Ngô Chi Vinh lên đến Bắc Kinh, liền viết ngay một tờ trình, cáo giác với bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty ba nơi, nói rõ họ Trang đút lót các nơi thế nào để đổi bản in mới.
Ngờ đâu y ở kinh thành chờ đến hơn một tháng, cả ba nơi đều trước sau trả lời, nói là đã xem kỹ Minh Thư Tập Lược của Trang Đình Long, nội dung không có chỗ nào phạm cấm, những điều tri huyện bị cách chức là Ngô Chi Vinh cáo buộc, không phải chuyện thực, hiển nhiên chỉ vì thù ghét mà vu oan cho người ta, còn như quan lại ăn của đút gì gì đó, đều chỉ là những chuyện vu vơ đặt điều không nói thành có. Tờ phúc đáp của Thông Chính Ty còn gay gắt hơn nói rằng:
“Tên Ngô Chi Vinh vì tham ô mà bị cách chức, cứ tưởng quan lại trên đời này ai ai cũng như y cả.”
Thì ra Trang Duẫn Thành đã được Trình Duy Phiên chỉ bảo nên đã đem bộ Minh Sử mới gửi lên tặng bộ Lễ, Đô Sát Viện và Thông Chính Ty rồi, các quan lại sư gia người nào cũng đều đã được tặng hậu lễ.
Ngô Chi Vinh lại bị thêm một vố đau nữa, thấy dẫu có về quê cũng chẳng xong, chỉ còn có nước lưu lạc ăn nhờ ở đậu nơi đất lạ. Thời đó người Thanh đối với văn nhân người Hán cực kỳ khắc nghiệt, nếu viết gì có chút cấm kỵ là xử tử ngay, Ngô Chi Vinh nếu như tố cáo một kẻ tầm thường thì đã xong rồi, có điều đối thủ lại là một gia đình giàu có, thành ra mới khó khăn đến thế. Có điều đã đến nước cùng không còn đường lui, thôi thì dẫu có ngồi tù thì cũng phải theo đuổi cho đến đầu đến đũa, thành thử viết thêm bốn tờ bẩm thiếp nữa, trình lên bốn vị cố mệnh đại thần, rồi lại ngồi trong khách điếm viết thêm mấy trăm tờ truyền đơn, kể rõ khúc nhôi đem dán khắp thành Bắc Kinh.
Việc đó của y quả là làm liều, nếu như quan phủ truy ra gán cho cái tội ăn càn nói rỡ, ưu loạn nhân tâm thì không tránh khỏi cái tội sát thân.
Bốn viên cố mệnh đại thần đó tên là Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long, Ngao Bái[1] đều là khai quốc công thần của nhà Mãn Thanh. Khi vua Thuận Trị từ trần đã để di chiếu ủy thác cho bốn người này phụ chính. Trong bốn người đó thì Ngao Bái là kẻ bạo ngược nhất, trong triều phe đảng của y cực đông, đại quyền nhà Thanh dường như một tay y nắm hết. Y sợ rằng đảng đối nghịch gây chuyện bất lợi cho mình cho nên sai ra rất nhiều thám tử, trong ngoài kinh thành dò xét động tĩnh.
Hôm đó y được mật báo, nói là trong thành Bắc Kinh xuất hiện vô số truyền đơn, tố giác tên dân họ Trang ở Chiết Giang viết sách mưu phản, đại nghịch bất đạo nhưng quan lại Chiết Giang ăn của đút nên ém nhẹm đi không lý đến.
Ngao Bái nhận được tin đó lập tức tra xét, cũng vừa lúc tờ cáo trạng của Ngô Chi Vinh vào đến phủ, phong ba bão tố nổi lên. Y cho đòi Ngô Chi Vinh vào gặp, hỏi han ngọn ngành đầu đuôi rồi cho bọn thủ hạ người Hán xem kỹ nguyên bản Minh Sử, những lời nói ra quả nhiên là thật.
Ngao Bái vốn do công lao trận mạc mà được phong đến tước Công, làm quan to, trước nay vẫn ghét bỏ người Hán và bọn nho sĩ, bây giờ chấp chưởng đại quyền đang rình rập để lập vài vụ đại án, trấn nhiếp nhân tâm, để người Hán không dám có bụng phản loạn, lại khiến những kẻ đối nghịch trong triều chẳng dám ho he. Y lập tức phái khâm sai xuống Chiết Giang tra cứu.
Chuyện như thế, lẽ dĩ nhiên toàn gia họ Trang bị giải về kinh, mà cả tướng quân Hàng Châu là Tùng Khôi, tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tộ cùng quan viên lớn bé, đều bị cách chức để điều tra. Những danh sĩ được liệt kê trên cuốn Minh Sử, không ai là thoát khỏi cảnh tù đày.
Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi hai người ở trong nhà Lã Lưu Lương kể lại từ đầu chí cuối nguyên do vụ án rồi, Lã Lưu Lương chỉ còn nước thở dài sườn sượt. Đêm hôm đó ba người kê giường cạnh nhau bàn tán, nghị luận chuyện đời, nhắc đến thời Minh mạt bọn thái giám Ngụy Trung Hiền hãm hại trung lương, lũng đoạn triều chính, làm chuyện trái tai gai mắt, đến nỗi Minh thất bị sụp đổ. Trung Quốc rơi vào tay người Mãn Thanh rồi, người Hán càng bị chém giết thảm khốc hơn, tai họa càng sâu không ai không khỏi chau mày nghiến răng.
Sáng sớm hôm sau, toàn gia Lã Lưu Lương và Cố Hoàng hai người xuống thuyền đi về hướng đông. Ở Giang Nam những nhà khá giả đều có sẵn thuyền, đường thủy giăng mắc tứ phía, dày đặc như mạng nhện nên ai ai cũng đi bằng thuyền, thành thử mới có câu “người Bắc đi ngựa, người Nam đi thuyền”, từ xưa đã thế.
Đến Hàng Châu, theo Vận Hà đi thuyền ngược lên mặt bắc. Tối hôm đó ở ngoài thành Hàng Châu nghe ngóng tin tức, Thanh triều nhân vụ án này chém giết rất nhiều quan viên bách tính; Trang Đình Long chết rồi cũng bị quật mồ lên, còn Trang Duẫn Thành ở trong ngục chịu khảo đả không nổi cũng đã từ trần, nhà họ Trang mấy chục người, từ mười lăm tuổi trở lên đều bị xử trảm, vợ con thì bị đày đi Phiên Dương, làm nô tì cho các kỳ binh Mãn Châu. Tiền Lễ Bộ thị lang Lý Lệnh Triết là người đề tựa thì bị lăng trì xử tử, bốn người con bị xử trảm. Đứa con út của Lý Lệnh Triết mới mười sáu tuổi, pháp ty thấy giết nhiều người quá trong dạ cũng xót xa nên bảo y khai thụt đi một tuổi, chiếu theo luật nhà Thanh, từ mười lăm tuổi trở xuống được miễn tội chết mà chỉ phải sung quân. Thiếu niên đó nói:
- Cha tôi anh tôi đều chết cả rồi, tôi cũng chẳng muốn sống một mình.
Y nhất định không đổi lời khai nên cũng bị chém đầu. Tùng Khôi, Chu Xương Tộ bị giam trong ngục chờ thẩm vấn, còn mạc khách Trình Duy Phiên thì bị lăng trì bỏ ngoài chợ. Hai học quan ở Qui An, Ô Trình đều bị chém. Vụ án cứ thế mà lan ra, những người vô tội bị giết không biết bao  nhiêu mà kể. Tri phủ Ho đây.
Cảnh xưa nhìn lại hôm nay,
Hỏi ai ngậm đắng nuốt cay sao đành.
Tranh kia nước mắt vẽ thành,
Lệ ta pha mực đan thanh đôi hàng.
Xem tranh chua xót bẽ bàng,
Ngậm trong bốn chữ há màng thêm văn.
Ước gì Hồng Võ tái sanh,
Mù kia sáng mắt, què lành đôi chân.
Ngọc lại sáng, mây mù tan,
Muôn dân vui sướng ca vang đất trời.”
(Kỳ vi Tống chi nam độ da?
Như thử giang sơn chân khả sỉ.
Kỳ vi Nhai sơn dĩ hậu da?
Như thử giang sơn bất nhẫn thị.[10]
Ngô kim thủy ngộ tác họa ý,
Thống khốc lưu thế hữu nhược thị.
