Nam, Giang Bắc. Trang Duẫn Thành tuy đau lòng nhưng thấy con người tuy mất nhưng danh vẫn còn, cũng thấy an ủi cho tuổi già.
Thế nhưng vào thời loạn, tiểu nhân đắc chí khiến người quân tử gặp tai ương. Tri huyện Qui An ở Hồ Châu tên là Ngô Chi Vinh, làm quan tham lam chẳng kể gì đến phép nước, trăm họ hận y tận xương tủy, khiến cho có người tố cáo nên bị triều đình cách chức. Ngô Chi Vinh làm tri huyện Qui An tuy bòn rút được đến trên vạn lạng bạc nhưng khi lệnh cách chức xuống rồi, y chạy đôn chạy đáo khắp nơi để khỏi bị tù tội nên bao nhiêu tiền bạc tích cóp được đều hết nhẵn, đến cả gia nhân cũng bỏ đi đâu không biết. Y quan chức lẫn tiền bạc đều chẳng còn, chỉ còn cách đến các nhà có máu mặt tả oán, than rằng làm quan thanh bạch, nay bị về vườn, chẳng còn đồng xu dính túi để ăn đường nên không thể nào qui cố hương được.
Những phú hộ đó chẳng muốn rầy rà, nên ai cũng cho y ít nhiều, kẻ mười lạng người tám lượng. Khi y đến nhà họ Chu, chủ nhân Chu Hựu Minh vốn là người chính nhân quân tử, ghét kẻ ác như kẻ thù, đã chẳng cho đồng nào thì chớ lại mắng cho một trận, bảo là các hạ làm quan, bách tính trăm điều khổ sở, họ Chu này dù có tiền thì cũng đem đi giúp cho những người bị các hạ hút máu hút mủ còn hơn. Ngô Chi Vinh tuy giận lắm nhưng cũng chẳng làm gì được, y bị cách chức rồi, quyền không mà thế cũng không, đâu có dám cà khịa với một phú gia bát ăn bát để? Sau đó y bèn nuốt hận đi sang bái phỏng Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành bình thời chỉ kết giao với thanh lưu danh sĩ, vẫn chẳng coi bọn quan lại vào đâu, thấy y đến mè nheo, cười nhạt một tiếng, thí cho y một lượng bạc nói:
- Cái thứ người như các hạ, đúng ra một lượng cũng chẳng đáng cho, có điều nhân dân Hồ Châu chỉ mong các hạ đi sớm ngày nào khuất mắt ngày ấy, cho một lượng để cút sớm một khắc, cũng là điều hay.
Ngô Chi Vinh trong bụng tức lắm, liếc qua thấy trên bàn có để một bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Tên họ Trang này tính thích phỉnh phờ, người ta chỉ cần khen bộ Minh Thư Tập Lược này vài câu là lập tức đem tiền dâng ngay, không hề ngần ngại”. Y bèn cười cầu tài nói:
- Trang công hậu tứ, không nhận thì không cung kính. Huynh đệ hôm nay từ biệt Hồ Châu, điều đáng tiếc nhất là không mang được một bộ Hồ Châu chi bảo về quê để cho những kẻ cô lậu quả văn nơi tệ hương được mở mắt.
Trang Duẫn Thành hỏi lại:
- Cái gì mà gọi là Hồ Châu chi bảo?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Trang công quả là khiêm tốn quá! Trong chốn sĩ lâm, ai ai cũng đều tấm tắc, lệnh lang Đình Long công tử thân bút soạn ra bộ Minh Thư Tập Lược, sử tài, sử thức, sử bút cả ba điều tự cổ đến nay hiếm ai hơn được, Tả Mã Ban Trang, đó là cổ kim lương sử tứ đại gia. Hồ Châu chi bảo chính là bộ Minh Sử do lệnh lang thân bút soạn ra chứ còn gì nữa.
Ngô Chi Vinh nhắc đi nhắc lại “do chính lệnh lạng soạn ra”khiến Trang Duẫn Thành nghe mà như nở hoa trong bụng. Ông biết rõ bộ sử này nào có phải do chính con mình “thân bút”đâu, trong lòng không khỏi áy náy nhưng Ngô Chi Vinh nói thế quả là gãi đúng chỗ ngứa, nghĩ thầm: “Ai ai cũng bảo gã này tham lam, là một tên tiểu nhân hèn hạ, hóa ra y cũng là người đọc sách có chút kiến thức. Thì ra bên ngoài người ta bảo tập sách của Long nhi là Hồ Châu chi bảo, bây giờ ta mới nghe lần đầu”.
Trang công mặt mày tươi rói nói:
- Vinh công nói gì mà Tả Mã Ban Trang, cổ kim tứ đại lương sử, huynh đệ có điều chưa rõ, mong được chỉ giáo.
Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành dịu hẳn lại, biết rằng cá đã cắn câu, trong bụng mừng thầm, liền đáp:
- Trang công chẳng nên quá khiêm tốn. Tả Khâu Minh soạn Tả Truyện, Tư Mã Thiên soạn Sử Ký, Ban Cố soạn Hán Thư đều là những danh tác truyền từ nghìn xưa, thế nhưng sau Ban Cố, đại sử gia chẳng còn ai nữa. Âu Dương Tu soạn Ngũ Đại Sử, Tư Mã Quang soạn Tư Trị Thông Giám, văn chương tuy xuất sắc nhưng tài ba, kiến thức có phần chưa đủ.
Mãi đến thời thịnh thế nhà Đại Thanh ta, lệnh lang thân bút soạn ra một bộ Minh Thư Tập Lược bừng bừng như thế mới có được người cùng Tả Khâu Minh, Tư Mã Thiên, Ban Cố ba vị tiền bối tịnh giá tề khu, thành thử người đời mới có câu “Tứ Đại Lương Sử, Tả Mã Ban Trang”.
Trang Duẫn Thành cười híp cả mắt, hai tay xoắn tít lại luôn mồm:
- Nói quá thôi! Nói quá thôi! Cái câu Hồ Châu chi bảo quả là không dám nhận.
Ngô Chi Vinh nghiêm mặt nói:
- Cái gì mà không dám nhận? Bên ngoài ai ai cũng nói: “Trong Hồ Châu tam bảo sử, lụa và bút thì Trang sử đứng đầu.”
Tơ tằm và bút lông của Hồ Châu là hai đặc sản nổi danh, Ngô Chi Vinh tuy phẩm hạnh bết bát nhưng được cái nhanh mồm nhanh miệng, xuất khẩu thành chương, ghép ngay Trang sử chung với Hồ ti, Hồ bút; Trang Duẫn Thành nghe thế hết sức vừa lòng.
Ngô Chi Vinh lại tiếp:
- Huynh đệ đến quí xứ làm quan, hai bàn tay trắng chẳng tơ hào gì. Hôm nay đành muối mặt đến xin Trang công một bộ Minh Sử để đem về làm bảo vật truyền gia, sau này con cháu nhà họ Ngô ngày đêm dùi mài, may ra tài nghệ kiến thức tiến triển, làm rạng rỡ cho tổ tiên, âu cũng là nhờ hậu tứ của Trang công.
Trang Duẫn Thành cười đáp:
- Thế thì xin phụng tặng.
Ngô Chi Vinh lại đẩy đưa thêm vài câu nữa, không thấy Trang Duẫn Thành tỏ ý gì khác, lại đem bộ Minh Sử ra ca ngợi một hồi. Thực ra bộ sách đó y chưa đọc đến một trang, nên chỉ nói lòng vòng nào là sử tài cao siêu hiếm có, sử thức phong phú, trác tuyệt. Trang Duẫn Thành nói:
- Vinh công xin ngồi nán lại một chút.
Nói xong đi vào hậu đường. Qua một lúc sau, một gia đinh bưng một cái bọc ra, để lên bàn. Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành chưa xuất hiện, vội vàng cầm cái bao lên nhắc nhắc thử, bao đó tuy to nhưng nhẹ hều, hiển nhiên bên trong chẳng có tiền bạc gì, trong lòng hết sức thất vọng. Một hồi sau, Trang Duẫn Thành trở lại đại sảnh, bưng cái bọc lên, cười nói:
- Vinh công coi trọng thổ sản của chúng tôi quá vậy xin kính tặng.
Ngô Chi Vinh tạ ơn, cáo từ đi ra, chưa đến khách điếm đã cho tay vào mò thử, quả nhiên là một bộ sách, một cuộn tơ tằm và vài mươi cây bút. Y mất bao nhiêu công lao miệng lưỡi, vẫn tưởng Trang Duẫn Thành ngoài bộ Minh Sử ra, thể nào cũng tặng thêm cho vài trăm lượng bạc, ngờ đâu món quà chỉ đúng có “Hồ Châu tam bảo”mà y thuận miệng bịa ra, bèn chửi thầm: “Con mẹ nó, cái bọn tài chủ ở Nam Tầm này đều tính khí nhỏ nhen. Âu cũng là tại mình nói sai, chứ nếu như nói Hồ Châu tam bảo là vàng bạc và Minh Sử thì có phải đã khá rồi không?’.
Y hậm hực quay về khách điếm, cầm chiếc bao vứt toẹt lên bàn, rồi lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy thì trời đã tối, giờ ăn của quán cũng qua rồi, y cũng không buồn gọi mang cơm lên, vừa buồn bực vừa đói lòng càng thêm day dứt nên không sao ngủ được, khi ấy mới cởi chiếc bao, lật bộ Minh Thư Tập Lược ra xem. Vừa xem được vài trang bỗng thấy ánh vàng lấp lánh, hóa ra có một lá vàng. Tim Ngô Chi Vinh đập thình thình, vội vàng đưa lên xem kỹ, chẳng phải vàng y thì là gì? Y vội vàng cầm lên giũ giũ, trong sách rơi ra đủ mười lá vàng, mỗi lá ít nhất cũng phải năm tiền, mười trương vàng lá ấy là năm lượng hoàng kim. Thời đó vàng quí, năm lượng vàng tính ra bằng bốn trăm lượng bạc.
Ngô Chi Vinh mừng không đâu kể xiết, nghĩ thầm: “Lão họ Trang quả là giảo quyệt, y sợ mình xin bộ sách này rồi về quăng đi, không thèm mở ra, thành ra mới cài vàng lá vào trong sách, để nếu ai chịu đọc sách của con y thì người ấy có phúc nhặt được tiền. Đúng rồi, ta phải đọc vài trang học thuộc vài đoạn, sáng mai đến nhà y tạ y tặng vàng, tiện thể sẽ ca tụng văn chương thêm một chập nữa. Y sung sướng không chừng lại cho thêm vài lạng vàng nữa”.
Y bèn khêu đèn cho sáng, mở sách ra đọc, đọc đến đời Vạn Lịch năm thứ bốn mươi bốn, Thái Tổ nhà Hậu Kim Nỗ Nhi Cáp Xích tức vị, quốc hiệu là Kim, niên hiệu Thiên Mệnh, đột nhiên hơi giật mình: “Năm Bính Thìn Vua Thái Tổ lên ngôi, từ năm đó trở đi, không còn dùng niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh nữa, phải dùng Thiên Mệnh nguyên niên mới phải”.
Y tiếp tục đọc xuống dưới thấy năm Đinh Mão Kim Thái Tông tức vị rồi, trong sách vẫn để năm thứ bảy Thiên Khải đời Minh chứ không đề Đại Kim Thiên Thống nguyên niên. Từ năm Bính Tí trở đi nhà Hậu Kim đổi quốc hiệu là Thanh, cải niên Sùng Đức, vậy mà trong sách vẫn đề Sùng Trinh năm thứ chín chứ không chép là Đại Thanh Sùng Đức nguyên niên, năm Giáp Thân trong sách viết năm Sùng Trinh thứ mười bảy chứ không viết Đại Thanh Thuận Trị nguyên niên. Đến sau khi Thanh binh nhập quan rồi, năm Ất Dậu sách vẫn chép Long Võ nguyên niên, năm Đinh Hợi thì chép Vĩnh Lịch nguyên niên mà hai niên hiệu Long Võ, Vĩnh Lịch chẳng qua chỉ là của Đường Vương, Quế Vương, người viết sách rõ ràng tôn lên như những vị vua chính thống của Minh triều, chẳng coi Thanh triều vào đâu. Y đọc đến chỗ này, nhịn không nổi vỗ bàn kêu lên:
- Phản tặc! Phản tặc! Rõ rành rành ra đây rồi!
Y vỗ mạnh quá chiếc bàn rung rinh khiến ngọn đèn lật nghiêng, dầu sóng ra dính đầy bàn tay y. Trong đêm tối y chợt nghĩ ra, hết sức mừng rỡ như điên cuồng: “Cái này chẳng phải là ông trời cho mình một món hoạnh tài hay sao? Thăng quan phát tài cũng ở đây mà ra cả”.
Y nghĩ thế trong lòng sướng quá bất giác kêu ầm lên. Bỗng nghe điếm tiểu nhị gõ cửa hỏi vọng vào:
- Khách quan! Khách quan! Có chuyện gì thế?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Không có gì cả.
Y đốt đèn dầu lên, đọc lại một lần nữa. Tối hôm đó y đọc suốt tới khi gà gáy mới để nguyên quần áo lên giường nằm nhưng vì mới tìm thêm ra đến bảy tám chục chỗ văn tự cấm kỵ thành thử trong giấc mơ cũng vẫn thỉnh thoảng cười sằng sặc.