Dĩ kim thị tích tích do kim,
Thôn thanh bất dụng mai hàm chủy.
Họa tương Cao Vũ tây đài lệ.
Nghiên nhập đan thanh đề bút thử.
Sở dĩ hữu họa vô thi văn,
Thi văn tận tại tứ tự lý.
Thường vị sinh phùng Hồng Võ sơ,
Như cổ hốt đồng phả khả lý.
Sơn xuyên khai tế cố bích hoàn,
Hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ?)
Viết xong, Lã Lưu Lương vứt bút xuống đất bùi ngùi rơi lệ. Cố Viêm Võ nói:
- Quả là thống khoái lâm li, tuyệt diệu hảo từ.
Lã Lưu Lương đáp:
- Bài thơ này chẳng có gì hàm súc, không thể coi là hay được, chỉ vẽ lại cái nguyên ý của Nhị Chiêm tiên sinh, để người xem tranh có thể hiểu được đấy thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đến bao giờ nước non tươi sáng trở lại, khi đó “sơn xuyên khai tế cố bích hoàn”, thì dẫu có núi nghèo nước dở thế nào chăng nữa thì mình coi cũng không chán mắt, lúc ấy đúng thật là “hà xứ đăng lâm bất cuồng hỉ”.
Cố Viêm Võ đáp:
- Bài thơ này kết thực hay! Thể nào rồi cũng có ngày mình đuổi được quân Hồ Lỗ, lấy lại sơn hà cho Đại Hán chúng ta thì niềm vui đó hùng tráng gấp bao nhiêu lần cái bi phẫn hôm nay.
Hoàng Tông Hi chậm rãi cuốn bức tranh lại nói:
- Bức tranh này không còn treo được nữa rồi, Vãn Thôn huynh nên cất kỹ đi là hơn. Nếu để những kẻ gian ác như Ngô Chi Vinh trông thấy, rồi quan phải đến tra xét, lẽ dĩ nhiên Vãn Thôn huynh bị làm phiền mà còn liên lụy đến cả Nhị Chiêm tiên sinh.
Cố Viêm Võ vỗ bàn chửi:
- Cái tên cẩu tặc Ngô Chi Vinh, ta thực hận không được ăn sống nuốt tươi nó.
Lã Lưu Lương nói:
- Hại vị hạ cố đến chơi bảo là có việc quan trọng. Bọn thư sinh như mình xưa nay chỉ quen làm thơ đề họa, còn chuyện chính lại chẳng lo, không hiểu có chuyện chi thế?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Hai chúng ta đến hôm nay cũng vì người nhà của Nhị Chiêm tiên sinh là Y Hoàng tiên sinh. Tiểu đệ và Cố huynh hôm trước được tin, hóa ra vụ án Minh Sử có liên can đến cả Y Hoàng tiên sinh nữa.
Lã Lưu Lương kinh hãi hỏi lại:
- Y Hoàng huynh cũng có liên quan ư?
Hoàng Tông Hi đáp:
- Quả thế. Chiều hôm qua hai chúng ta lật đật đi qua Viên Hoa trấn ở Hải Ninh, Y Hoàng tiên sinh không có nhà, nói là đi thăm bạn rồi. Viêm Võ huynh thấy sự tình cấp bách, dặn người nhà Y Hoàng tiên sinh trốn ngay đi, lại nghĩ Y Hoàng tiên sinh với Vãn Thôn huynh có giao tình rất hậu nên vội đến báo tin.
Lã Lưu Lương lắp bắp:
- Y...  y không đến đây, chẳng biết đi đâu.
Cố Viêm Võ nói:
- Nếu ông ta có mặt trong quí phủ thì hẳn đã ra gặp nhau rồi. Tại hạ cũng có đề một bài thơ trên tường thư phòng của y, nếu đã về nhà thì cũng minh bạch mà tìm đường trốn tránh, chỉ sợ không biết tin nên lộ diện ra bên ngoài, để quan quân bắt được, ấy mới là khốn khổ.
Hoàng Tông Hi nói:
- Vụ án Minh Sử này khiến cho tất cả danh sĩ ở Chiết Giang đều rơi vào độc thủ. Dụng ý của Thanh đình cực kỳ ác độc, tên tuổi của Vãn Thôn huynh lại quá lớn, cứ như ý của Đình Lâm huynh và của tiểu đệ, muốn khuyên Vãn Thôn huynh tạm thời xa nhà đi chơi đâu để tránh khỏi cơn phong ba này.
Lã Lưu Lương hậm hực nói:
- Hoàng đế Thát tử nếu như muốn bắt tại hạ giải về Bắc Kinh, lăng trì xử tử thì cũng phải chửi cho y một trận cho hả dạ, rồi có chết cũng cam lòng.
Cố Viêm Võ nói:
- Hào khí của Vãn Thôn huynh quả là ngất trời khiến cho ai cũng bội phục. Chỉ sợ rằng chưa gặp được hoàng đế Thát tử mà lại chết dưới tay một đứa nô tài hạ tiện. Hơn nữa, hoàng đế Mãn Thanh chỉ là một đứa bé con, chẳng hiểu biết gì, triều chính đại quyền đều ở trong tay đại thần Ngao Bái. Huynh đệ và Lê Châu huynh cũng đã nghĩ, lần này sở dĩ vụ án Minh Sử bọn chúng đánh trống khua chiêng, sấm ran chớp giật, hẳn là Ngao Bái muốn đập cho tan nhuệ khí của sĩ phu Giang Nam chúng ta đấy thôi.
Lã Lưu Lương đáp:
- Sở kiến của hai vị quả là chính đáng. Từ khi Thanh binh nhập quan đến nay, nơi Giang Bắc hoành hành không ai ngăn trở, thế nhưng đến Giang Nam thì nơi nơi đều phản kháng, những kẻ đọc sách chẳng ai là không biết cái khác biệt của Hoa Di nên đều cố tình gây hấn. Ngao Bái nhân cơ hội này nên cố tình trấn áp sĩ phu Giang Nam một chuyến cho bõ ghét.
Ôi!
Lửa đồng tuy dập nhưng nào tắt,
Gió xuân dứt đợt lại trồi lên.[11]
Trừ phi y giết sạch những kẻ đọc sách đất Giang Nam không còn một mống lúc đó mới thôi.
Hoàng Tông Hi nói:
- Đúng thế! Chính vì vậy mà chúng mình cần giữ lại tấm thân hữu dụng để một mai sống mái với quân Thát tử cho đến nơi đến chốn, chứ nếu chỉ vì cái huyết khí chi dũng nhất thời thì lại rơi vào cái bẫy của bọn chúng.
Lã Lưu Lương lúc ấy mới hiểu ra, Hoàng Cố hai người đội mưa chịu lạnh đến đây, một là đi tìm Tra Y Hoàng, hai là bảo mình lánh đi, e ngại mình nhịn không nổi, bỏ mạng một cách uổng phí, cái lòng của người bạn tốt quả thật cảm kích không biết chừng nào, bèn đáp:
- Những lời khuyên chí tình vàng đá của hai vị, huynh đệ nào dám không tuân theo? Ngay sáng sớm mai, toàn gia huynh đệ sẽ tránh đi một bước.
Hoàng Cố hai người mừng rỡ, cùng nói:
- Thôi thì cứ thế.
Lã Lưu Lương trầm ngâm nói:
- Thế nhưng không biết muốn trốn tránh thì đi đâu mới xong?
Ông chỉ thấy trời đất bao la nhưng chỗ nào cũng là đất của Thát tử, không một chỗ nào có thể bình an. Ông ngâm lên:
“Tìm đâu ra chốn Đào Nguyên?
Để ta tránh được bạo quyền một phen.[12]”
Cố Viêm Võ đáp:
- Trên cõi đời bây giờ lấy đâu ra được chỗ Đào Nguyên? Chúng ta chẳng nên tính chuyện “độc thiện kỳ thân”, trốn lánh lo cho một mình mình...
Lã Lưu Lương không để cho y dứt lời, vỗ bàn đứng dậy lớn tiếng nói:
- Đình Lâm huynh trách cứ như thế phải lắm, quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, tạm thời trốn lánh thì nên thế nhưng nếu lại kiếm một chỗ cây reo suối chảy, tiêu dao tự tại, mặc cho bách tính sinh linh chịu khổ dưới móng ngựa của bọn Thát Đát thì lòng mình sao yên? Huynh đệ quả là lỡ lời.
Cố Viêm Võ mỉm cười đáp:
- Huynh đệ những năm gần đây lang bạt kỳ hồ, kết giao được không ít bằng hữu. Từ nam chí bắc sông Trường Giang mắt thấy tai nghe đã nhiều, không phải chỉ kẻ đọc sách phản đối Thát tử, mà cả dân ngu khu đen, phu phen chợ búa, đâu đâu cũng có kẻ máu nóng dâng tràn, khẳng khái hào hiệp. Vãn Thôn huynh cũng là có ý, ba chúng ta cùng đi Dương Châu để huynh đệ dẫn kiến tôn huynh với vài anh em đồng đạo, liệu có nên chăng?
Lã Lưu Lương mừng rỡ nói:
- Thế thì còn gì bằng! Anh em mình ngày mai đi Dương Châu, hai vị ngồi chơi, huynh đệ vào từ biệt chuyết kinh để bảo tiện nội thu xếp hành lý.
Nói rồi hấp tấp đi vào nội đường. Chẳng bao lâu Lã Lưu Lương trở lại thư phòng hỏi:
- Vụ án Minh Sử tuy bên ngoài người ta bàn tán xôn xao nhưng những tin đồn miệng vị tất đã xác thực, thứ nữa người nói lại cực kỳ dè dặt, không dám nói hết, huynh đệ thui thủi một mình ở đây nên chỗ biết chưa tường tận, không biết nguyên do là thế nào?
Cố Viêm Võ thở dài một tiếng nói:
- Bộ Minh Sử đó, anh em ta cũng đã coi qua rồi, bên trong đối với bọn Thát tử không có gì cung kính, quả là có thật. Sách này vốn dĩ do tướng quốc Đại Minh chúng ta là Chu Quốc Trinh soạn ra, viết về việc ở quan ngoại thì làm gì có chuyện nể nang cho được?
Lã Lưu Lương gật đầu:
- Nghe nói nhà họ Trang ở Hồ Châu tốn mất đến mấy ngàn lạng bạc mới mua được nguyên cảo của con cháu nhà Chu tướng quốc, lấy tên mình in ra, có ngờ đâu gây ra đại họa thế này.
°
Ở phía tây Chiết Giang là ba phủ Hàng Châu, Gia Châu, Hồ Châu nằm bên bờ Thái Hồ, địa thế bằng phẳng, đất đai màu mỡ, sản xuất nhiều thóc gạo tơ tằm. Huyện đứng đầu ở Hồ Châu là Ngô Hưng, đời Thanh chia làm hai huyện Ô Trình, Qui An. Nơi đó vốn là chốn văn chương chữ nghĩa, xưa nay lắm danh sĩ xuất thân, đời nhà Lương có Thẩm Ước chia tiếng Trung Quốc ra làm bốn thanh bình thượng khứ nhập, đời Nguyên thì có Triệu Mạnh Phủ cả thư lẫn họa đều đứng đầu, hai người đều từ Hồ Châu mà ra. Đương địa lại sản xuất bút nổi tiếng, bút Hồ Châu, mực Huy Châu, giấy Tuyên Thành, nghiên Đoan Khê Triệu Khánh là những món thiên hạ trì danh trong văn phòng tứ bảo.[13]
Phủ Hồ Châu có trấn Nam Tầm, tuy tiếng chỉ là một trấn nhưng so với những châu huyện tầm thường còn lớn hơn nhiều. Trong trấn phú hộ rất đông, trong đó có một gia tộc nổi tiếng họ Trang. Khi đó nhà phú hộ họ Trang tên là Trang Duẫn Thành, sinh được mấy người con, trưởng tử tên là Đình Long, thích đọc thi thư từ nhỏ, kết giao rất đông đảo danh sĩ Giang Nam. Đến đời Thuận Trị, Trang Đình Long vì đọc sách quá nhiều nên đột nhiên bị lòa, đã tìm đủ loại danh y nhưng không sao chữa khỏi, trong lòng uất ức không vui.
Một hôm kia, có một thanh niên họ Chu ở gần bên đem tới một bộ thủ cảo[14], nói là di cảo của tổ phụ Chu tướng quốc muốn dùng làm vật thế chân để mượn vài trăm lượng bạc. Họ Trang xưa nay vốn khẳng khái, vẫn thường giúp đỡ con cháu Chu tướng quốc, nay đến mượn tiền cũng không cần y phải lấy vật gì cầm cố. Thế nhưng thanh niên họ Chu kia nói rằng sau khi mượn tiền rồi sẽ đi xa, nếu bộ di cảo này đem theo trong người e rằng thất lạc, còn để ở nhà thì lại không yên tâm nên muốn giữ tại nhà họ Trang. Trang Duẫn Thành nghe thế mới bằng lòng. Sau khi gã họ Chu đi khỏi, Trang Duẫn Thành muốn con đỡ buồn mới sai những người có chút chữ nghĩa trong nhà đọc sách đó cho con nghe.
Bộ Minh Sử Cảo của Chu Quốc Trinh phần lớn đã in ra thành sách lưu truyền nhân thế. Thế nhưng lần này người cháu ông ta đem đến nhà họ Trang để cầm là nhiều thiên liệt truyện viết sau cùng. Trang Đình Long nghe đọc mấy hôm cảm thấy hứng thú đột nhiên nghĩ ra: “Xưa kia Tả Khâu Minh cũng lòa đôi mắt, vậy mà chỉ viết một bộ Tả Truyện nên tiếng để muôn đời. Ta hiện nay mắt cũng mù, nhàn cư không có việc gì làm, sao không viết một bộ sử để lưu truyền hậu thế?”.
Con nhà đại phú làm chuyện gì cũng dễ dàng. Y có hứng làm chuyện đó lập tức mời ngay mấy người học thức đến đem bộ Minh Sử Cảo đó từ đầu đến cuối đọc cho y nghe một lượt, thấy chỗ nào cần thêm vào, chỗ nào cần bỏ bớt liền nói ra để cho tân khách chép lại.
Thế nhưng nghĩ bụng mắt mình đã lòa rồi không còn thể nào đọc hết các sách vở được nữa, bộ Minh Sử này soạn ra nếu còn nhiều chỗ sai lầm thì đã chẳng được tiếng tăm gì mà lại làm trò cười cho thiên hạ thành thử y không ngại bỏ tiền bạc mời những danh sĩ hồng nho, hết sức sửa sang để sao tận thiện tận mỹ mới vừa lòng. Nếu có những bậc đại học vấn tiền tài không thể mua chuộc được, Trang Đình Long lại khẩn khoản nhờ người khác, dùng lời lẽ nhún nhường mời mọc. Đất Thái Hồ vốn dĩ nhiều danh sĩ, được Trang gia mời đến, phần vì thương y mù lòa cảm kích tấm lòng thành, hai nữa việc giúp một tay tu bổ Minh Sử cũng là một việc tốt nên hầu hết đều đến nhà họ Trang làm khách dăm bữa nửa tháng, hoặc giú việc sửa lại những sai lầm, hoặc thêm bớt cho thêm văn vẻ, hoặc chép giùm một vài chương. Thành thử bộ Minh Sử đó quả là tập trung được nhiều đại thủ bút. Cuốn sách làm xong chưa bao lâu thì Trang Đình Long tạ thế.
Trang Duẫn Thành thương xót đứa con bạc mệnh nên lập tức lo việc in ra. Đời Thanh muốn in một quyển sách quả không phải dễ mà phải gọi thợ khắc thành mộc bản, lúc ấy mới in thành sách được. Bộ Minh Sử đó rất dày, tiền công khắc bản gỗ và in ấn rất tốn kém. Thế nhưng nhà họ Trang lắm bạc nhiều tiền, lập tức dọn ngay mấy căn phòng lớn làm xưởng việc, gọi thêm thợ chỉ mấy năm sau sách đã in xong. Cuốn sách đó có nhan đề là Minh Thư Tập Lược, người soạn là Trang Đình Long, lại mời danh sĩ Lý Lệnh Triết đề tựa. Tất cả những người đã từng giúp đỡ hoàn thành cuốn sách đều được in ở đầu, nào là Mao Nguyên Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung, Lý Nhưng Đào, Mao Thứ Lai, Ngô Sở, Đường Nguyên Lâu, Nghiêm Vân Khởi, Tưởng Lân Trưng, Vi Kim Hựu, Vi Nhất Viên, Trương Tuấn, Đổng Nhị Dậu, Ngô Viêm, Phan Sanh Chương, Lục Kỳ, Tra Kế Tá, Phạm Tương...  tổng cộng cả thảy mười tám danh sĩ.