Mỗi khi thay đổi một triều đại, niên hiệu của tân triều cực kỳ quan trọng rất dễ phạm cấm vì ngôn ngữ văn tự dễ khiến cho người ta nhớ lại cựu trào. Minh Thư Tập Lược chép chuyện đời Minh, dùng niên hiệu nhà Minh đúng ra không có gì sai quấy nhưng trong khi việc nghiêm cấm còn gay gắt thì chỉ sơ xẩy một chút cũng mang họa vào thân. Những người tham gia tu sử, đại đa số chỉ giúp vài quyển, chẳng ai đọc hết từ đầu chí cuối, lại thêm những ai giúp việc sửa đổi mấy quyển cuối là những người hận Thanh triều thấu xương, có ai chịu dùng niên hiệu Đại Thanh. Trang Đình Long là con nhà giàu có, hai mắt lại lòa không khỏi sơ xuất khiến cho kẻ tiểu nhân có dịp nước đục thả câu.
Trưa hôm sau, Ngô Chi Vinh lập tức xuống thuyền đi về hướng đông đến Hàng Châu, ở trong khách điếm viết một lá thư cáo giác, kèm luôn bộ Minh Sử đưa vào trong phủ Tùng Khôi tướng quân. Y chắc mẩm Tùng Khôi khi nhận được lá thư rồi thể nào cũng gọi y vào gặp mặt. Khi đó người Mãn Châu tra xét những âm mưu phản nghịch rất nghiêm nhặt, ban thưởng rất hậu, y lập được công to như thế này, được phục chức làm quan thể nào cũng chắc, có khi còn thăng lên mấy cấp nữa.
Ngờ đâu y ở tại khách điếm chờ đợi mỏi mòn, luôn đến hơn nửa năm, ngày ngày đến cửa phủ tướng quân nghe ngóng hỏi han nhưng chỉ như ném hòn đá xuống biển, chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Về sau y bị những kẻ canh cửa trách mắng đuổi đi không cho y đến mè nheo nữa.
Ngô Chi Vinh trong lòng bồn chồn, mấy lá vàng Trang Duẫn Thành tặng cho đã đổi ra bạc tiêu sạch rồi mà việc cáo giác chưa đi đến đâu cả, vừa buồn bực, lại vừa kinh ngạc.
Hôm đó y lang thang trong thành Hàng Châu đi ngang qua nhà sách Văn Thông Đường mới đi vào định coi ké cho qua ngày giờ, thấy trên giá sách có bày ba bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Không lẽ những chỗ mình tìm thấy không đủ để làm tội Trang Duẫn Thành hay sao? Phải tìm thêm vài chỗ đại nghịch bất đạo khác, sáng mai viết thêm một bản cáo trạng trình lên phủ tướng quân lần nữa”. Tuần phủ Chiết Giang là người Hán, còn tướng quân là người Mãn Châu, y sợ tuần phủ không muốn gây ra vụ đại án văn tự ngục này nên định bụng sẽ cáo giác với tướng quân người Mãn.
Y lật một bộ ra xem, mới coi vài trang đã hết hồn hết vía, chẳng khác gì rơi tọt vào một hầm nước đá, hoang mang vô định, không còn biết đâu vào đâu, bao nhiêu chỗ cấm kỵ trong sách tuyệt nhiên biến mất không thấy tăm hơi, từ khi Thái Tổ nhà Đại Thanh khai quốc trở về sau đều biến thành niên hiệu của Mãn Châu cả, đến cả việc Vệ đô đốc đánh vào Kiến Châu (thân thích của tổ tông nhà Mãn Thanh), cùng các nơi chép về Long Võ, Vĩnh Lịch cũng chẳng còn gì nữa. Thế nhưng văn chương từ trước tới sau đều liền lạc, những tranh sách đều mới tinh không thấy dấu vết gì tẩy xóa, không hiểu sao lại biến hóa ra thế này thực là hết sức quái lạ.
Y tay cầm bộ sử đứng trong hiệu sách ngơ ngẩn như trời trồng, qua một hồi sau mới buột miệng kêu lên:
- Đúng rồi!
Y thấy bộ sách này ngoài bìa cũng như giấy bên trong đều mới tinh mới quay qua chủ tiệm hỏi kỹ thì ra nhà buôn từ Hồ Châu mới giao lại chỉ độ bảy tám ngày gần đây. Y nghĩ bụng: “Tên Trang Duẫn Thành kia ghê gớm thật! Quả đúng là “có tiền mua tiên cũng được”, y thu hồi sách cũ, in lại bản mới làm như sách vừa in xong, còn bao nhiêu sách cũ những đoạn cấm kỵ xé bỏ cả rồi. Ôi, không lẽ mình đành bỏ cuộc hay sao?”.
Những gì Ngô Chi Vinh suy nghĩ quả đúng như thế. Thì ra Tùng Khôi tướng quân của Hàng Châu không biết chữ Hán, người sư gia trong phủ đọc được bản cáo giác của Ngô Chi Vinh ai nấy toát mồ hôi lạnh, biết rằng chuyện này liên qua cực kỳ lớn lao, cầm lá thư mà hai tay run bần bật.
Người đề lại đó họ Trình, tên Duy Phiên, là người Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Thời hai triều Minh Thanh, đề lại trong các phủ huyện mười người đến chín là người Thiệu Hưng, thành thử hai chữ “sư gia”bao giời cũng thêm “Thiệu Hưng”để thành “Thiệu Hưng sư gia”. Người đề lại đó học được kinh nghiệm của những người đi trước, thành thử làm việc đâu ra đấy cực kỳ chín chắn. Trong phủ quan mỗi khi có công văn đều do sư gia xem trước, đa số là văn thư từ các cấp hạ liêu đồng hương trình lên để khỏi có điều trách móc chê bai. Thành ra quan chức lớn nhỏ mới đáo nhiệm sở, cần nhất là phải bỏ tiền mua chuộc những vị đề lại Thiệu Hưng. Hai triều Minh Thanh tuy đất Thiệu Hưng không mấy người làm quan lớn thế nhưng lại thao túng bút mực hành chánh suốt cả trăm năm, là một kỳ tích trong lịch sử chính trị Trung Quốc.
Gã Trình Duy Phiên bụng dạ trung hậu, tin tưởng vào điều “một đời làm lại gia hại ba đời”, đã mang thân vào chốn công môn thì nên khéo đường tu. Cũng phải nói thao túng sinh sát bách tích tuy trong tay quan lại thật, nhưng đề lại chỉ thêm bớt vài chữ là có thể làm cho người ta tan cửa nát nhà, còn như khai đường mở lối một câu, cũng có thể là chết đi sống lại, thành thử nếu ở cửa quan cứu người còn to lớn gấp mấy lần nương thân thiền môn tụng kinh gõ mõ. Y thấy vụ án Minh Sử này có thể gây nên đại họa, không biết vùng Tô Chiết bao nhiêu người táng mạng phá gia, nên vội vàng xin tướng quân cho nghỉ vài ngày, lập tức ngày đêm đi thuyền đến trấn Nam Tầm Hồ Châu đem chuyện này cáo tri Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành thấy đại họa đổ ập xuống đầu mình, kinh hãi đến mất hồn mất vía, miệng há hốc, nước dãi chảy lòng thòng, không còn biết tính làm sao, một hồi lâu mới vội vàng đứng lên quì gập xuống lạy tạ đại ân của Trình Duy Phiên rồi vấn kế y xem phải làm gì.
Trình Duy Phiên trên đường đi từ Hàng Châu đến Nam Tầm đã suy đi tính lại, tìm ra được một cách thật hay, nghĩ thầm bộ Minh Thư Tập Lược này lưu truyền đã lâu, có dấu cũng không được, chi bằng thi hành kế “phủ để trừu tân”, một mặt sai người đi khắp các tiệm sách, thu hồi tất cả các bộ Minh Sử về tiêu hủy, một mặt thuê công nhân ngày đêm in lại bản mới, bỏ hết những chỗ húy kỵ rồi đem ra lưu hành. Nếu như quan phủ có truy cứu, tra xét bản mới thấy những lời cáo giác của Ngô Chi Vinh không đúng sự thực, thế là thoát được một mối họa bất ngờ.
Y bèn nói kế đó cho Trang Duẫn Thành nghe khiến ông lão vừa mừng vừa sợ, liên tiếp rập đầu tạ ơn. Trình Duy Phiên lại chỉ hết mọi đường đi nước bước, nơi nào chỗ nào cần đút lót bao nhiêu, cửa nào quan nào cần đấm mõm, Trang Duẫn Thành vâng vâng dạ dạ nghe theo cả.
Trình Duy Phiên quay trở về Hàng Châu, chờ đến hơn nửa tháng rồi mới đem lá thư của Ngô Chi Vinh và bộ sách trình lên cho tuần phủ Chiết Giang là Chu Xương Tộ, viết thêm vài hàng vào công văn, nói là người cáo buộc ấm ức vì chuyện bị mất chức tri huyện, xin xỏ không cho để bụng thù hằn, vậy xin phủ đài tra xét minh bạch.
Trong khi Ngô Chi Vinh mòn con mắt ở khách điếm đợi chờ thì tiền bạc Trang Duẫn Thành đổ ra như nước mua chuộc khắp nơi. Hậu lễ của họ Trang đã rải khắp cửa tướng quân, cửa tuần phủ, cửa học chính rồi, nên Chu Xương Tộ nhận được văn thư, cho rằng loại sách vở như thế này là chuyện của học chính ti cai quản, lại dìm đó thêm mươi ngày nữa mới gửi sang bên ti học chính. Đề lại bên học chính ngô môn lại bỏ xó thêm nửa tháng nữa, rồi cáo ốm nghỉ ở nhà một tháng, sau đó mới viết nhì nhằng gửi cho phủ Hồ Châu. Quan phủ Hồ Châu lại ngâm tôm thêm hai mươi ngày mới gửi sang học quan huyện Qui An và Ô Trình, yêu cầu hai người xem xét. Hai viên học quan này vốn đã được Trang Duẫn Thành dấm dúi cho một món tiền to, khi đó bản mới đã in ra xong, hai người liền đem bộ đó trình lên rằng:
“Bộ sách này tầm thường sơ sài, chẳng có gì là xách động được nhân tâm, đã xem xét thật kỹ từ đầu chí cuối, không thấy chỗ nào phạm cấm cả.”
Nơi nào trình lên cũng đều thế cả, chuyện kể như xong.
Ngô Chi Vinh phát hiện bản Minh Sử mới trong thư quán, nghĩ thầm chỉ có cách nào kiếm ra được một bộ nguyên bản thì mới xin tái thẩm được thôi. Những bộ Minh Sử bản cũ ở tất cả các nhà sách tại Hàng Châu Trang Duẫn Thành đều đã mua lại hết rồi nên y vội vàng sang miền đông huyện Tích Châu lùng sục thế nhưng cũng không tìm đâu ra. Y hết sức thất vọng đành phải bỏ cuộc về quê. Thế nhưng việc cũng lạ đời, trên đường đi tại một khách điếm trông thấy chủ quán đang đọc sách, vừa đọc vừa lắc đầu, nhìn kỹ lại hóa ra y đang đọc bộ Minh Thư Tập Lược. Y mượn coi qua, té ra đó là nguyên bản. Y mừng không đâu cho xiết, nghĩ bụng nếu như đòi mua lại chắc gì y đã chịu bán, huống nữa trong túi lại hết tiền lấy gì mà mua, chi bằng ăn cắp cho xong.
Đến đêm khuya y len lén trở dậy, trộm được bộ sách liền trốn đi ngay, thấy tỉnh Chiết Giang chỗ nào quan lại cũng bị Trang Duẫn Thành mua chuộc hết rồi, thôi thì đâm lao phải theo lao, đành lên tận Bắc Kinh cáo giác.
---
[1] Người là dao thớt, ta là cá thịt
[2] Người là vạc đỉnh, ta là hươu nai
[3] Nhà Tần mất con hươu (cũng có nghĩa là mất lộc phúc), thiên hạ hè nhau đuổi nó.
[4] Đuổi hươu Trung Nguyên
[5] Thần biết rằng tội khinh nhờn đại vương quả là đáng giết, xin được bỏ vào vạc mà đun.
[6] Hỏi đỉnh Trung Nguyên
[7] Sở Tử (lúc ấy là Sở Trang Vương): Tử là một trong năm tước. Thật ra thì khi ấy Sở đã tự xưng vương (tức ngang hàng với nhà Chu) từ lâu.
[8] Hai câu này trên lấy chữ Thanh, dưới lấy chữ Minh đứng đầu ý nói hoài vọng nhà Minh, bất phục nhà Thanh.
[9] Giang sơn hoa gấm
[10] Bốn câu này nói về cuối đời Tống, Trung Hoa rơi vào tay người Mông Cổ, vua nhà Tống phải nhảy xuống biển tự tận ở Quảng Châu (Xem thêm Vó Ngựa và cánh cung, Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)
[11] Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh.
[12] Đào Nguyên hà xứ, khả tị bạo Tần?