Trong sách cũng ghi là bộ này căn cứ thêm bớt vào bản nháp của Chu thị mà thành, có điều Chu Quốc Trinh là tướng quốc nhà Minh, danh tiếng quá lớn nên không tiện để thẳng tên nên chỉ nói lập lờ là “Chu thị nguyên cảo”.
Minh Thư Tập Lược qua biết bao nhiêu tay danh sĩ học giả sử đổi chọn lựa nên quả cực kỳ đầy đủ, nói đâu ra đấy, văn chương lại chau chuốt thanh nhã, in ra rồi rất được người trong sĩ lâm tán thưởng. Trang gia lại cốt để được tiếng tăm nên giá bán thật hạ. Trong nguyên cảo mỗi khi nhắc đến người Mãn Châu, vốn dĩ không thiếu gì những đoạn chê bai, nhưng người tu đính đều đem bỏ đi hết nhưng những đoạn tán dương triều Minh không thể không có. Lúc đó nhà Minh mất chưa lâu, người đọc sách dạ hoài cố quốc nên sách in ra ai nấy đều mát lòng mát dạ, tên tuổi của Trang Đình Long nổi như cồn khắp Giang Nam, Giang Bắc. Trang Duẫn Thành tuy đau lòng nhưng thấy con người tuy mất nhưng danh vẫn còn, cũng thấy an ủi cho tuổi già.
Thế nhưng vào thời loạn, tiểu nhân đắc chí khiến người quân tử gặp tai ương. Tri huyện Qui An ở Hồ Châu tên là Ngô Chi Vinh, làm quan tham lam chẳng kể gì đến phép nước, trăm họ hận y tận xương tủy, khiến cho có người tố cáo nên bị triều đình cách chức. Ngô Chi Vinh làm tri huyện Qui An tuy bòn rút được đến trên vạn lạng bạc nhưng khi lệnh cách chức xuống rồi, y chạy đôn chạy đáo khắp nơi để khỏi bị tù tội nên bao nhiêu tiền bạc tích cóp được đều hết nhẵn, đến cả gia nhân cũng bỏ đi đâu không biết. Y quan chức lẫn tiền bạc đều chẳng còn, chỉ còn cách đến các nhà có máu mặt tả oán, than rằng làm quan thanh bạch, nay bị về vườn, chẳng còn đồng xu dính túi để ăn đường nên không thể nào qui cố hương được.
Những phú hộ đó chẳng muốn rầy rà, nên ai cũng cho y ít nhiều, kẻ mười lạng người tám lượng. Khi y đến nhà họ Chu, chủ nhân Chu Hựu Minh vốn là người chính nhân quân tử, ghét kẻ ác như kẻ thù, đã chẳng cho đồng nào thì chớ lại mắng cho một trận, bảo là các hạ làm quan, bách tính trăm điều khổ sở, họ Chu này dù có tiền thì cũng đem đi giúp cho những người bị các hạ hút máu hút mủ còn hơn. Ngô Chi Vinh tuy giận lắm nhưng cũng chẳng làm gì được, y bị cách chức rồi, quyền không mà thế cũng không, đâu có dám cà khịa với một phú gia bát ăn bát để? Sau đó y bèn nuốt hận đi sang bái phỏng Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành bình thời chỉ kết giao với thanh lưu danh sĩ, vẫn chẳng coi bọn quan lại vào đâu, thấy y đến mè nheo, cười nhạt một tiếng, thí cho y một lượng bạc nói:
- Cái thứ người như các hạ, đúng ra một lượng cũng chẳng đáng cho, có điều nhân dân Hồ Châu chỉ mong các hạ đi sớm ngày nào khuất mắt ngày ấy, cho một lượng để cút sớm một khắc, cũng là điều hay.
Ngô Chi Vinh trong bụng tức lắm, liếc qua thấy trên bàn có để một bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Tên họ Trang này tính thích phỉnh phờ, người ta chỉ cần khen bộ Minh Thư Tập Lược này vài câu là lập tức đem tiền dâng ngay, không hề ngần ngại”. Y bèn cười cầu tài nói:
- Trang công hậu tứ, không nhận thì không cung kính. Huynh đệ hôm nay từ biệt Hồ Châu, điều đáng tiếc nhất là không mang được một bộ Hồ Châu chi bảo về quê để cho những kẻ cô lậu quả văn nơi tệ hương được mở mắt.
Trang Duẫn Thành hỏi lại:
- Cái gì mà gọi là Hồ Châu chi bảo?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Trang công quả là khiêm tốn quá! Trong chốn sĩ lâm, ai ai cũng đều tấm tắc, lệnh lang Đình Long công tử thân bút soạn ra bộ Minh Thư Tập Lược, sử tài, sử thức, sử bút cả ba điều tự cổ đến nay hiếm ai hơn được, Tả Mã Ban Trang, đó là cổ kim lương sử tứ đại gia. Hồ Châu chi bảo chính là bộ Minh Sử do lệnh lang thân bút soạn ra chứ còn gì nữa.
Ngô Chi Vinh nhắc đi nhắc lại “do chính lệnh lạng soạn ra”khiến Trang Duẫn Thành nghe mà như nở hoa trong bụng. Ông biết rõ bộ sử này nào có phải do chính con mình “thân bút”đâu, trong lòng không khỏi áy náy nhưng Ngô Chi Vinh nói thế quả là gãi đúng chỗ ngứa, nghĩ thầm: “Ai ai cũng bảo gã này tham lam, là một tên tiểu nhân hèn hạ, hóa ra y cũng là người đọc sách có chút kiến thức. Thì ra bên ngoài người ta bảo tập sách của Long nhi là Hồ Châu chi bảo, bây giờ ta mới nghe lần đầu”.
Trang công mặt mày tươi rói nói:
- Vinh công nói gì mà Tả Mã Ban Trang, cổ kim tứ đại lương sử, huynh đệ có điều chưa rõ, mong được chỉ giáo.
Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành dịu hẳn lại, biết rằng cá đã cắn câu, trong bụng mừng thầm, liền đáp:
- Trang công chẳng nên quá khiêm tốn. Tả Khâu Minh soạn Tả Truyện, Tư Mã Thiên soạn Sử Ký, Ban Cố soạn Hán Thư đều là những danh tác truyền từ nghìn xưa, thế nhưng sau Ban Cố, đại sử gia chẳng còn ai nữa. Âu Dương Tu soạn Ngũ Đại Sử, Tư Mã Quang soạn Tư Trị Thông Giám, văn chương tuy xuất sắc nhưng tài ba, kiến thức có phần chưa đủ.
Mãi đến thời thịnh thế nhà Đại Thanh ta, lệnh lang thân bút soạn ra một bộ Minh Thư Tập Lược bừng bừng như thế mới có được người cùng Tả Khâu Minh, Tư Mã Thiên, Ban Cố ba vị tiền bối tịnh giá tề khu, thành thử người đời mới có câu “Tứ Đại Lương Sử, Tả Mã Ban Trang”.
Trang Duẫn Thành cười híp cả mắt, hai tay xoắn tít lại luôn mồm:
- Nói quá thôi! Nói quá thôi! Cái câu Hồ Châu chi bảo quả là không dám nhận.
Ngô Chi Vinh nghiêm mặt nói:
- Cái gì mà không dám nhận? Bên ngoài ai ai cũng nói: “Trong Hồ Châu tam bảo sử, lụa và bút thì Trang sử đứng đầu.”
Tơ tằm và bút lông của Hồ Châu là hai đặc sản nổi danh, Ngô Chi Vinh tuy phẩm hạnh bết bát nhưng được cái nhanh mồm nhanh miệng, xuất khẩu thành chương, ghép ngay Trang sử chung với Hồ ti, Hồ bút; Trang Duẫn Thành nghe thế hết sức vừa lòng.
Ngô Chi Vinh lại tiếp:
- Huynh đệ đến quí xứ làm quan, hai bàn tay trắng chẳng tơ hào gì. Hôm nay đành muối mặt đến xin Trang công một bộ Minh Sử để đem về làm bảo vật truyền gia, sau này con cháu nhà họ Ngô ngày đêm dùi mài, may ra tài nghệ kiến thức tiến triển, làm rạng rỡ cho tổ tiên, âu cũng là nhờ hậu tứ của Trang công.
Trang Duẫn Thành cười đáp:
- Thế thì xin phụng tặng.