[13] Xem thêm Bút Nghiên, Thư Họa của Nguyễn Duy Chính
[14] Sách viết nháp, chưa in

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
Hồi 2 (a)
TUYỆT THẾ KỲ SỰ TRUYỀN VĂN LÝ
TỐI HẢO GIAO TÌNH KIẾN DIỆN SƠ

Thành Dương Châu từ xưa vẫn là nơi phồn hoa thắng địa, Đỗ Mục đời Đường đã từng hạ bút:
Dương Châu cõi mộng mười năm tỉnh,
Được tiếng lầu xanh kẻ lõi đời.[1]
Cổ nhân cũng nói rằng trên đời không gì thích hơn:
Tiền quan mười vạn quấn quanh,
Thảnh thơi cưỡi hạc ghé thành Dương Châu.[2]
Từ khi Tùy Dương Đế đào Vận Hà, Dương Châu nằm ngay khúc giữa giòng sông đào, đường qua Giang Tô, Chiết Giang đều phải đi ngang. Đến đời Minh Thanh lại là nơi những người buôn muối tụ tập sinh sống thành ra một trong những nơi giàu có nhất thiên hạ.
Năm đầu đời Khang Hy nhà Thanh, ở con đường hẹp phường Minh Ngọc đất Dương Châu nơi cạnh Tây Hồ là chốn thanh lâu, nơi tụ hội của nhiều danh kỹ. Hôm đó chính vào một buổi chiều xuân, hoa đăng vừa mới thắp, từ các kỹ viện truyền ra tiếng trúc tiếng tơ dìu dặt, cười nói vang rân, xen tiếng đoán tửu lệnh, chuốc rượu hát hò, quả thực là một cảnh thái bình, xứ xứ hoan ca.
Bỗng dưng từ nam chí bắc có đến năm sáu chục người la hét:
- Tất cả các bằng hữu làm ăn ở các viện, các cô nương, các vị khách làng chơi, mọi người nghe đây: Bọn ta đến kiếm một người, chẳng liên can đến ai khác, chớ một ai được la lối vọng động. Người nào không nghe thì đừng trách tụi này không nể mặt.
Sau những tiếng huyên náo, phường Minh Ngọc yên ắng được một lát bỗng các viện lại có tiếng người kêu la ầm ỹ, tiếng đàn bà gào thét, tiếng đàn ông quát tháo loạn cả lên.
Lệ Xuân Viện khi đó đang giữa bữa tiệc, hơn chục tên lái muối ngồi chật ba bàn, mỗi người có một kỹ nữ kề bên, nghe tiếng la hét, ai nấy biến sắc người nọ hỏi người kia:
- Chuyện gì thế?
- Ai vậy nhỉ?
- Quan phủ tra án chăng?
Đột nhiên có tiếng gõ cửa rầm rầm như trống hộ đê khiến cho thằng nhỏ nhà chứa cũng không biết phải tính nước nào, mở hay không mở cửa. Nghe bình một tiếng, cửa mở toang ra, mười bảy mười tám đại hán hung hăng xông vào.
Những người đó mặc quần áo chẽn, đầu bao khăn trắng, lưng thắt đai xanh, trong tay ai cũng cầm hoặc cương đao sáng loáng, hoặc thiết xích, thiết côn. Bọn lái muối vừa trông thấy nhận ra ngay đây là một bọn buôn lậu. Thời đó thuế muối rất cao, nghề buôn muối lậu kiếm rất khá. Một dải Dương Châu là nơi tâm điểm tụ tán của mọi phường buôn muối cả nam lẫn bắc, là nơi thành quần kết đội của bọn vong mạng, trốn thuế chạy hàng. Bọn diêm kiêu[3] đó cực kỳ hung dữ, nếu gặp phải đại đội quân quan thì chúng phân tán trốn chạy, còn như gặp binh đội ít người, nói năng không xuôi tai là rút binh khí xông lên đánh ngay. Thành thử các quan địa phương cũng phải nhắm mắt làm ngơ, không dám đụng chạm gì đến bọn chúng.
Bọn lái muối cũng biết đám du thủ du thực kia chỉ trốn xâu lậu thuế chứ ngoài ra không ăn cướp hàng hóa hay làm gì khác, khi buôn bán với dân chúng cũng sòng phẳng công bình không ỷ thế hiếp đáp ai, thế nhưng hôm nay cường hung bá đạo xông vào phường Minh Ngọc khiến ai nấy vừa kinh hoàng, vừa quái lạ.
Một lão già chừng ngoài năm mươi trong đám buôn lậu nói:
- Các vị bằng hữu, xin đứng trách bọn ta làm phiền, tại hạ xin nhận lỗi.
Nói xong ôm quyền chắp tay từ trái sang phải, rồi từ phải sang trái, sau đó mới dõng dạc nói:
- Bằng hữu họ Giả của Thiên Địa Hội, Giả lão lục Giả lão huynh có ở đây không?
Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn khắp lượt bọn lái muối. Bọn con buôn chạm phải mắt y, ai nấy đều có vẻ hoảng sợ, liên tiếp lắc đầu, trong lòng cũng bớt lo: “Hóa ra đây là bang hội trên giang hồ tìm nhau trả thù, không liên can gì đến người khác”.
Lão già buôn lậu cao giọng quát:
- Giả lão lục, hồi xế trưa nay ngươi ở tửu quán cạnh Tây Hồ huênh hoang khoác lác, bảo gì mà bọn buôn lậu muối ở Dương Châu chẳng ra chó gì, nhát như thỏ, không dám giết quan làm phản, làm ăn vặt vãnh, chỉ giỏi tài trốn xâu lậu thuế. Ngươi ăn mì cho đẫy bụng rồi la lối om xòm, thách bọn ta ở Dương Châu này có ngon thì đến phường Minh Ngọc mà kiếm. Thế chúng ông chẳng đến thì là gì đây? Giả lão lục, ngươi là dân Thiên Địa Hội nếu có giỏi sao không ra mặt mà rụt đầu trốn chui trốn nhủi?
Hơn chục tên diêm kiêu còn lại cũng hùa theo:
- Hảo hán tử của Thiên Địa Hội, sao cũng rụt đầu như đầu rùa thế?
- Thằng chết tiệt kia, mi là người trong Thiên Địa Hội hay là người trong Xúc Đầu Hội?
Lão già kia nói:
- Đây chỉ là lời nói năng tầm xàm của Giả lão lục, không liên quan gì đến các bằng hữu khác của Thiên Địa Hội. Bọn chúng ta cũng chỉ là đổi bát máu lấy bát cơm, đâu có được anh hùng như Thiên Địa Hội nhưng cũng chẳng phải là cái giống rụt đầu rụt cổ.
Đợi một lát không thấy Giả lão lục nào của Thiên Địa Hội trả lời, lão già kia bèn ra lệnh:
- Chúng bay đi xục tất cả các nơi xem có thấy anh bạn rụt đầu họ Giả kia đâu không thì mời ra đây coi. Gã này trên mặt có một cái thẹo chém thật to, dễ nhận lắm.
Bọn diêm kiêu hò hét vang rân, lập tức túa ra các nhà tra xét. Đột nhiên ở cái chái phía đông có tiếng người nói:
- Đứa nào tới đây rức lác, làm lão tử mất hứng thế?
Bọn buôn muối reo ầm lên:
- Giả lão lục đây rồi.
- Giả lão lục, có mau ra không?
- Con mẹ nó chứ, cẩu tặc này gan nhỉ?
Người trong đông sương phòng cười hô hố nói:
- Ông đâu phải họ Giả, thế nhưng lũ chúng bay dám chửi Thiên Địa Hội, lão tử nghe không lọt tai. Lão tử cũng chẳng phải người Thiên Địa Hội nhưng cũng biết các bằng hữu trong Thiên Địa Hội đều là anh hùng hảo hán. Cái thứ buôn muối lậu chúng bay có xách dép, chùi đít cho họ cũng không đáng.
Bọn buôn lậu tức quá kêu rống cả lên, ba tên tay cầm cương đao, lập tức xông ngay vào chái nhà phía đông. Chỉ nghe kêu “Ối trời”, “Chao ôi” liên tiếp, hết đứa này tới đưa kia bay văng ra ngoài, rơi bịch xuống đất, một gã còn bị đao của chính mình đập ngược vào trán, máu chảy đầm đìa, ngất xỉu. Kế đó lại có sáu têm diêm kiêu nhảy vào, rồi lại nghe tiếng kêu la liên tiếp, cả sáu người đó cũng bị đánh bật ra. Bọn còn lại quát tháo chửi rủa nhưng không người nào dám xông lên nữa.
Lão già kia tiến lên mấy bước, nhòm vào trong phòng, lờ mờ thấy một đại hán râu xồm ngồi trên giường, đầu bịt vải trắng, mặt không có vết sẹo nào, quả nhiên không phải Giả lão lục. Y liền cao giọng hỏi:
- Các hạ quả là hảo thân thủ, xin được hỏi quí tính đại danh là gì?
Người trong phòng liền chửi vọng ra:
- Thằng cha mày họ gì tên gì thì ta tên đó họ đó, còn phải hỏi? Đồ con bất hiếu, đến tên ông già nó nó cũng quên.
Trong số những kỹ nữ đứng nép một bên có một mụ tuổi trạc ba mươi nghe thế liền bật cười khúc khích. Một tên buôn lậu liền bước tới, bốp bốp hai cái, tát cho mụ kia đau đến chảy nước mắt nước mũi. Gã diêm kiêu mắng:
- Con mẹ mày giống đĩ thúi, có gì tức cười?
Người kỹ nữ sợ quá không dám mở mồm đáp lại. Từ sau màn che đại đường một thằng nhỏ chừng mười hai, mười ba xông ra miệng chửi như pháo ran:
- Sao ngươi đánh má ta? Thứ đồ rùa chết, đồ đê tiện, ngươi thò đầu ra ngoài là trời đánh thánh đâm, thiên lôi bửa đầu. Tay ngươi nổi nhọt sưng chù vù, thúi luôn qua bàn tay, ăn luôn tới đầu lưỡi, máu mủ nuốt xuống thúi luôn ruột gan chết ngắc.
Gã buôn lậu tức quá liền vung tay ra chộp thằng bé. Thằng bé con lách một cái đã chui ra trốn sau lưng một gã con buôn. Gã buôn lậu giơ tay xô gã lái buôn lăn chiêng, tay phải nắm lại nhắm lưng thằng nhỏ thoi luôn một quả.
Người kỹ nữ trung niên kinh hãi, kêu lên:
- Xin đại gia tha mạng.
Thế nhưng thằng bé đó cực kỳ nhanh nhẹn, rùn người xuống đã lòn tới háng gã buôn lậu giơ tay chộp một cái trúng ngay hạ bộ bóp mạnh khiến cho đại hán nọ đau quá kêu oai oái. Thằng bé con nhân dịp đó chạy ra ngoài.
Gã diêm kiêu tức quá không biết làm gì hơn, giơ tay đấm mạnh một cái vào mặt mụ kỹ nữ, người đàn bà khốn khổ lăn ra bất tỉnh. Đứa bé liền nhào tới ôm lấy mụ kêu lên:
- Má! Má!
Gã buôn lậu chộp ngay cổ thằng bé xách lên, đang định đấm cho nó một quả thì lão già kia đã quát lớn:
- Đừng làm rộn! Thả nó xuống.
Gã kia bèn vứt thằng nhỏ xuống, tiện chân đá phốc một cái vào mông khiến cho nó lăn cù đi mấy vòng, bình một tiếng đụng mạnh vào tường. Lão già kia lườm gã buôn lậu rồi quay qua nói vọng vào trong phòng:
- Bọn ta là anh em trong Thanh Bang, chỉ vì một bằng hữu họ Giả trong Thiên Địa Hội công nhiên nhục mạ Thanh Bang, bảo là sẽ đợi bọn ta tại Minh Ngọc Phường để giải quyết, thành thử mới tới đây kiếm y. Các hạ nếu không phải người Thiên Địa Hội, với tệ bang nước sông không phạm nước giếng, sao lại mở miệng làm tổn thương người khác là sao? Xin các hạ lưu lại tính danh để khi bang chủ và cấp trên hỏi đến còn tiện việc trả lời.
Gã kia ở trong phòng liền cười nói:
- Bọn ngươi muốn tìm người của Thiên Địa Hội để thanh toán thì có liên can gì đến ta đâu? Ta đang ở trong đây phong lưu khoái hoạt, hai bên nước giếng chẳng phạm nước sông, sao lại đến làm cụt hứng lão gia. Thôi thì ta cũng khuyên lão huynh một câu, người trong Thiên Địa Hội, lão huynh chẳng làm gì được đâu, nếu có bị người ta chửi thì cũng đành giả ngây giả điếc, ngoan ngoãn cụp đuôi trở về buôn chui muối hột kiếm tí tiền còm sống qua ngày.
Lão già hậm hực đáp:
- Trên giang hồ chưa bao giờ gặp người nào ngang tàng không biết điều như ngươi.
Gã trong phòng lạnh nhạt nói:
- Ta biết hay không biết điều thì có liên can gì đến mi? Bộ ngươi muốn kiếm chồng cho chị, định mời ta về làm anh rể hả?
Ngay lúc đó từ ngoài cửa lẳng lặng tiến vào thêm ba người nữa, người nào cũng ăn mặc theo kiểu dân buôn lậu. Một người gầy gò tay cầm liên tử thương hỏi nhỏ:
- Gã đó lai lịch thế nào?