Ngô Chi Vinh lại đẩy đưa thêm vài câu nữa, không thấy Trang Duẫn Thành tỏ ý gì khác, lại đem bộ Minh Sử ra ca ngợi một hồi. Thực ra bộ sách đó y chưa đọc đến một trang, nên chỉ nói lòng vòng nào là sử tài cao siêu hiếm có, sử thức phong phú, trác tuyệt. Trang Duẫn Thành nói:
- Vinh công xin ngồi nán lại một chút.
Nói xong đi vào hậu đường. Qua một lúc sau, một gia đinh bưng một cái bọc ra, để lên bàn. Ngô Chi Vinh thấy Trang Duẫn Thành chưa xuất hiện, vội vàng cầm cái bao lên nhắc nhắc thử, bao đó tuy to nhưng nhẹ hều, hiển nhiên bên trong chẳng có tiền bạc gì, trong lòng hết sức thất vọng. Một hồi sau, Trang Duẫn Thành trở lại đại sảnh, bưng cái bọc lên, cười nói:
- Vinh công coi trọng thổ sản của chúng tôi quá vậy xin kính tặng.
Ngô Chi Vinh tạ ơn, cáo từ đi ra, chưa đến khách điếm đã cho tay vào mò thử, quả nhiên là một bộ sách, một cuộn tơ tằm và vài mươi cây bút. Y mất bao nhiêu công lao miệng lưỡi, vẫn tưởng Trang Duẫn Thành ngoài bộ Minh Sử ra, thể nào cũng tặng thêm cho vài trăm lượng bạc, ngờ đâu món quà chỉ đúng có “Hồ Châu tam bảo”mà y thuận miệng bịa ra, bèn chửi thầm: “Con mẹ nó, cái bọn tài chủ ở Nam Tầm này đều tính khí nhỏ nhen. Âu cũng là tại mình nói sai, chứ nếu như nói Hồ Châu tam bảo là vàng bạc và Minh Sử thì có phải đã khá rồi không?’.
Y hậm hực quay về khách điếm, cầm chiếc bao vứt toẹt lên bàn, rồi lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy thì trời đã tối, giờ ăn của quán cũng qua rồi, y cũng không buồn gọi mang cơm lên, vừa buồn bực vừa đói lòng càng thêm day dứt nên không sao ngủ được, khi ấy mới cởi chiếc bao, lật bộ Minh Thư Tập Lược ra xem. Vừa xem được vài trang bỗng thấy ánh vàng lấp lánh, hóa ra có một lá vàng. Tim Ngô Chi Vinh đập thình thình, vội vàng đưa lên xem kỹ, chẳng phải vàng y thì là gì? Y vội vàng cầm lên giũ giũ, trong sách rơi ra đủ mười lá vàng, mỗi lá ít nhất cũng phải năm tiền, mười trương vàng lá ấy là năm lượng hoàng kim. Thời đó vàng quí, năm lượng vàng tính ra bằng bốn trăm lượng bạc.
Ngô Chi Vinh mừng không đâu kể xiết, nghĩ thầm: “Lão họ Trang quả là giảo quyệt, y sợ mình xin bộ sách này rồi về quăng đi, không thèm mở ra, thành ra mới cài vàng lá vào trong sách, để nếu ai chịu đọc sách của con y thì người ấy có phúc nhặt được tiền. Đúng rồi, ta phải đọc vài trang học thuộc vài đoạn, sáng mai đến nhà y tạ y tặng vàng, tiện thể sẽ ca tụng văn chương thêm một chập nữa. Y sung sướng không chừng lại cho thêm vài lạng vàng nữa”.
Y bèn khêu đèn cho sáng, mở sách ra đọc, đọc đến đời Vạn Lịch năm thứ bốn mươi bốn, Thái Tổ nhà Hậu Kim Nỗ Nhi Cáp Xích tức vị, quốc hiệu là Kim, niên hiệu Thiên Mệnh, đột nhiên hơi giật mình: “Năm Bính Thìn Vua Thái Tổ lên ngôi, từ năm đó trở đi, không còn dùng niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh nữa, phải dùng Thiên Mệnh nguyên niên mới phải”.
Y tiếp tục đọc xuống dưới thấy năm Đinh Mão Kim Thái Tông tức vị rồi, trong sách vẫn để năm thứ bảy Thiên Khải đời Minh chứ không đề Đại Kim Thiên Thống nguyên niên. Từ năm Bính Tí trở đi nhà Hậu Kim đổi quốc hiệu là Thanh, cải niên Sùng Đức, vậy mà trong sách vẫn đề Sùng Trinh năm thứ chín chứ không chép là Đại Thanh Sùng Đức nguyên niên, năm Giáp Thân trong sách viết năm Sùng Trinh thứ mười bảy chứ không viết Đại Thanh Thuận Trị nguyên niên. Đến sau khi Thanh binh nhập quan rồi, năm Ất Dậu sách vẫn chép Long Võ nguyên niên, năm Đinh Hợi thì chép Vĩnh Lịch nguyên niên mà hai niên hiệu Long Võ, Vĩnh Lịch chẳng qua chỉ là của Đường Vương, Quế Vương, người viết sách rõ ràng tôn lên như những vị vua chính thống của Minh triều, chẳng coi Thanh triều vào đâu. Y đọc đến chỗ này, nhịn không nổi vỗ bàn kêu lên:
- Phản tặc! Phản tặc! Rõ rành rành ra đây rồi!
Y vỗ mạnh quá chiếc bàn rung rinh khiến ngọn đèn lật nghiêng, dầu sóng ra dính đầy bàn tay y. Trong đêm tối y chợt nghĩ ra, hết sức mừng rỡ như điên cuồng: “Cái này chẳng phải là ông trời cho mình một món hoạnh tài hay sao? Thăng quan phát tài cũng ở đây mà ra cả”.
Y nghĩ thế trong lòng sướng quá bất giác kêu ầm lên. Bỗng nghe điếm tiểu nhị gõ cửa hỏi vọng vào:
- Khách quan! Khách quan! Có chuyện gì thế?
Ngô Chi Vinh cười đáp:
- Không có gì cả.
Y đốt đèn dầu lên, đọc lại một lần nữa. Tối hôm đó y đọc suốt tới khi gà gáy mới để nguyên quần áo lên giường nằm nhưng vì mới tìm thêm ra đến bảy tám chục chỗ văn tự cấm kỵ thành thử trong giấc mơ cũng vẫn thỉnh thoảng cười sằng sặc.
Mỗi khi thay đổi một triều đại, niên hiệu của tân triều cực kỳ quan trọng rất dễ phạm cấm vì ngôn ngữ văn tự dễ khiến cho người ta nhớ lại cựu trào. Minh Thư Tập Lược chép chuyện đời Minh, dùng niên hiệu nhà Minh đúng ra không có gì sai quấy nhưng trong khi việc nghiêm cấm còn gay gắt thì chỉ sơ xẩy một chút cũng mang họa vào thân. Những người tham gia tu sử, đại đa số chỉ giúp vài quyển, chẳng ai đọc hết từ đầu chí cuối, lại thêm những ai giúp việc sửa đổi mấy quyển cuối là những người hận Thanh triều thấu xương, có ai chịu dùng niên hiệu Đại Thanh. Trang Đình Long là con nhà giàu có, hai mắt lại lòa không khỏi sơ xuất khiến cho kẻ tiểu nhân có dịp nước đục thả câu.
Trưa hôm sau, Ngô Chi Vinh lập tức xuống thuyền đi về hướng đông đến Hàng Châu, ở trong khách điếm viết một lá thư cáo giác, kèm luôn bộ Minh Sử đưa vào trong phủ Tùng Khôi tướng quân. Y chắc mẩm Tùng Khôi khi nhận được lá thư rồi thể nào cũng gọi y vào gặp mặt. Khi đó người Mãn Châu tra xét những âm mưu phản nghịch rất nghiêm nhặt, ban thưởng rất hậu, y lập được công to như thế này, được phục chức làm quan thể nào cũng chắc, có khi còn thăng lên mấy cấp nữa.
Ngờ đâu y ở tại khách điếm chờ đợi mỏi mòn, luôn đến hơn nửa năm, ngày ngày đến cửa phủ tướng quân nghe ngóng hỏi han nhưng chỉ như ném hòn đá xuống biển, chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Về sau y bị những kẻ canh cửa trách mắng đuổi đi không cho y đến mè nheo nữa.