Lão già lắc đầu:
- Y không chịu nói, có điều mở miệng là tâng bốc Thiên Địa Hội, gã họ Giả kia trốn ở trong phòng không chừng!
Gã gầy gò vẫy liên tử thương một cái, hất hàm, lão già kia cũng rút trong lưng ra một đôi đoản kiếm dài chừng một thước, rồi bất thình lình bốn người cùng xông vào một lượt.
Chỉ nghe trong phòng tiếng binh khí chạm nhau vang động. Lệ Xuân Viện là một trong tứ đại viện của phường Minh Ngọc, phòng nào cũng bày biện bàn ghế bằng gỗ lê, giường tủ bằng gỗ gụ rất trang nhã, nghe tiếng loảng xoảng chát chát không ngừng, hiển nhiên những đồ đạc trong phòng đều bị vỡ tan. Khuôn mặt bành bạnh nung núc những thịt của mụ tú bà giựt giựt không ngừng, miệng niệm Phật, lòng đau như cắt. Bốn tên diêm kiêu kêu réo liên tiếp còn người khách trong phòng thì không mở miệng nói một câu nào.
Những người trong sảnh đều đứng nép ở xa xa, sợ tai bay vạ gió, vô phúc chẳng phải đầu phải tai. Chỉ nghe tiếng binh khí chạm nhau càng lúc càng nhanh, rồi có tiếng người rú lên thảm thiết, hẳn là một tên đầu mục diêm kiêu bị trúng đòn.
Còn đại hán kia bị bóp âm nang đau quá, thấy thằng nhỏ ở dưới chân tường lồm cồm bò lên, cơn giận chưa nguôi, lại vung tay xông tới đánh nữa. Thằng bé nghiêng qua tránh được, gã kia bèn tát ngược lại một cái, đánh cho thằng bé quay vòng vòng. Bọn qui nô, diêm thương thấy y hung mãnh như thế, đánh thêm nữa chắc thằng nhỏ sẽ chết tươi ngay tại chỗ, nhưng có ai dám mở miệng can ngăn? Đại hán đó giơ tay phải lên, đấm xuống đầu thằng nhỏ, thằng bé lập tức xông vọt lên, không còn đường nào khác liền chạy tọt vào phòng.
Mọi người trong sảnh đều kêu lên kinh hoảng, gã kia cũng sững sờ nhưng không dám rượt theo. Thằng nhỏ chạy vào trong phòng rồi, lúc đầu không thấy gì cả, đột nhiên binh khí chạm nhau, keng một tiếng, tóe ra mấy đốm lửa, thấy trên giường có một người ngồi, đầu quấn đầy vải trắng, trông thật ghê rợn. Y sợ quá kêu ré lên nhưng ánh lửa vừa hết thì căn phòng lại tối đen như mực nhưng ánh đèn từ ngoài sảnh rọi vào dần dần sáng lên, người đầu buộc vải kia tay cầm đơn đao, múa lên đỡ đánh.
Bốn tên đầu mục buôn lậu giờ này chỉ còn hai, hai người gầy gò đã gục dưới đất, chỉ còn người tay cầm đoản kiếm thêm một gã cao to là còn đang đấu tiếp. Thằng nhỏ nghĩ thầm: “Người này đầu đã bị thương nặng, không thể đứng lên được, đánh không lại hai tên buôn lậu này đâu. Thôi lão tử phải chạy mau mới được, không biết má má ra sao rồi?”.
Y nghĩ đến mẫu thân bị người ta hiếp đáp, tức khí xông lên ngồi chửi vọng ra ngoài:
- Đồ đê tiện chết bầm, con bà nhà ngươi, ta réo mười tám đời tổ tông nhà buôn muối thối tha … thứ dân buôn lậu, bà nội, bà già, luôn cả bà vợ ngươi chết cũng đem ướp muối, đem ra chợ giả làm thịt heo sề, một đồng ba cân cũng chẳng ai thèm mua thứ thịt ướp thúi của nhà ngươi…
Bọn buôn lậu ở ngoài sảnh nghe y chửi rủa độc địa, trong bụng tức tối, muốn xông vào phòng lôi nó ra đánh cho nó một trận nhừ tử nhưng không ai dám tiến lên. Người trong phòng đột nhiên nghiêng đao một cái, soẹt một tiếng chém trúng ngay đầu vai trái đại hán cao to, ngay cả xương đòn gánh cũng đứt lìa. Đại hán đó rú lên một tiếng kinh thiên động địa, lảo đảo chực ngã. Lão già kia lập tức phóng song kiếm đâm vào ngực người kia, y vội vung đao gạt ra thì vừa lúc đó, bụp một tiếng, cây cương tiên của đại hán đã đập vào vai phải khiến cho cây đao rơi xuống đất kêu loảng xoảng.
Lão già liền quát lớn tiếp tục đâm tới. Người kia vung tả chưởng đánh ra, nghe lốp cốp bao nhiêu gân cốt lão già đều gãy vụn, bay vọt ra khỏi phòng, hộc máu nằm lăn quay dưới đất bất tỉnh.
Gã buôn lậu kia tuy bên vai trái bị thương nặng nhưng vẫn hết sức dũng mãnh, cầm cương tiên lên, đập xuống đầu người nọ. Người đó không tránh né, dường như không còn hơi sức chẳng còn động đậy gì được. Thế nhưng đại hán kia hơi sức cũng chẳng được bao nhiêu nên đập xuống thật yếu ớt.
Thằng nhỏ thấy tình thế nguy cấp, nổi bụng địch khái đồng cừu, lập tức nhảy vụt tới, ôm chặt lấy hai chân gã, cố sức kéo giật lại. Gã kia ít ra cũng phải hai trăm cân, thằng bé thì gầy nhom nhỏ xíu, bình thời có lay y cũng chẳng nổi nhưng lúc này đang bị trọng thương, chỉ còn thở phều phào, đột nhiên bị thằng bé kéo lại, lập tức ngã ngay, gục trong vũng máu không cử động gì nữa.
Người ngồi trên giường ho mấy tiếng, cười rồi lớn tiếng nói:
- Đứa nào có giỏi thì vào đây.
Thằng nhỏ liên tiếp xua tay, muốn ngăn y đừng tiếp tục gây chuyện với bọn người ở bên ngoài. Khi lão già kia bay vọt từ trong phòng ra, đụng mạnh vào cánh cửa khép hờ kia, lúc này ánh nến từ ngoài sảnh chiếu vào, thấy gã đó râu xoăn tít, mặt mũi đầy những máu me, trông cực kỳ khiếp đảm.
Bọn diêm kiêu ở bên ngoài không nhìn rõ tình hình bên trong, sợ quá nhìn nhau, lại nghe người trong phòng quát lớn:
- Đồ chết tiệt, chúng bay không dám vào thì để ông đi ra giết sạch không còn một mống.
Bọn buôn lậu rú lên, vội vàng đỡ người bị thương dưới đất, rầm rập chạy ra ngoài. Người kia cười ha hả, nói khẽ:
- Hài tử, ngươi … ngươi ra đóng cửa phòng lại.
Thằng bé nghĩ bụng cửa phòng không đóng không xong, vội vàng đáp:
- Dạ!
Y đóng cửa lại rồi rón rén đi đến trước giường, trong bóng tối ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc. Người kia nói:
- Ngươi … ngươi...
Nói không ra hơi, đột nhiên thân hình nghiêng qua, lắc lư dường như sắp ngã dúi xuống giường. Thằng bé vội vàng chạy lại đỡ nhưng gã đó cực kỳ nặng nề, phải hết sức mới giữ được y rồi đặt nằm xuống gối. Y thở dốc lên, một hồi sau mới khẽ nói:
- Bọn buôn lậu trong chớp mắt sẽ quay lại, ta lực khí chưa khôi phục, con mẹ nó, đành phải … phải tránh mặt tụi nó thôi.
Y chống tay ngồi lên nhưng xem chừng đau lắm, rên lên một tiếng. Thằng nhỏ đến đỡ y, gã kia nói:
- Cầm đao lên, đưa lại cho ta.
Thằng bé liền nhặt chiếc đao lên nhét vào tay y. Người kia bèn từ từ lần xuống giường, thân hình lảo đảo liên tiếp. Đứa bé liền đến để đầu vai vào nách y. Gã kia nói:
- Ta muốn đi ra, ngươi đừng đỡ ta nữa, nếu không bọn buôn chui kia trông thấy giết cả ngươi đó.
Thằng bé con đáp:
- Con mẹ nó chứ, giết thì giết, tôi không sợ, chúng mình bạn bè với nhau phải biết nghĩa khí, không thể không nâng đỡ nhau.
Người kia nghe thế cười nghiêng ngả, vừa cười vừa ho sặc sụa nói:
- Ngươi giảng nghĩa khí với ta ư?
Thằng nhỏ đáp:
- Sao lại không? Bạn bè có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu.
Các trà quán ở Dương Châu có vô số thầy đồ kể chuyện, thuật lại nào là Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Đại Minh Anh Liệt Truyện … đủ các loại anh hùng. Thằng bé con ngày đêm không ở kỹ viện thì cũng sang sòng bài, lân la nơi trà quán, tửu lâu, để người ta sai vặt mua cái này cái khác, nếu trúng mối cũng được thưởng chút tiền, còn khi không có việc gì thì đến nghe kể chuyện. Tại những trà quán, y đối với những người bán hàng chú chú bác bác dẻo như kẹo, thành thử những người đó không nỡ đuổi đi. Y nghe kể chuyện đã nhiều đâm ra ghiền những nhân vật anh hùng hảo hán, bây giờ thấy người kia bị trọng thương như thế mà vẫn đánh cho bọn đầu mục diêm kiêu tơi tả, trong bụng hết sức ngưỡng mộ nên y mượn giọng những nhân vật trong tiểu thuyết nói ra.
Người kia cười ha hả nói:
- Câu đó của ngươi nói nghe phải lắm. Lão tử trên giang hồ nghe người ta nói đến cả nghìn cả vạn lần, thế nhưng có nạn cùng chịu thì chẳng được mấy ngoe. Thôi mình đi!
Thằng bé con dùng vai phải đỡ cánh tay trái của đại hán, đẩy cửa phòng đi ra ngoài sảnh. Mọi người trông thấy ai nấy kinh hãi thất sắc, bỏ chạy tán loạn. Mẹ thằng bé kêu lên:
- Tiểu Bảo! Tiểu Bảo! Ngươi đi đâu đây?
Thằng nhỏ đáp:
- Con đưa ông bạn này ra cửa rồi quay về liền.
Người kia cười:
- Ông bạn ư? A ha! Thế là ta thành bạn của ngươi rồi!
Mẹ thằng nhỏ kêu lên:
- Không được, mi mau mau trốn đi nơi khác.
Thằng nhỏ cười khì rồi vẫn hiên ngang đi ra khỏi sảnh. Hai người rời Lệ Xuân Viện thấy đường hẻm vắng ngắt không một bóng người, chắc hẳn bọn buôn lập gặp phải kình địch nên chạy về gọi thêm đồng bọn. Đi hết con hẻm là ra đến đường nhỏ, người kia ngửng đầu nhìn lên thấy trời sao lấp lánh bèn nói:
- Mình đi về hướng tây.
Đi thêm được mấy trượng bỗng thấy một chiếc xe lừa chạy đến. Người kia gọi lớn:
- Phu xe.
Chiếc xe vừa ngừng lại người xa phu thấy hai người mình đầy máu me, đâm ra úy kỵ. Người kia lấy trong túi ra một đĩnh bạc chừng bốn năm lượng nói:
- Lấy tiền trước đi này.
Người đánh xe thấy khối bạc không phải là nhỏ, vội vàng ngừng xe, bỏ bàn đạp xuống. Người nọ gượng nhẹ trèo lên, lấy ra thêm một khối vàng nặng phải đến một chục lượng, giao cho thằng nhỏ nói:
- Này bạn nhỏ, ta phải đi đây, khối nguyên bảo này tặng cho ngươi đó.
Thằng bé con thấy khối nguyên bảo lớn như thế không khỏi nuốt nước bọt nghe ực một tiếng, trong bụng kêu thầm: “Cha này sài xang quá!”. Thế nhưng y cũng đã từng nghe không biết bao nhiêu câu truyện hiệp nghĩa, biết rằng xưa nay bậc hào kiệt coi việc giao kết bằng hữu là trọng, còn tiền bạc phải coi thường, dễ gì có dịp như hôm nay để tỏ khí độ anh hùng hảo hán, đã làm gì thì phải làm cho tới nơi tới chốn, lẽ đâu lại tỏ ra là kẻ hèn hạ thấy tiền là híp mắt lại. Y bèn lớn tiếng nói:
- Tụi mình chỉ giảng nghĩa khí, lẽ đâu lại nói chuyện tiền bạc. Ông bạn đưa vàng cho ta chẳng hóa coi rẻ mỗ lắm sao? Bạn còn đang bị thương, thôi để ta đưa tiễn một quãng đường.
Người kia sững sờ, ngửa mặt lên trời cười như điên dại nói:
- Giỏi thật! Giỏi thật! Quả là có ý tứ.
Y bỏ thoi vàng vào trong bọc. Thằng bé kia bèn trèo lên ngồi bên cạnh y. Xa phu hỏi:
- Khách quan muốn đi đâu?
Người kia nói:
- Đến phía tây thành, núi Đắc Thắng.
Người phu xe ngạc nhiên hỏi lại:
- Núi Đắc Thắng? Đang đêm đang hôm lại tới bên thành phía tây ư?
Người kia đáp:
- Đúng thế!
Thanh đao trong tay cầm gõ nhẹ lên càng xe một cái, gã phu xe chột dạ vội vàng đáp:
- Vâng! Vâng!
Y bỏ rèm xe xuống giục lừa chạy ra ngoài thành. Người kia nhắm mắt dưỡng thần, hơi thở khò khè, thỉnh thoảng lại ho mấy tiếng. Núi Đắc Thắng ở tại làng Đại Nghi ở phía tây bắc cách Dương Châu chừng ba chục dặm, đời Thiệu Hưng Nam Tống, Hàn Thế Trung đã từng đại phá quân Kim ở đây, thành thử mới gọi là núi Đắc Thắng.
Xa phu đánh lừa chạy thật nhanh, chỉ độ hơn một giờ đã đến chân núi, nói:
- Khách quan, đến Đắc Thắng sơn rồi.
Người nọ thấy ngọn núi đó chỉ cao chừng bảy tám trượng, chẳng qua chỉ là một cái gò nhỏ, hừ một tiếng hỏi lại:
- Đây là núi Đắc Thắng cái con mẹ gì đấy à?
Xa phu đáp:
- Đúng thế.
Thằng bé nói:
- Đây đúng thật là Đắc Thắng Sơn. Mẹ tôi và chị em đi lễ miếu Anh Liệt phu nhân có cho tôi theo, có đi chơi ở đây rồi. Đi quá thêm một chút nữa theo đường nhỏ sẽ đến phu nhân miếu.
Cái Anh Liệt phu nhân miếu kia là nơi thờ vợ của Hàn Thế Trung Lương Hồng Ngọc, người Dương Châu còn gọi là Dị Xướng miếu. Lương Hồng Ngọc lúc còn trẻ là một kỹ nữ, trong chốn gió bụi quen biết Hàn Thế Trung. Những người trong chốn yên hoa ở Dương Châu mỗi năm đều đi lễ ở miếu này để khấn nguyện, cầu xin vị An Quốc phu nhân của triều Tống nếu có linh thiêng thì phù hộ cho những chị em đời sau.
Người kia nói:
- Nếu ngươi cũng biết thì hẳn là không sai rồi. Thôi xuống đây.
Thằng bé con nhảy xuống xe rồi đỡ gã kia ra, chỉ thấy trời tối đen như mực, nghĩ thầm: “Phải rồi, chốn này cực kỳ hoang dã nếu trốn ở đây thì bọn buôn muối lậu kia không thể nào tìm ra được”. Gã đánh xe thì sợ cái con người thân đầy máu me này lại bắt y phải đến một nơi khác, vội quay đầu lừa, vung roi toan chạy. Người kia nói:
- Khoan đã, ngươi đem vị tiểu bằng hữu này trở về thành luôn thể.
Người đánh xe đáp:
- Vâng!
Thằng bé nói:
- Để tôi ở đây thêm với ông bạn một lúc nữa, sáng sớm mai tôi sẽ đi mua bánh cho ông ăn.
Người kia hỏi lại:
- Ngươi quả thực muốn ở lại với ta ư?
Thằng bé đáp:
- Không có ai chăm sóc cho ông bạn e rằng bất tiện lắm.
Người kia cất tiếng cười ha hả, quay sang nói với gã phu xe:
- Thế thì ngươi đi về đi.
Gã phu xe nghe nói thế vội vàng giục xe chạy ngay. Người kia đi đến một tảng đá ngồi xuống, thấy chiếc xe lừa chạy đã xa, bốn bề không một tiếng động, đột nhiên quát lớn:
- Hai tên rùa đen chó má ở sau cây liễu kia, có chường mặt ra không nào?
Thằng bé sợ đến nhảy dựng lên tự hỏi: “Ở đây còn có người khác nữa hay sao?”. Quả nhiên sau cây liễu hai người chầm chậm bước ra, vải trắng quấn đầu, đai xanh thắt lưng, chính là bọn diêm kiêu. Trong tay hai gã đó cầm cương đao lấp lánh, đi tới hai bước rồi lại ngừng. Người kia quát lên:
- Quân rùa đen đê tiện kia theo lão tử từ lò nung đến tận đây, sao chưa lên nạp mạng còn tính chuyện gì nữa?
Thàng nhỏ nghĩ thầm: “Phải rồi! Bọn chúng muốn tìm cho rõ người này đi đâu, sau đó mới gọi thêm người đến giết y”.
Hai gã kia bàn tán nho nho mấy câu rồi quay mình bỏ chạy. Người kia chồm lên nhưng lại kêu lên một tiếng, ngồi bệt xuống, không còn hơi sức gì mà rượt theo được. Thằng bé nghĩ thầm: “Xe lừa đi mất rồi, hai người mình không cách gì có thể đi xa được, hai đứa này đi thông tin báo tức, cả bọn kéo đến thì thật hỡi ôi”. Y đột nhiên khóc òa lên, kêu gào:
- Ối trời ôi, sao ông bạn lại chết thế này? Chẳng nên chết làm gì, ông bạn ơi!
Hai tên buôn muối lậu đang dợm bỏ chạy bỗng nghe thằng bé kêu khóc như thế, hết sức ngạc nhiên, lập tức quay đầu lại, lại nghe y khóc tiếp:
- Sao ông lại chết thế này hử trời?
Hai người vừa mừng vừa sợ, một gã hỏi:
- Tên ác tặc đó chết rồi ư?
Lại thêm gã kia tiếp:
- Y bị thương nặng chịu không nổi nữa rồi. Tên tiểu quỉ đó khóc như thế, hẳn là y đã chết.
Từ xa đứng nhìn thấy người kia gục xuống một đống, nằm lăn dưới đất. Gã kia đáp:
- Nếu chưa chết thì cũng chẳng có gì đáng sợ. Mình chặt đầu hắn đem về có phải là lập công to hay không?
Người kia nói:
- Hay lắm!
Hai người rút phắt đơn đao, mon men tới gần. Vẫn thấy thằng bé con đấm ngực dậm chân, khóc thảm thiết, vừa khóc vừa kêu:
- Lão huynh ơi, sao lại tự nhiên lăn ra chết thế này? Lỡ như bọn buôn chui kia kiếm tới thì ta làm sao địch cho lại?
Hai người mừng rơn vội vàng chạy đến. Một gã quát lên:
- Ác tặc, chết thật đáng kiếp.
Y giơ tay chộp vào lưng thằng nhỏ, còn gã kia vung đao chặt xuống đầu đại hán. Đột nhiên một ánh đao quang lóe lên, một người đứt đầu văng ra, còn gã đang nắm thằng bé từ ngực tới bụng bị rạch một đường dài. Người kia nhỏm dậy cười ha hả.
Thằng bé con vẫn khóc:
- Ối trời ôi, sao ông bạn buôn muối lậu này đầu mất đằng nào rồi? Hai vị lão nhân gia xuống gặp Diêm Vương thì còn ai là người thông tin báo tức? Chuyện như thế quả hỏng bét cả rồi.
Đến câu cuối y nhịn không nổi cười sằng sặc. Người kia cũng cười:
- Thằng tiểu quỉ này quả thực thông minh, khóc hệt như thật. Nếu ngươi không khóc được như thế thì hai thằng chết tiệt này đời nào mon men tới đây.
Thằng bé con cười nói:
- Muốn giả vờ khóc đâu phải dễ! Mỗi khi mẹ tôi định đánh, roi chưa đụng tới người, tôi đã khóc như cha chết, mẹ tôi đâu nỡ đánh đau.
Người kia nói:
- Mẹ ngươi sao lại đánh ngươi?
Thằng nhỏ đáp:
- Cái đó không chừng, khi thì tôi ăn cắp tiền của má tôi, khi thì tại tôi phá các chú, các dì trong viện.
Người kia thở dài một tiếng nói:
- Nếu như không giết được hai tên dò thám này thì quả là có điều bất ổn. Này! Hồi nãy khi ngươi khóc, sao ngươi không gọi ta là lão gia, đại thúc mà lại gọi ta là lão huynh?
Thằng bé con đáp:
- Ông bạn là bằng hữu của tôi, dĩ nhiên tôi gọi ông là lão huynh, chứ cái đếch gì mà đòi làm lão gia? Nếu như ông muốn ta gọi ông là lão gia thì ta để mặc xác không thèm lo cho ông nữa.
Người kia cười ha hả nói:
- Hay lắm! Tiểu bằng hữu, tên ngươi là gì?
Thằng bé hỏi lại:
- Ông muốn hỏi tôn tính đại danh của tôi chăng? Tôi tên là Tiểu Bảo.
Người kia vẫn cười hỏi tiếp:
- Đại danh của ngươi là Tiểu Bảo, thế còn tôn tính là gì?
Thằng nhỏ cau mày nói:
- Tôi … tôi tôn tính Vi.
Thằng bé đó sinh ra trong kỹ viện, mẹ nó tên là Vi Xuân Hoa, còn bố nó là ai thì đến cả mẹ nó cũng không biết, mọi người ai cũng gọi nó là Tiểu Bảo, chưa một ai hỏi nó họ gì. Bây giờ người nọ hỏi tới, thằng bé bèn nói họ mẹ ra. Thằng bé con sinh ra trong kỹ viện, lớn lên trong kỹ viện, chưa đi học bao giờ. Nó nói ra “ tôn tính đại danh” chẳng phải là đùa, chẳng qua chỉ vì vẫn nghe thầy đồ giảng sách nhắc đến, đâu hiểu đó là một hình thức xưng hô tôn kính khi hỏi về người khác, còn như dùng cho mình thì không thích hợp.
Y bèn hỏi ngược lại:
- Thế còn lão huynh tôn tính đại danh là chi?
Người kia mủm mỉm cười đáp:
- Ngươi đã coi ta là bạn thì ta cũng chẳng dấu ngươi làm gì. Ta họ Mao, chữ mao (茅) là cây cỏ, không phải mao (毛) là lông, đứng hàng thứ mười tám. Mao Thập Bát (茅十八) chính là ta đây.
Vi Tiểu Bảo kêu lên một tiếng giật nảy mình nói:
- Tôi đã từng nghe người ta nói, chẳng phải … chẳng phải quan phủ đang tróc nã ông hay sao? Nghe đâu ông là cướp sông cướp biển gì đó mà?
Mao Thập Bát hứ một tiếng đáp:
- Đúng đó! Ngươi có sợ không?
Vi Tiểu Bảo cười nói:
- Sợ cái gì? Tôi chẳng có tiền bạc châu báu, nếu ông có cướp thì đâu có cướp của tôi. Giang dương đại đạo thì đã làm sao? Lâm Xung, Võ Tòng trong truyện Thủy Hử anh hùng như thế cũng đều là cường đạo cả.
Mao Thập Bát hết sức đắc chí nói:
- Ngươi đem ta ra so với những bậc anh hùng như Lâm Xung, Võ Tòng quả là hay lắm. Việc quan phủ muốn bắt ta ấy là ngươi nghe ở đâu thế?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Trong thành Dương Châu treo đầy bảng văn, bảo là nếu ai bắt được giang dương đại đạo Mao Thập Bát, hoặc làm cách nào hạ sát được ông, chỉ cần sao giết chết là được thưởng hai nghìn lượng bạc, còn như ai đưa tin tức để bắt được ông thì cũng được thưởng một nghìn lượng bạc. Hôm qua tôi ở trà quán nghe người ta bàn tán, nói là ông tài nghệ ghê gớm như thế, việc bắt hay giết ông thì không ai dám nghĩ tới, nhưng hay nhất là biết được hành tung đi báo cho quan phủ, lãnh thưởng một nghìn lạng thì cũng đã giàu to.
Mao Thập Bát liếc nhìn y cười khẩy một tiếng. Trong đầu Vi Tiểu Bảo liền thoáng qua một ý tưởng: “Nếu như ta có được một nghìn lạng bạc thưởng thì ta với má ta hai người tha hồ tiêu, cơm gà cá gỏi, đánh bạc nghe hát có đến mấy năm cũng chưa hết”. Y thấy Mao Thập Bát nghiêng đầu nhìn mình, vẻ mặt có chiều khác lạ, Vi Tiểu Bảo bực tức nói:
- Ông bạn trong bụng nghĩ gì thế? Ông bạn tưởng tôi đi báo tin lãnh thưởng hay sao?
Mao Thập Bát đáp:
- Đúng thế, bạc trắng phau phau ai mà chẳng thích?
Vi Tiểu Bảo giận dữ chửi đổng:
- Con bà nó chứ! Bán rẻ bạn bè thì còn nói gì nghĩa khí giang hồ nữa?
Mao Thập Bát đáp:
- Cái đó là tùy ở ngươi.
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Nếu như ông bạn không tin được tôi, sao lại đem tên thật nói cho tôi nghe? Trên đầu ông quấn đầy vải trắng đâu có giống với hình trong bảng văn chút nào? Ông không xưng mình là Mao Thập Bát thì ai nhận ra ông?