Ngô Chi Vinh trong lòng bồn chồn, mấy lá vàng Trang Duẫn Thành tặng cho đã đổi ra bạc tiêu sạch rồi mà việc cáo giác chưa đi đến đâu cả, vừa buồn bực, lại vừa kinh ngạc.
Hôm đó y lang thang trong thành Hàng Châu đi ngang qua nhà sách Văn Thông Đường mới đi vào định coi ké cho qua ngày giờ, thấy trên giá sách có bày ba bộ Minh Thư Tập Lược, nghĩ thầm: “Không lẽ những chỗ mình tìm thấy không đủ để làm tội Trang Duẫn Thành hay sao? Phải tìm thêm vài chỗ đại nghịch bất đạo khác, sáng mai viết thêm một bản cáo trạng trình lên phủ tướng quân lần nữa”. Tuần phủ Chiết Giang là người Hán, còn tướng quân là người Mãn Châu, y sợ tuần phủ không muốn gây ra vụ đại án văn tự ngục này nên định bụng sẽ cáo giác với tướng quân người Mãn.
Y lật một bộ ra xem, mới coi vài trang đã hết hồn hết vía, chẳng khác gì rơi tọt vào một hầm nước đá, hoang mang vô định, không còn biết đâu vào đâu, bao nhiêu chỗ cấm kỵ trong sách tuyệt nhiên biến mất không thấy tăm hơi, từ khi Thái Tổ nhà Đại Thanh khai quốc trở về sau đều biến thành niên hiệu của Mãn Châu cả, đến cả việc Vệ đô đốc đánh vào Kiến Châu (thân thích của tổ tông nhà Mãn Thanh), cùng các nơi chép về Long Võ, Vĩnh Lịch cũng chẳng còn gì nữa. Thế nhưng văn chương từ trước tới sau đều liền lạc, những tranh sách đều mới tinh không thấy dấu vết gì tẩy xóa, không hiểu sao lại biến hóa ra thế này thực là hết sức quái lạ.
Y tay cầm bộ sử đứng trong hiệu sách ngơ ngẩn như trời trồng, qua một hồi sau mới buột miệng kêu lên:
- Đúng rồi!
Y thấy bộ sách này ngoài bìa cũng như giấy bên trong đều mới tinh mới quay qua chủ tiệm hỏi kỹ thì ra nhà buôn từ Hồ Châu mới giao lại chỉ độ bảy tám ngày gần đây. Y nghĩ bụng: “Tên Trang Duẫn Thành kia ghê gớm thật! Quả đúng là “có tiền mua tiên cũng được”, y thu hồi sách cũ, in lại bản mới làm như sách vừa in xong, còn bao nhiêu sách cũ những đoạn cấm kỵ xé bỏ cả rồi. Ôi, không lẽ mình đành bỏ cuộc hay sao?”.
Những gì Ngô Chi Vinh suy nghĩ quả đúng như thế. Thì ra Tùng Khôi tướng quân của Hàng Châu không biết chữ Hán, người sư gia trong phủ đọc được bản cáo giác của Ngô Chi Vinh ai nấy toát mồ hôi lạnh, biết rằng chuyện này liên qua cực kỳ lớn lao, cầm lá thư mà hai tay run bần bật.
Người đề lại đó họ Trình, tên Duy Phiên, là người Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Thời hai triều Minh Thanh, đề lại trong các phủ huyện mười người đến chín là người Thiệu Hưng, thành thử hai chữ “sư gia”bao giời cũng thêm “Thiệu Hưng”để thành “Thiệu Hưng sư gia”. Người đề lại đó học được kinh nghiệm của những người đi trước, thành thử làm việc đâu ra đấy cực kỳ chín chắn. Trong phủ quan mỗi khi có công văn đều do sư gia xem trước, đa số là văn thư từ các cấp hạ liêu đồng hương trình lên để khỏi có điều trách móc chê bai. Thành ra quan chức lớn nhỏ mới đáo nhiệm sở, cần nhất là phải bỏ tiền mua chuộc những vị đề lại Thiệu Hưng. Hai triều Minh Thanh tuy đất Thiệu Hưng không mấy người làm quan lớn thế nhưng lại thao túng bút mực hành chánh suốt cả trăm năm, là một kỳ tích trong lịch sử chính trị Trung Quốc.
Gã Trình Duy Phiên bụng dạ trung hậu, tin tưởng vào điều “một đời làm lại gia hại ba đời”, đã mang thân vào chốn công môn thì nên khéo đường tu. Cũng phải nói thao túng sinh sát bách tích tuy trong tay quan lại thật, nhưng đề lại chỉ thêm bớt vài chữ là có thể làm cho người ta tan cửa nát nhà, còn như khai đường mở lối một câu, cũng có thể là chết đi sống lại, thành thử nếu ở cửa quan cứu người còn to lớn gấp mấy lần nương thân thiền môn tụng kinh gõ mõ. Y thấy vụ án Minh Sử này có thể gây nên đại họa, không biết vùng Tô Chiết bao nhiêu người táng mạng phá gia, nên vội vàng xin tướng quân cho nghỉ vài ngày, lập tức ngày đêm đi thuyền đến trấn Nam Tầm Hồ Châu đem chuyện này cáo tri Trang Duẫn Thành.
Trang Duẫn Thành thấy đại họa đổ ập xuống đầu mình, kinh hãi đến mất hồn mất vía, miệng há hốc, nước dãi chảy lòng thòng, không còn biết tính làm sao, một hồi lâu mới vội vàng đứng lên quì gập xuống lạy tạ đại ân của Trình Duy Phiên rồi vấn kế y xem phải làm gì.
Trình Duy Phiên trên đường đi từ Hàng Châu đến Nam Tầm đã suy đi tính lại, tìm ra được một cách thật hay, nghĩ thầm bộ Minh Thư Tập Lược này lưu truyền đã lâu, có dấu cũng không được, chi bằng thi hành kế “phủ để trừu tân”, một mặt sai người đi khắp các tiệm sách, thu hồi tất cả các bộ Minh Sử về tiêu hủy, một mặt thuê công nhân ngày đêm in lại bản mới, bỏ hết những chỗ húy kỵ rồi đem ra lưu hành. Nếu như quan phủ có truy cứu, tra xét bản mới thấy những lời cáo giác của Ngô Chi Vinh không đúng sự thực, thế là thoát được một mối họa bất ngờ.
Y bèn nói kế đó cho Trang Duẫn Thành nghe khiến ông lão vừa mừng vừa sợ, liên tiếp rập đầu tạ ơn. Trình Duy Phiên lại chỉ hết mọi đường đi nước bước, nơi nào chỗ nào cần đút lót bao nhiêu, cửa nào quan nào cần đấm mõm, Trang Duẫn Thành vâng vâng dạ dạ nghe theo cả.
Trình Duy Phiên quay trở về Hàng Châu, chờ đến hơn nửa tháng rồi mới đem lá thư của Ngô Chi Vinh và bộ sách trình lên cho tuần phủ Chiết Giang là Chu Xương Tộ, viết thêm vài hàng vào công văn, nói là người cáo buộc ấm ức vì chuyện bị mất chức tri huyện, xin xỏ không cho để bụng thù hằn, vậy xin phủ đài tra xét minh bạch.
Trong khi Ngô Chi Vinh mòn con mắt ở khách điếm đợi chờ thì tiền bạc Trang Duẫn Thành đổ ra như nước mua chuộc khắp nơi. Hậu lễ của họ Trang đã rải khắp cửa tướng quân, cửa tuần phủ, cửa học chính rồi, nên Chu Xương Tộ nhận được văn thư, cho rằng loại sách vở như thế này là chuyện của học chính ti cai quản, lại dìm đó thêm mươi ngày nữa mới gửi sang bên ti học chính. Đề lại bên học chính ngô môn lại bỏ xó thêm nửa tháng nữa, rồi cáo ốm nghỉ ở nhà một tháng, sau đó mới viết nhì nhằng gửi cho phủ Hồ Châu. Quan phủ Hồ Châu lại ngâm tôm thêm hai mươi ngày mới gửi sang học quan huyện Qui An và Ô Trình, yêu cầu hai người xem xét. Hai viên học quan này vốn đã được Trang Duẫn Thành dấm dúi cho một món tiền to, khi đó bản mới đã in ra xong, hai người liền đem bộ đó trình lên rằng:
“Bộ sách này tầm thường sơ sài, chẳng có gì là xách động được nhân tâm, đã xem xét thật kỹ từ đầu chí cuối, không thấy chỗ nào phạm cấm cả.”