Mao Thập Bát nói:
- Ngươi bảo tụi mình có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Nếu như đến cả tên tuổi cũng còn dấu ngươi, thế thì còn nói cái mẹ gì là bạn bè được nữa?
Vi Tiểu Bảo mừng rơn nói:
- Phải lắm! Dẫu có một vạn lượng, một chục vạn lượng bạc thưởng, lão tử cũng nhất quyết không đi báo tin.
Thế nhưng y trong lòng lại tự hỏi: “Nếu quả thực được một vạn lượng, một chục vạn lượng bạc, thì liệu mình có đem bán bạn bè hay không?”. Y thực quả phân vân không biết phải tính sao. Mao Thập Bát nói:
- Được! Thôi chúng mình nằm ngủ một lát, đến trưa mai sẽ có hai ông bạn đến kiếm ta. Bọn ta đã hẹn sẽ gặp nhau tại phía tây thành Dương Châu nơi núi Đắc Thắng, thề sống thề chết không gặp không bỏ đi.
Vi Tiểu Bảo cả ngày hôm nay chạy đôn chạy đáo đã mỏi mệt lắm rồi, nghe y nói thế lập tức dựa lưng vào gốc cây ngủ ngay. Sáng hôm sau tỉnh dậy, thấy Mao Thập Bát tay đang ôm ngực cười nói:
- Ngươi dậy rồi hả? Ngươi lôi hai cái xác này ra đằng sau rồi đem ba thanh đao mài lại cho sắc.
Vi Tiểu Bảo y lời lôi hai gã kia ra, khi đó mặt trời mới mọc nhìn rõ Mao Thập Bát độ chừng bốn mươi, chân tay bắp thịt cuồn cuộn, mắt sáng lấp lánh, thần tình thực là uy mãnh, liền cầm ba thanh đao đến bên bờ suối, nhúng nước mài trên một tảng đá, nghĩ thầm: “Đối phó với bọn buôn muối lậu thì một thanh đao cũng đủ rồi. Còn như Mao lão huynh bị người ta giết, hai thanh đao còn lại mài làm chi nữa? Không lẽ để người ta dùng giết Vi Tiểu Bảo này hay sao?”. Tính thằng bé vốn chây lười, làm bộ mài dao một hồi rồi nói:
- Thôi để tôi đi mua mấy cái bánh rán về ăn.
Mao Thập Bát hỏi lại:
- Ở đâu mà có bán bánh rán?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ở cách đây không xa có một tiểu thị trấn. Mao đại ca có sẵn tiền cho mượn chút ít xài được không?
Mao Thập Bát mỉm cười, lấy ra đĩnh vàng hôm trước nói:
- Chỗ anh em của ta cũng là của ngươi, của ngươi cũng là của ta, cứ cầm lấy mà tiêu, nói gì mà mượn hay không mượn?
Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nghĩ thầm: “Vị hảo hán này quả đã coi ta là bạn, dù có thưởng một vạn lượng, ta cũng nhất quyết không đi báo quan. Còn như mười vạn thì sao? Chuyện này thật khó nghĩ. Hừ, cỡ như y làm gì đáng tới mười vạn lượng? Mình cũng chẳng cần nghĩ ngợi gần xa cho mất công”.
Y cầm tiền hỏi lại:
- Có cần tôi mua thuốc men gì không?
Mao Thập Bát đáp:
- Không cần. Ta có sẵn đây rồi.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Được! Thôi tôi đi đây. Mao đại ca cứ yên tâm, ví thử công sai bắt được tôi thì dù có chặt đầu tôi cũng không bao giờ nói đại ca là Mao Thập Bát.
Mao Thập Bát thấy y chân thành liền gật đầu.
Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm nói một mình:
- Ông bạn có thêm hai vị bằng hữu nữa sắp đến, chi bằng mua thêm một vò rượu, thêm vài cân thịt bò.
Mao Thập Bát vui mừng nói:
- Nếu có thêm rượu thịt thì còn gì bằng, đi mau mau rồi về. Ăn cho no rồi đánh một mẻ.
Vi Tiểu Bảo kinh hãi hỏi:
- Bọn buôn muối lậu biết lão huynh ở đây hay sao? Chúng đuổi tới hay sao?
Mao Thập Bát đáp:
- Không phải thế! Ta hẹn với người khác đến đánh nhau ở Đắc Thắng sơn, nếu không việc gì phải hấp tấp đến đây?
Vi Tiểu Bảo thở một hơi nói:
- Lão huynh trên người bị thương, sao còn đánh nhau được? Chuyện này chi bằng để sau khi lành vết thương lúc đó tính đến cũng chưa muộn. Có điều … có điều không biết bên kia có chịu hay không?
Mao Thập Bát đáp:
- Hừ, người ta là anh hùng hảo hán, lẽ nào không chịu? Ấy là ta không chịu. Hôm nay là ngày hai mươi chín tháng ba, phải không nào? Nửa năm trước ta đã hẹn ngày này rồi. Sau đó ta bị quan phủ bắt được đem giam trong ngục, vẫn khắc khoải chuyện hẹn ngày hôm nay không thể không đến, đành phải vượt ngục ra đây. Khi ta vượt ngục có giết mấy tên ưng trảo, thành Dương Châu mới nhốn nháo lên, treo bảng tróc nã lão tử con mẹ gì đó. Con bà nó chứ, xui xẻo làm sao hôm trước lại gặp phải mấy tên chó săn võ công cực cao, giết được ba tên nhưng chính mình cũng bị thương, thành thử mới ra nông nỗi này.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Được rồi, để tôi đi mua cái gì ăn, lão huynh no rồi lúc đó hãy đánh.
Nói rồi y co cẳng chạy một mạch, vòng qua triền núi đến sáu bảy dặm đến một tiểu thị trấn, trong bụng tính toán: “Mao đại ca bị thương không đi lại được, làm sao đánh nhau với người ta đây? Y nói đối phương là anh hùng hảo hán có tên tuổi, võ công hẳn phải cao lắm, ta làm sao giúp y một tay?”. Trong tay y cầm khối bạc mà lòng ngứa ngáy vì cả dời y đã có được món tiền lớn đến thế này bao giờ đâu, phải tiêu một mẻ cho sướng tay, thế mới thực là thống khoái. Y chạy vào hàng thịt, mua luôn hai cân thịt bò, một con vịt quay rồi đi mua thêm hai vò hoàng tửu, thấy tiền vẫn còn nhiều lại mua thêm mươi chiếc bánh bao, vài chiếc bánh rán mất thêm vài chục tiền nữa. Y đột nhiên nghĩ ra: “Mình đi mua thêm cuộn dây thừng, kết thành cái thòng lọng dưới đất, khi đánh nhau đối phương sơ ý vướng vào dây, thể nào cũng ngã lăn ra, Mao đại ca một đao là giết được y ngay”.
Y nhớ lại thầy đồ kể chuyện đời xưa, đại tướng ra trận giao phong nếu như ngựa bị vướng chân thì bên địch liền vung đao chém xuống, đứt thành hai đoạn, nên hết sức cao hứng vội đi mua thừng. Y đến trước một tiệm tạp hóa thấy bên trong để một hàng bốn cái vại to, một vại đựng gạo, một vại đậu nành, một vại muối còn vại kia đựng vôi bột. Y chợt nghĩ ra: “Năm ngoái ở bên Tiên Nữ Kiều, bọn buôn muối lậu đánh nhau với người ta bị bên kia ném vôi vào mặt, chuyển bại thành thắng. Sao mình lại không nghĩ ra chuyện này nhỉ?”. Y không mua thừng nữa mà mua một bọc vôi sống, đeo lên lưng rồi quay trở về chỗ Mao Thập Bát.
Mao Thập Bát khi đó đang ngủ bên gốc cây, nghe tiếng chân người, lập tức tỉnh lại, mở bình rượu uống hai hớp, tấm tắc khen ngon hỏi:
- Ngươi uống không?
Vi Tiểu Bảo trước nay chưa hề uống ruợu, lúc này ra vẻ anh hùng hảo hán, cầm lấy bình rượu uống luôn một ngụm lớn, chỉ thấy một luồng nhiệt khí chạy thẳng xuống bụng, lập tức ho sặc sụa. Mao Thập Bát cười ha hả nói:
- Tiểu anh hùng chưa học cách uống rượu.
Bỗng nghe từ xa xa có tiếng người vọng lại:
- Thập Bát huynh, từ khi xa nhau vẫn mạnh giỏi chứ?
Mao Thập Bát đáp:
- Ngô huynh, Vương huynh, hai vị cũng khang kiện chứ?
Vi Tiểu Bảo trống ngực đánh như trống làng, thò đầu ra nhìn về phía có tiếng nói thấy trên đường cái hai người đang rảo bưới tới gần, trong chốc lát đã đến ngay trước mặt. Một người đã già, chòm râu bạc rủ xuống ngực nhưng mặt mũi hồng hào không có chút vết nhăn nào. Người kia thì tuổi trạc tứ tuần, vừa lùn vừa mập, đầu hói, sau ót tết một cái đuôi sam, còn phía trước thì bóng lưỡng như quả trứng gà.
Mao Thập Bát chắp tay nói:
- Huynh đệ chân không được tự nhiên nên không đứng lên hành lễ được.
Gã đầu hói hơi nhíu mày còn lão già kia cười nói:
- Chẳng việc gì phải khách khí.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: “Mao đại ca thành thực với người ta quá, trên đùi bị thương, sao lại cho họ biết làm chi?”. Mao Thập Bát mời:
- Ở đây có rượu có thịt, hai vị ăn qua một chút không?
Lão già đáp:
- Vậy thì quấy quả một chút.
Y ngồi xuống bên cạnh Mao Thập Bát, cầm lấy bình rượu. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ: “Thì ra hai người này là bằng hữu của Mao đại ca, không phải đến đây để đánh lộn, thật hay biết bao. Như thế đến khi địch nhân đến, hai gã này có thể chống trả được”.
Lão già kia đưa chiếc bình lên miệng đang định uống bỗng nghe gã hói đầu ngăn lại:
- Ngô đại ca, rượu đó không nên uống làm gì.
Lão già ngạc nhiên nhưng rồi cười phá lên, nói:
- Thập Bát huynh là một hảo hán tử ngang tàng, lẽ nào trong rượu lại bỏ thuốc độc?
Y ừng ực uống luôn hai ngụm lớn rồi cầm bình rượu đưa cho gã hói đầu nói:
- Ngươi không uống rượu ấy là coi vị hảo bằng hữu này chẳng vào đâu.
Gã hói đầu có vẻ ngại ngùng nhưng dường như không dám trái lời lão già kia nên cầm hồ rượu vừa để lên môi thì Mao Thập Bát đã giơ tay giựt lại nói:
- Rượu chẳng có bao nhiêu, Vương huynh nếu không thích uống thì thôi để dành cho ta vài ngụm.
Y ngửa cổ uống một ngụm lớn, gã đầu hói mặt đỏ bừng, đành ngồi xuống nhón thịt ăn. Mao Thập Bát nói:
- Để ta dẫn kiến hai vị với một người bạn.
Nói xong y chỉ vào lão già nói:
- Vị đây Ngô lão gia tử, đại hiệu là Đại Bằng, trên giang hồ gọi là Ma Vân Thủ, công phu quyền cước rất nổi tiếng trong võ lâm.
Lão già kia cười nói:
- Mao huynh thật đúng là dát vàng lên mặt huynh đệ.
Y vừa nói vừa nhìn ngang nhìn ngửa, chẳng thấy một ai khác, không khỏi ngạc nhiên. Mao Thập Bát lại chỉ vào gã hói đầu nói:
- Còn Vương sư phó đây đơn danh Đàm, ngoại hiệu Song Bút Khai Sơn, một đôi phán quan bút múa lên quả là xuất thần nhập hóa.
Gã hói đầu đáp:
- Mao huynh chỉ dỡn chơi, tại hạ là bại tướng dưới tay các hạ, thật là xấu hổ.
Mao Thập Bát nói:
- Không dám.
Y chỉ vào Vi Tiểu Bảo nói:
- Vị bằng hữu đây là một hảo huynh đệ ta mới quen …
Y nói tới đây Ngô Vương hai người không khỏi ngỡ ngàng nhìn nhau, vội đăm đăm nhìn Vi Tiểu Bảo, không hiểu thằng bé mười hai mười ba gầy gò xơ xác này lại lịch ra sao, lại nghe Mao Thập Bát nói tiếp:
- Vị tiểu bằng hữu đây họ Vi, tên Tiểu Bảo, trên giang hồ gọi là … gọi là, hừ, ngoại hiệu của y, gọi là … gọi là …
Y ngừng lại một chút mới nói:
- Gọi là Tiểu Bạch Long, công phu dưới nước quả hết sức tinh thâm, có thể bơi liên tiếp ba ngày ba đêm, bắt tôm cá sống mà ăn, vẻ mặt vẫn bình thường.
Y muốn cho người bạn mới quen này lên mặt một tí nhưng lại không muốn người ngoài nhìn ra được nên đưa y lên vài câu, ngặt vì Vi Tiểu Bảo không biết chút võ công nào, Ngô Vương hai người đều là cao thủ, chỉ giơ tay là đoán được ngay, khó lòng che dấu nên suy nghĩ một chút liền nói y cực kỳ lợi hại về công phu trên nước, hai người kia là hào kiệt phương bắc, không quen bơi lội thành thử không cách nào biết được đúng hay sai. Y lại nói tiếp:
- Ba vị đều là hảo bằng hữu cả, cũng nên thân thiết một chút.