Nơi nào trình lên cũng đều thế cả, chuyện kể như xong.
Ngô Chi Vinh phát hiện bản Minh Sử mới trong thư quán, nghĩ thầm chỉ có cách nào kiếm ra được một bộ nguyên bản thì mới xin tái thẩm được thôi. Những bộ Minh Sử bản cũ ở tất cả các nhà sách tại Hàng Châu Trang Duẫn Thành đều đã mua lại hết rồi nên y vội vàng sang miền đông huyện Tích Châu lùng sục thế nhưng cũng không tìm đâu ra. Y hết sức thất vọng đành phải bỏ cuộc về quê. Thế nhưng việc cũng lạ đời, trên đường đi tại một khách điếm trông thấy chủ quán đang đọc sách, vừa đọc vừa lắc đầu, nhìn kỹ lại hóa ra y đang đọc bộ Minh Thư Tập Lược. Y mượn coi qua, té ra đó là nguyên bản. Y mừng không đâu cho xiết, nghĩ bụng nếu như đòi mua lại chắc gì y đã chịu bán, huống nữa trong túi lại hết tiền lấy gì mà mua, chi bằng ăn cắp cho xong.
Đến đêm khuya y len lén trở dậy, trộm được bộ sách liền trốn đi ngay, thấy tỉnh Chiết Giang chỗ nào quan lại cũng bị Trang Duẫn Thành mua chuộc hết rồi, thôi thì đâm lao phải theo lao, đành lên tận Bắc Kinh cáo giác.
---
[1] Người là dao thớt, ta là cá thịt
[2] Người là vạc đỉnh, ta là hươu nai
[3] Nhà Tần mất con hươu (cũng có nghĩa là mất lộc phúc), thiên hạ hè nhau đuổi nó.
[4] Đuổi hươu Trung Nguyên
[5] Thần biết rằng tội khinh nhờn đại vương quả là đáng giết, xin được bỏ vào vạc mà đun.
[6] Hỏi đỉnh Trung Nguyên
[7] Sở Tử (lúc ấy là Sở Trang Vương): Tử là một trong năm tước. Thật ra thì khi ấy Sở đã tự xưng vương (tức ngang hàng với nhà Chu) từ lâu.
[8] Hai câu này trên lấy chữ Thanh, dưới lấy chữ Minh đứng đầu ý nói hoài vọng nhà Minh, bất phục nhà Thanh.
[9] Giang sơn hoa gấm
[10] Bốn câu này nói về cuối đời Tống, Trung Hoa rơi vào tay người Mông Cổ, vua nhà Tống phải nhảy xuống biển tự tận ở Quảng Châu (Xem thêm Vó Ngựa và cánh cung, Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)
[11] Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh.
[12] Đào Nguyên hà xứ, khả tị bạo Tần?
[13] Xem thêm Bút Nghiên, Thư Họa của Nguyễn Duy Chính
[14] Sách viết nháp, chưa in

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
Hồi 2 (b)
TUYỆT THẾ KỲ SỰ TRUYỀN VĂN LÝ
TỐI HẢO GIAO TÌNH KIẾN DIỆN SƠ

Một hồi sau y quay sang nói với Vi Tiểu Bảo:
- Đi dắt con ngựa lại đây.
Vi Tiểu Bảo trước nay chưa đắt ngựa bao giờ thấy con tuấn mã thân hình cao lớn, trong bụng hơi run, rón rén đi từ phía sau tới. Mao Thập Bát quát lên:
- Đi ra phía đằng trước. Người từ sau đít nó đi tới thể nào nó cũng đá cho mà xem.
Vi Tiểu Bảo vòng qua đầu ngựa, giơ tay cầm dây cương, con ngựa đó thật thuần lương, ngoan ngoãn đi theo y. Mao Thập Bát xé vạt áo buộc vết thương ở trên tay phải, tay trái ấn xuống yên ngựa một cái, nhảy tót lên lưng nói:
- Thôi ngươi về nhà đi!
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Thế còn ông bạn đi đâu?
Mao Thập Bát hỏi:
- Ngươi hỏi làm gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Chúng mình đã là bằng hữu thì tự nhiên tôi muốn biết.
Mao Thập Bát sầm mặt xuống, chửi:
- Con bà ngươi chứ, ai bè bạn gì với ngươi?
Vi Tiểu Bảo lùi lại một bước, mặt đỏ bừng, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống, không hiểu sao y đang dịu dàng lại bất thình lình nổi cọc. Mao Thập Bát nói:
- Sao ngươi lại lấy vôi bột ném vào mắt Sử Tùng?
Giọng y gay gắt, thần thái cực kỳ dữ tợn. Vi Tiểu Bảo sợ quá, lùi thêm một bước ấp úng:
- Tôi … tôi thấy y định giết ông.
Mao Thập Bát hỏi dồn:
- Vôi sống ở đâu mà có?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Tôi … tôi mua.
Mao Thập Bát hỏi thêm:
- Mua vôi sống làm gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ông bảo sắp đánh nhau với người ta, tôi thấy ông đang bị thương, nên … nên mua vôi sống để có gì còn giúp ông.
Mao Thập Bát giận quá, quát lên:
- Đồ chó đẻ, con bà ngươi chứ, ngươi học cái thói đó ở đâu?
Mẹ Vi Tiểu Bảo là xướng kỹ, cha không biết là ai, nên y ghét nhất kẻ nào chửi mình là “đồ chó đẻ”, nghe thế lửa giận bừng bừng cũng chửi lại:
- Con bà ngươi đồ chó già kia, ông gọi mười tám đời ông cha ngươi, đồ đê tiện, quân rùa đen, ngươi muốn biết ông học đâu ra ư? Cái thứ ngươi đồ khốn kiếp chết thúi, thứ đồ rùa chết toi …
Y mồm chửi chân đã chạy nấp sau gốc cây. Mao Thập Bát hai chân kẹp một cái, giục ngựa chạy đến, vươn tay ra chộp ngay sau ót y, đưa lên cao, mắng:
- Tiểu quỉ, mi còn chửi nữa hay thôi?
Hai chân Vi Tiểu Bảo đá lung tung, mồm kêu lớn:
- Mi là thằng khốn kiếp, đồ rùa thúi, đồ chết đường chết chợ, đồ heo sề chết đâm chết chém …
Y sinh trưởng ở nơi kỹ viện, tiếng chửi kiểu nam lối bắc gì cũng học nằm lòng, lúc này lửa giận bốc lên, ô ngôn uế ngữ tuôn ra như nước chảy.
Mao Thập Bát giận cành hông, bốp một tiếng vả cho y một cái thật kêu. Vi Tiểu Bảo liền khóc òa nhưng càng chửi già, đột nhiên há mồm ngoạm ngay lên lưng bàn tay Mao Thập Bát. Mao Thập Bát đau nhói, lập tức buông tay khiến y rơi bịch xuống đất. Vi Tiểu Bảo lập tức bỏ chạy, mồm vẫn tiếp tục chửi như pháo ran. Mao Thập Bát từ sau giục ngựa đuổi nà đến.
Vi Tiểu Bảo tuy vẫn chạy không ngừng như người nhỏ chân ngắn, làm sao chạy kịp bước chân ngựa? Chỉ chạy được mươi trượng thì đã thở hồng hộc dường như hết hơi, quay đầu nhìn lại, tọa kỵ của Mao Thập Bát chỉ còn cách chừng một trượng, sợ hãi quá, trượt chân té lăn cù vừa lăn lộn vừa khóc. Y bình thời sống trong kỹ viện, đầu đường xó chợ mỗi khi đánh nhau với người ta, nếu không lại liền giở trò vô lại đó ra, đối thủ đều là người lớn, chẳng ai nỡ đuổi theo đánh tiếp, chẳng lẽ giết y hay sao? Gặp việc ai cũng chỉ lắc đầu bỏ đi để người ta khỏi chê cười mình cậy lớn hiếp nhỏ.
Mao Thập Bát nói:
- Ngươi đứng lên, ta có chuyện muốn nói.
Vi Tiểu Bảo khóc nói:
- Ta nhất định không trỗi dậy, có chết cũng không dậy.
Mao Thập Bát đáp:
- Được, đã thế ta phóng ngựa dẵm chết ngươi.