Ngô Vương hai người liền ôm quyền nói:
- Ngưỡng mộ đã lâu!
Vi Tiểu Bảo học đòi y hệt, cũng vòng tay nói:
- Ngưỡng mộ đã lâu!
Y vừa mừng vừa sợ: “Mao đại ca thổi ta lên chứ ta nào có phải giang hồ hảo hán gì đâu? Cái ngón bịp này không thể để lộ ra được”. Chả mấy chốc bốn người đã ăn hết sạch rượu thịt bánh bao. Gã hói đầu Vương Đàm kia ăn khỏe quá, lúc đầu còn ngại ngùng, về sau ăn uống nhồm nhoàm, một mình y ăn nhiều hơn cả ba người cộng lại.
Mao Thập Bát giơ tay áo chùi mồm nói:
- Ngô lão gia tử, vị tiểu bằng hữu này thủy tính tinh thông thì là một lẽ nhưng công phu trên bộ lại chưa học qua, tại hạ đành phải lấy một chọi hai, xin đừng nghĩ là xem thường hai vị.
Ngô Đại Bằng đáp:
- Ước hẹn ngày hôm nay tại hạ định là lui thêm nửa năm nữa.
Mao Thập Bát hỏi:
- Vì sao thế?
Ngô Đại Bằng đáp:
- Mao huynh trên người mang thương tích, hiển nhiên không thể thi triển toàn bộ công phu. Lão hủ nếu có thắng cũng chẳng vinh dự gì mà nếu thua thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa.
Mao Thập Bát cười ha hả nói:
- Bị thương hay không thì cũng chẳng khác bao nhiêu, đợi thêm nửa năm nữa chẳng thắc thỏm áy náy lắm hay sao?
Tay trái vịn vào gốc cây, từ từ đứng lên, tay phải cầm đơn đao nói:
- Ngô lão gia tử xưa nay vẫn chỉ đánh tay không, còn Vương huynh cứ việc dùng binh khí.
Vương Đàm nói:
- Được!
Y cho tay vào bọc nghe leng keng một tiếng nhỏ đã lấy ra một đôi phán quan bút. Ngô Đại Bằng nói:
- Nếu đã thế thì Vương hiền đệ đứng ngoài lược trận cho ngu huynh. Nếu như ngu huynh không xong lúc đó ngươi nhập cuộc cũng chưa muộn.
Vương Đàm đáp:
- Vâng!
Rồi lùi lại ba bước. Ngô Đại Bằng tả chưởng lật lên, tay phải vòng một cái, nhẹ nhàng múa chưởng đánh vào Mao Thập Bát. Mao Thập Bát đơn đao chém xéo ra, nhắm vào tay trái y, Ngô Đại Bằng vội cúi đầu, lướt theo phía sống đao tiến vào, tay trái đánh luôn vào cùi chỏ bên phải của địch thủ, Mao Thập Bát liền lượn vòng theo gốc cây, nghe bịch một tiếng chưởng thế của Ngô Đại Bằng đã đánh trúng thân cây. Cây cổ thụ đó cao phải đến năm sáu trượng, thân to lớn bị trúng một chưởng của Ngô Đại Bằng, lá vàng liền rơi xuống như mưa. Mao Thập Bát cất tiếng khen:
- Hảo chưởng lực.
Y vừa nói vừa múa đơn đao chém tạt ngang hông. Ngô Đại Bằng đột nhiên nhảy vọt lên, từ trên không vồ xuống, chòm râu bạc bay tung, trông thực đẹp mắt. Mao Thập Bát liền dùng chiêu Tây Phong Đảo Quyển từ dưới chém ngược lên.
Ngô Đại Bằng ở trên không lộn mèo một cái, nhảy vọt ra ngoài. Chiêu đó của Mao Thập Bát chỉ còn cách bụng y chừng nửa thước, đao thế dĩ nhiên gấp rút, Ngô Đại Bằng tránh được quả thực linh động bội phần.
Vi Tiểu Bảo trong đời xem đánh nhau cũng đã nhiều nhưng chỉ toàn là bọn lưu manh đầu đường xó chợ kéo chân giựt tóc, bóp cổ đập đầu loạn đả với nhau, ngoại trừ hôm qua xem Mao Thập Bát đánh bọn diêm kiêu ra, chưa từng xem cao thủ tỉ võ thế này bao giờ. Chỉ thấy Ngô Đại Bằng tiến lên lùi xuống, song chưởng múa tít lên, còn đơn đao trong tay Mao Thập Bát biến thành một vầng ánh sáng bạc, bao phủ quanh người, Ngô Đại Bằng mấy lần xông vào đều bị đao quang đẩy dạt ra.
Hai bên đang đấu đến hồi gay go bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, hơn chục người cưỡi ngựa chạy đến, ăn mặc theo lối quan quân Mãn Thanh. Mươi người đó chạy đến gần liền túa ra, vây cả bốn người vào giữa, gã đi đầu quát lớn:
- Ngừng lại! Bọn ta phụng mệnh tróc nã giang dương đại đạo Mao Thập Bát, không liên can gì đến người khác, mau mau đi ra khỏi nơi đây.
Ngô Đại Bằng nghe nói thế ngừng tay nhảy ra ngoài. Mao Thập Bát nói:
- Ngô lão gia tử, bọn ưng trảo đã tìm được đến đây rồi. Chúng chỉ kiếm một mình ta, quí vị đừng nhúng tay vào.
Ngô Đại Bằng nói với bọn quan quân:
- Vị huynh đài đây là dân lành an phận, đâu có phải cướp sông cướp biển? Các ngươi nhận lầm người rồi.
Gã quan đi đầu cười khẩy nói:
- Y mà là dân lành an phận ư? Chẳng hóa ra trên đời này lương dân nhiều đến thế? Mao bằng hữu, ngươi tạo nên một vụ đại án trong thành Dương Châu, hảo hán có gan làm có gan chịu, mau mau ngoan ngoãn theo bọn ta đi thôi.
Mao Thập Bát đáp:
- Các ngươi đợi một chút, để ta cùng hai vị bằng hữu đây phân thắng bại đã rồi tính sau.
Y quay sang nói với Ngô Đại Bằng và Vương Đàm:
- Ngô lão gia tử, Vương huynh, chúng ta hôm nay không thể không phân thắng bại, nếu như lại đợi thêm nửa năm thì không biết họ Mao này cái mạng có còn hay không, thôi thì cả hai vị cứ xông lên một lượt cho thoải mái.
Gã quan quân quát lớn:
- Hai người kia nếu không phải cùng bọn với Mao Thập Bát thì mau mau tránh ra khỏi cái chỗ thị phi này, đừng để liên lụy đến mình.
Mao Thập Bát chửi lại:
- Con bà ngươi chứ, rức lác om sòm cái gì?
Gã quan quân kia nói:
- Mao Thập Bát, ngươi vượt ngục giết người là chuyện của quan lại Dương Châu, vốn chẳng cần đến bọn ta nhúng tay vào đâu. Thế nhưng nghe nói ngươi ở trong kỹ viện to mồm khoa trương, nói bọn phản loạn Thiên Địa Hội đều là anh hùng hảo hán, có phải thế không?
Mao Thập Bát lớn tiếng nói:
- Các bằng hữu trong Thiên Địa Hội đương nhiên là anh hùng hảo hán rồi, chứ chẳng lẽ cái bọn Hán gian chạy theo ôm chân bọn Thát tử như chúng bay lại anh hùng hảo hán hay sao?
Gãn quan quân hầm hầm tức tối nói:
- Ngao thiếu bảo phái bọn ta từ Bắc Kinh xuống tận đây cốt để tróc nã bọn phản tặc Thiên Địa Hội. Mao Thập Bát, ngươi mau mau đi theo bọn ta.
Nói xong y quay sang Ngô Đại Bằng và Vương Đàm nói:
- Hai vị đang đấu với gã phản tặc này, xem chừng không phải cùng bè với y, vậy xin các vị cứ tự tiện.
Ngô Đại Bằng hỏi lại:
- Thỉnh giáo tôn tính đại danh của các hạ là gì?
Gã quan quân kia vỗ lên sợi nhuyễn tiên đen nhánh đeo bên hông nói:
- Tại hạ là Hắc Long Tiên Sử Tùng, phụng tướng lệnh của Ngao thiếu bảo cầm nã phản tặc Thiên Địa Hội.
Ngô Đại Bằng gật đầu quay sang nói với Mao Thập Bát:
- Mao huynh, thiên phụ địa mẫu.
Mao Thập Bát mở to đôi mắt hỏi lại:
- Ngươi nói chi?
Ngô Đại Bằng mủm mỉm cười đáp:
- Chẳng có gì cả, Mao huynh, xem chừng tôn huynh không phải là người trong Thiên Địa Hội, cớ sao lại ca tụng họ là lẽ gì?
Mao Thập Bát đáp:
- Thiên Địa Hội bảo vệ bách tính, giết bọn Thát tử, làm những việc anh hùng, dĩ nhiên phải là anh hùng hảo hán rồi. Trên giang hồ người ta đồn rằng:
Bằng như chẳng biết ông Trần,
Còn đâu mà bảo anh hùng với ai.
Trần Cận Nam Trần tổng đà chủ, là lãnh tụ của Thiên Địa Hội. Những bằng hữu trong Thiên Địa Hội đều là thủ hạ của tổng đà chủ, lẽ nào lại không phải anh hùng hảo hán?
Ngô Đại Bằng nói:
- Mao huynh cũng biết đến Trần tổng đà chủ hay sao?
Mao Thập Bát bực tức đáp:
- Cái gì? Ngươi khinh ta không phải anh hùng hảo hán chăng?
Y nổi cáu như thế hiển nhiên là không biết Trần Cận Nam rồi. Ngô Đại Bằng mỉm cười đáp:
- Không dám.
Mao Thập Bát lại tiếp:
- Thế thì không lẽ nhà ngươi lại biết được Trần tổng đà chủ?
Ngô Đại Bằng lắc đầu. Sử Tùng hỏi Ngô Vương hai người:
- Hai người có biết ai là người trong Thiên Địa Hội không? Nếu có tin tức gì nói cho ta nghe, nếu bọn ta bắt được đầu mục của chúng, tỉ như tên Trần Cận Nam gì đó chẳng hạn, Ngao thiếu bảo thể nào cũng trọng thưởng.
Ngô Đại Bằng và Vương Đàm chưa kịp đáp, Mao Thập Bát đã cười phá lên:
- Con mẹ bay chớ có mơ chuyện hão huyền, thứ đồ như ngươi mà đòi bắt được Trần tổng đà chủ của Thiên Địa Hội? Ngươi mở mồm ra là Ngao thiếu bảo, gã Ngao Bái đó tự xưng đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu, võ công y đến cỡ nào?
Sử Tùng đáp:
- Ngao thiếu bảo trời sinh thần dũng, võ công cái thế, ngay trên đường phố Bắc Kinh đã từng đấm một cái chết một con bò điên, tên phản tặc như ngươi có biết hay chăng?
Mao Thập Bát chửi lại:
- Cái con bà ngươi, ta đếch thèm tin Ngao Bái lại ghê gớm đến thế, đang định lên Bắc Kinh đấu với y một phen đây.
Sử Tùng cười nhạt:
- Cái hạng ngươi mà đòi động thủ với Ngao thiếu bảo ư? Lão nhân gia chỉ cần di một ngón tay đã chết ngươi rồi. Họ Mao kia, nói bá láp bá xàm đã nhiều, bây giờ theo bọn ta đi thôi.
Mao Thập Bát nói:
- Đâu có dễ thế được? Các ngươi ở đây tất cà mười ba người, lão tử một chọi mười ba, dẫu biết chắc đánh không lại nhưng cũng phải làm một trận.
Ngô Đại Bằng mỉm cười nói:
- Mao huynh sao lại lạnh nhạt đến thế? Bọn mình ba đánh mười ba, một người chọi bốn, chắc đâu đã thua.
Sử Tùng và Mao Thập Bát đều kinh hãi. Sử Tùng nói:
- Hai vị đừng có nghĩ nhảm, tạo phản trợ nghịch không phải chuyện đùa đâu.
Ngô Đại Bằng đáp:
- Trợ nghịch thì đã hẳn rồi, tạo phản thì quả là không dám.
Sử Tùng nói:
- Trợ nghịch tức là tạo phản. Hai người hãy suy nghĩ cho kỹ, có quả là muốn tiếp tay cho tên phản tặc này không?
Ngô Đại Bằng đáp:
- Nửa năm trước, Mao huynh và vị Vương huynh đệ từng ước định, đúng ngày hôm nay sẽ tỉ võ hội hữu ở nơi đây, lại kéo luôn cả tại hạ vào. Có ngờ đâu quan phủ không rõ nguồn cơn, lại đem Mao huynh giam vào ngục. Y là một hảo hán tử nói ra giữ lời, hôm nay nếu không phó ước thì từ rày về sao còn là hạng người gì trên giang hồ nữa? Y vượt ngục sát nhân, âu cũng là bởi quan phủ ép y phải làm như thế. Cái đó gọi là quan bức dân phản, không thể không làm loạn. Sử đại nhân, nếu như ngươi nể mặt lão hán, thì nên đem binh quay trở về, đợi lão hán và Mao huynh công phu thắng bại ra sao đã, ngày mai ngươi bắt hay không bắt y, chuyện đó lão hán và Vương huynh đệ không liên can gì tới.
Sử Tùng đáp:
- Không được!
Trong đội quan quân bỗng có một người lên tiếng chửi:
- Thằng già kia còn lèm bèm lắm lời gì thế?
Y vừa nói vừa rút đao ra khỏi vỏ, hai chân kẹp một cái giục ngựa chạy xông tới, giơ cao thanh đao, chém thẳng xuống đầu Ngô Đại Bằng. Ngô Đại Bằng nghiêng qua tránh được nhát dao, tay phải vươn ra, thân hình nhảy lên nắm ngay lưng, tiện tay hất một cái đẩy y ngã xuống. Bọn quan quân liền kêu la rầm rĩ:
- Làm phản rồi! Làm phản rồi!
Cả bọn nhao nhao nhảy xuống ngựa, vây bọn Ngô Đại Bằng ba người lại. Mao Thập Bát bị thương ở đùi, đứng dựa vào gốc cây, vung đao chém xuống đã giết ngay được một tên quân quan, cương đao lia ngang, một tên lính khác bị chém ngang hông chết tốt. Những đứa còn lại thấy y dũng mãnh nhất thời không ai dám tới gần. Sử Tùng hai tay chống nạnh, ngồi trên lưng ngựa lược trận.
Vi Tiểu Bảo vốn dĩ bị quân quan vây vào giữa, nhân lúc Sử Tùng cùng Mao Thập Bát, Ngô Đại Bằng đối đáp, y liền rón rén lui ra khỏi vòng tròn. Bọn quân quan cũng chẳng hiểu thằng bé con ốm o này ở đây làm gì nên cũng chẳng ai thèm để tâm. Đến khi mọi người động thủ rồi thì y đã trốn ở sau một gốc cây cách đám đông đến vài ba trượng, nghĩ thầm: “Ta nên bỏ chạy cho mau hay ở lại đây đứng xem? Bọn Mao đại ca chỉ có ba người, chắc sẽ bị bon quân quan giết sạch. Không biết vị quân gia kia có giết mình không?” Y chợt nghĩ lại: “Mao đại ca coi ta là hảo bằng hữu, đã nói rằng có nạn cùng chịu, có phúc cùng hưởng. Thế mà nếu như ta len lén bỏ đi thì đâu có còn là nghĩa khí”.
Ngô Đại Bằng múa chưởng đánh vào một tên quân quan. Vương Đàm cũng giương song bút đấu với ba tên lính khác. Khi đó Mao Thập Bát cũng đã chém đứt chân một tên, gã đó nằm lăn trên vũng máu, kêu toáng lên chửi rủa, tiếng nghe rợn người. Sử Tùng hú lên một tiếng dài, Hắc Long Tiên vung ra cầm tay, tiếp đó nhảy xuống ngựa. Hai chân y chưa chấm đất, đầu roi đã nhắm ngay Mao Thập Bát cuộn tới. Mao Thập Bát sử dụng Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao đao pháp, kiến chiêu sách chiêu, bảy tám đòn lợi hại của Sử Tùng đều bị y dùng đao đánh dạt trở về. Bỗng nghe Ngô Đại Bằng quát lên một tiếng rồi thấy một người bay vọt ra, nghe bịch một tiếng đã nằm thẳng cẳng dưới đất, đám quân quan lại thiếu thêm một người.
Ở bên kia Vương Đàm một chọi ba nên dần dần bị núng thế, đùi bên trái bị răng cưa thanh đao cứa một đường, máu tươi túa ra, tuy chân khập khiễng nhưng đành để máu chảy cố gắng ra sức đấu tiếp. Ba gã đấu với Ngô Đại Bằng võ công cũng không phải là kém, song đao nhất kiếm, cứ lượn lờ chung quanh thân người y, Ma Vân Chưởng lực của Ngô Đại Bằng nhất thời không sao đánh trúng bọn chúng được.
Nhuyễn tiên của Sử Tùng đánh ra càng lúc càng nhanh nhưng vẫn không làm gì được Mao Thập Bát, đột nhiên ra chiêu Bạch Xà Thổ Tín, đầu tiên điểm vào vai phải đối phương. Mao Thập Bát giơ đao hết sức gạt ra, ngờ đâu chiêu đó Sử Tùng chỉ sử hư chiêu, cổ tay rung một cái, biến ra Thanh Đông Kích Tây, rồi lại biến thành Ngọc Đái Vi Yêu[4], Hắc Long Tiên đành vung ra bên trái, lập tức quay ngược lại, từ trái trở về bên phải, quấn lấy ngang hông Mao Thập Bát.
Chân Mao Thập Bát cử động khó khăn, chỉ nhờ dựa lưng vào gốc cây, chiêu Ngọc Đái Vi Yêu kia, y chỉ cần nhảy tới hay lùi lại là có thể tránh được, nhưng ở vào nước này chỉ còn có nước đỡ thẳng tay nên lập tức vung đao nhắm ngay đầu roi chém xuống. Sử Tùng đột nhiên buông tay để tuột cán roi, nhuyễn tiên liền chìm xuống, đột nhiên chuyển đầu, nhanh chóng dị thường cuốn ngay lại, trói chặt Mao Thập Bát vào gốc cây, cuốn đủ ba vòng, nghe cạch một tiếng, đầu roi đã đánh trúng ngực y.
Sử Tùng vốn định bắt sống Mao Thập Bát để tra hỏi cho ra tin tức về Thiên Địa Hội, thấy Ngô Đại Bằng và Vương Đàm chưa chịu hàng phục nên phải nhặt lại Hắc Long Tiên mà dùng. Y cúi xuống nhặt ngay một thanh đơn đao định chặt đứt cánh tay phải Mao Thập Bát.
Y vừa cầm đao lên đứng dậy, bỗng thấy bóng trắng thấp thoáng, vô số bụi phấn bay vào mắt, vào mũi, vào miệng khiến y ngộp thở, rồi hai mắt nhức nhối tưởng như có hàng nghìn hàng vạn mũi kim chích vào, toan há mồm thì miệng đã đầy bột rồi cổ họng như bị nút chặt kêu không ra tiếng.
Việc xảy ra hết sức bất ngờ nên y dù có là tay lão luyện giang hồ mà cũng hoảng hốt, tay lỏng ra, đơn đao rơi xuống đất, hai tay đưa lên dụi mắt, dụi một hồi mới nghĩ ra: “Chết rồi! Kẻ địch dùng vôi sống ném vào mắt ta”. Vôi sống gặp nước liền sủi lên, lập tức cháy mù mắt y, ngay lúc đó thấy bụng lạnh toát, một thanh đơn đao đã cắm ngập vào rồi. Mao Thập Bát bị nhuyễn tiên quấn chặt, không còn làm gì được nữa, bỗng thấy phấn trắng tung tóe, đơn đao của Sử Tùng tuột ra, hai tay ôm mắt dụi lia lịa, đang ngạc nhiên đã thấy Vi Tiểu Bảo nhặt thanh đao lên, đâm thẳng vào bụng Sử Tùng rồi lại chui tọt ra nấp sau gốc cây.
Sử Tùng lảo đảo, quay mấy vòng rồi lăn đùng ra. Mấy tên quân quan kinh hãi cùng kêu lên:
- Sử đại ca, Sử đại ca!
Ngô Đại Bằng tay trái sử chiêu Thiết Thụ Khai Hoa, chưởng lực nhả ra, một tên lính bay ra mấy trượng, miệng hộc máu tươi, năm tên còn lại liệu thế địch không nổi, cũng chẳng còn bụng dạ nào chiến đấu nên quay người bỏ chạy, đến ngay ngựa cưỡi cũng chẳng màng. Ngô Đại Bằng quay lại nói:
- Mao huynh quả là ghê gớm, gã Hắc Long Tiên Sử Tùng này võ công cao cường, thế mà hôm nay táng mạng nơi tay lão huynh.
Y thấy Sử Tùng bụng bị đâm một đao chết tốt nên đồ rằng hẳn do tay Mao Thập Bát. Mao Thập Bát lắc đầu:
- Thật là xấu hổ, y do tay Vi huynh đệ giết đó thôi.
Ngô Vương hai người hết sức ngạc nhiên, cùng hỏi:
- Do thằng bé này giết ư?
Mới rồi hai người chuyên tâm đối phó kẻ địch nên nào có thấy Vi Tiểu Bảo ném vôi bột, còn dưới đất thì xác chết, máu me vương vãi, khi bị thương lăn lộn dính đầy bùn bẩn, dẫu có vôi bột rải ra nhưng hai người nào có để ý. Mao Thập Bát đưa tay chộp lấy đầu nhuyễn tiên cởi ra, vù một tiếng đã quật lên đầu Sử Tùng. Sử Tùng bụng trúng đao còn ngắc ngoải, bị nhuyễn tiên đánh trúng thiên linh cái, lập tức chết ngay. Mao Thập Bát kêu lên:
- Vi huynh đệ, ngươi công phu giỏi thật.
Vi Tiểu Bảo từ sau gốc cây chui ra, nghĩ đến tay mình vừa giết một quan lão gia, trong bụng tuy cũng có một phần đắc ý nhưng không khỏi chín phần sợ hãi. Ngô Vương hai người bán tín bán nghi, đưa mắt nhìn Vi Tiểu Bảo từ đầu đến chân xem thế nào, chỉ thấy y mặt mày nhợt nhạt, run như cầy sấy, hai mắt rưng rưng, người loạng choạng đứng không vững, tưởng chừng có thể khóc òa lên ngay lập tức hay rống lên: “Ối mẹ ơi!” chứ không có vẻ là người đã giết Hắc Long Tiên Sử Tùng chút nào.
Ngô Đại Bằng nói:
- Tiểu huynh đệ, ngươi dùng chiêu thức nào để giết y thế?
Vi Tiểu Bảo run rẩy đáp:
- Ta … ta … ta giết vị quan … quan … lão gia này đấy sao? Không, không! Không phải tôi giết đâu, không … không phải tôi …
Y biết rằng tội giết quan nặng lắm, trong cơn hoảng loạn, chỉ còn nước chối bai bải. Mao Thập Bát cau mày, lắc đầu nói:
- Ngô lão gia tử, Vương huynh, nhờ được hai vị rút đao tương trợ, cứu mạng cho huynh đệ. Vậy bọn mình còn đánh nữa hay thôi?
Ngô Đại Bằng đáp:
- Chuyện cứu mạng gì đó khoan hãy nói đến vội. Vương huynh đệ, ta xem vụ này chẳng cần đánh tiếp nữa.
Vương Đàm nói:
- Không đánh trhì thôi. Tiểu đệ và Mao huynh vốn dĩ nào có thâm cừu đại hận gì đâu, tất cả kết giao bằng hữu, có phải hay không? Mao huynh võ công cao cường lại có đảm lượng, huynh đệ mười phần bội phục.
Ngô Đại Bằng nói:
- Mao huynh, chúng ta từ biệt nhau nơi đây, núi cao sông dài có lúc gặp lại. Mao huynh cực kỳ khâm bội Trần tổng đà chủ của Thiên Địa Hội, câu nói đó, huynh đệ thể nào cũng tìm cách trình lại để Trần tổng đà chủ lão nhân gia được biết.
Mao Thập Bát cực kỳ vui sướng, tiến lên một bước ấp úng:
- Tôn huynh … tôn huynh quen biết với Trần tổng đà chủ chăng?
Ngô Đại Bằng cười nói:
- Ta và vị Vương huynh đệ đây, đều là dân chạy việc trong Hoằng Hóa Đường của Thiên Địa Hội. Tệ hội được Mao đại ca coi trọng như thế, chẳng nói gì trước nay không xích mích gì, ví thử nếu như có ân oán chăng nữa thì cũng một bút sổ toẹt thôi.
Mao Thập Bát vừa mừng vừa ngạc nhiên nói:
- Thì ra … thì ra tôn huynh quả nhiên biết Trần Cận Nam.
Ngô Đại Bằng đáp:
- Anh em trong tệ hội rất đông, Trần tổng đà chủ hành tung vô định, tại hạ trong tệ hội chức vụ thấp hèn, chưa từng được gặp mặt Trần tổng đà chủ, việc đó mới rồi quả không dám dối trá.
Mao Thập Bát nói:
- Thì ra là thế!
Ngô Đại Bằng vòng hai tay, quay mình bước đi, song chưởng vung ra nghe tiếng bốp bốp liên tiếp, trên mỗi tên quân quan đều đánh thêm một chưởng, không kể những người đó còn sống hay đã chết, trúng phải chưởng lực của y rồi nếu chết thì gân cốt gãy nát, còn sống thì cũng tắt thở. Mao Thập Bát tấm tắc:
- Hảo chưởng lực.
Y thấy hai người đi đã xa, lúc ấy mới lẩm bẩm:
- Thì ra cả hai người đều ở trong Thiên Địa Hội.
---
[1] Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.
[2] Yêu triền thập vạn quán,
Kỵ hạc thướng Dương Châu.
[3] Kẻ buôn lậu muối
[4] đai ngọc quanh ngang lưng