Vi Tiểu Bảo thường nghe những lời hăm dọa như cơm bữa, nào là “Ta đấm chết bà ngươi, ta đá chết chết tươi bây giờ” ngày nào chẳng vào tai mấy bận nên chẳng coi vào đâu khóc òa lên, chu chéo:
- Có giỏi đánh chết ta đi, ỷ lớn hiếp con nít! Ối giời ơi, quân đê tiện rùa đen kia cưỡi ngựa đạp chết ta kìa.
Mao Thập Bát giựt giây cương, con ngựa chồm thẳng hai chân trước, Vi Tiểu Bảo liền lăn tròn tránh ra ngoài. Mao Thập Bát nhăn răng chửi:
- Tiểu quỉ, hóa ra ngươi cũng biết sợ đấy.
Vi Tiểu Bảo kêu om sòm:
- Ta sợ cái thứ ngươi chó má, không phải là anh hùng hảo hán.
Mao Thập Bát thấy thằng bé ăn nói bài bây, không biết phải làm sao, cười nói:
- Thế cái thứ ngươi anh hùng hảo hán hay sao? Giỏi lắm, thôi đứng dậy, ta không đánh ngươi đâu. Ta đi đây.
Vi Tiểu Bảo đứng lên, mặt mũi tèm lem nói:
- Ngươi đánh ta cũng chẳng hề gì, có điều không được chửi ta là đồ chó đẻ.
Mao Thập Bát cười nói:
- Ngươi chửi ta còn nặng gấp mười, khó nghe gấp bội, thôi bỏ qua nhé.
Vi Tiểu Bảo đưa vạt áo lên chùi mặt, đột nhiên phá ra cười nói:
- Ngươi tát ta một cái, ta cắn lại ngươi một cái, hai đằng huề, thôi bỏ qua. Thế ông đi đâu đây?
Mao Thập Bát đáp:
- Ta đi Bắc Kinh.
Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên hỏi lại:
- Đi Bắc Kinh? Người ta đang tróc nã ông, sao lại đưa thân vào miệng cọp?
Mao Thập Bát đáp:
- Ta thường nghe nói, gã Ngao Bái kia là đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu, con mẹ nó chứ, có người còn bảo y là đệ nhất dũng sĩ trong thiên hạ. Ta trong lòng không phục, muốn lên Bắc Kinh tỉ thí một keo.
Vi Tiểu Bảo nghe y nói định lên Bắc Kinh tỉ thí với Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ, trò vui thế bỏ qua sao được, bình thời ở nơi trà quán vẫn thường nghe kể chuyện dưới tay thiên tử có những ai, trong bụng hâm mộ lắm, lại nghĩ đến mình ra tay giết Sử Tùng, quan lão gia truy cứu ra thật chẳng phải trò đùa, mặc dầu vẫn có thể đổ thừa cho Mao Thập Bát nhưng vạn nhất chuyện đổ bể thì hết đường chối cãi, bèn nói:
- Mao đại ca, tiểu đệ xin đại ca một chuyện có được không? Chuyện này không dễ gì làm được, e rằng lão huynh không dám nhận đâu.
Mao Thập Bát ghét nhất là ai bảo y nhát gan, lập tức nổi giận bừng bừng, buột miệng chửi:
- Con bà ngươi chứ, thứ đồ …
Y địch chửi “đồ chó đẻ” nhưng kịp thời giữ lại hỏi trớ qua:
- Cái gì mà bảo dám hay không dám? Ngươi nói ra coi, ta nhất định bằng lòng.
Y nghĩ lại tính mạng mình do y cứu, dù chuyện khó khăn cách mấy cũng phải giúp. Vi Tiểu Bảo đáp:
- Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, con ngựa gì đó cũng khó đuổi, ông nói ra rồi đừng có đánh bài chây ra đấy nhé.
Mao Thập Bát đáp:
- Dĩ nhiên không rồi.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hay lắm! Vậy đại ca đưa tiểu đệ cùng đi Bắc Kinh.
Mao Thập Bát ngạc nhiên:
- Ngươi cũng đi Bắc Kinh? Lên đó làm gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Tiểu đệ muốn đi coi lão huynh tỉ võ với Ngao Bái.
Mao Thập Bát lắc đầu quầy quậy nói:
- Từ Dương Châu đến Bắc Kinh đường xa vạn dặm, quan phủ lại đang treo bảng tróc nã, đường đi hung hiểm lắm, ta đem ngươi đi sao được?
Vi Tiểu Bảo nói:
- Ta biết trước rồi mà, ngươi nói ra rồi lại chối ngay. Ngươi sợ có thêm ta thì quan phủ sẽ dễ bắt hơn nên không dám cho ta theo chứ gì.
Mao Thập Bát nổi giận, quát lớn:
- Cái gì mà ta không dám?
Vi Tiểu Bảo nói:
- Vậy thì ngươi mang ta theo đi.
Mao Thập Bát đáp:
- Mang ngươi theo phiền toái lắm. Ngươi lại chưa nói cho má ngươi hay, liệu má ngươi chẳng sốt ruột hay sao?
Vi Tiểu Bảo nói:
- Ta đi mấy ngày không về là thường, trước nay bà ấy không hề sốt ruột.
Mao Thập Bát nhấp dây cương giục ngựa chạy đi, miệng nói:
- Thằng quái con này mồm mép thật.
Vi Tiểu Bảo kêu vói theo:
- Ngươi không dám mang ta theo chỉ vì ngươi đánh không lại Ngao Bái, sợ ta thấy đâm ra bẽ mặt.
Mao Thập Bát lửa giận bùng lên, chuyển đầu ngựa quát lên:
- Ai bảo ngươi là ta đánh không lại Ngao Bái?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ngươi không dám mang ta theo, ắt là vì sợ ta trông thấy ngươi bị người ta đánh thua té bò lê bò càng, miệng kêu: “Ngao Bái lão gia tha mạng cho, cầu xin Ngao Bái đại nhân tha cho cái mạng chó của Mao Thập Bát này”, như thế để người ngoài nghe thấy thì thật mắc cỡ muốn chết.
Mao Thập Bát tức quá kêu rống lên, giục ngựa chạy tới, vươn tay nắm Vi Tiểu Bảo nhắc lên, để ngang trên yên, giận dữ hỏi:
- Đã vậy ta đem ngươi theo, xem ai xin tha mạng cho biết.
Vi Tiểu Bảo mừng lắm nói:
- Nếu như ta không chính mắt trông thấy, chỉ đoán mò thì người van xin tha mạng nhất định là lão huynh, không phải Ngao Bái.
Mao Thập Bát vung tay lên vỗ một cái rõ mạnh lên đít thằng bé, quát:
- Để ta cho ngươi xin tha mạng trước.
Vi Tiểu Bảo đau quá kêu ối một tiếng, cười nói:
- Con chó già đánh người, quả không phải nhẹ.
Mao Thập Bát cười ha hả nói:
- Thằng quỉ nhỏ, mày thiệt hết chỗ nói.
Vi Tiểu Bảo cũng không chịu kém đáp:
- Lão quỉ già, ngươi cũng thật hết thuốc chữa.
Mao Thập Bát nói:
- Ta đưa ngươi đi Bắc Kinh, trên đường đi bảo gì phải nghe nấy, không được phá quấy, nghe chưa?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Ai quấy phá hồi nào? Ngươi vào tù, ra khám, giết buôn muối lậu, giết cả quân quan, không lẽ không phải là quấy phá?
Mao Thập Bát cười:
- Ta nói không lại ngươi, nhận thua cho rồi.
Y để Vi Tiểu Bảo ngồi trước yên, giục ngựa chạy tới dắt thêm một con nữa, phân biện kỹ phương hướng rồi theo hướng bắc mà đi. Vi Tiểu Bảo xưa nay chưa từng cưỡi ngựa, lúc đầu cũng hơi sợ nhưng dựa vào người Mao Thập Bát, chắc không thể nào ngã được, chạy được năm sáu dặm rồi thấy yên bụng hơn mới nói:
- Để tôi cưỡi con ngựa kia, có được không?
Mao Thập Bát đáp:
- Ngươi biết cưỡi thì hãy cưỡi, không biết thì đừng có thử, kẻo lại ngã gãy chân.
Vi Tiểu Bảo yếu cường hiếu thắng, lên mặt nói khoác:
- Tôi cưỡi ngựa cả mấy chục lần rồi, sao lại không biết?
Y từ trên lưng ngựa nhảy xuống, chạy đến bên cạnh con ngựa kia, chân phải đưa lên đạp vào bàn đạp, nhún chân một cái, nhảy lên lưng ngựa. Ai ngờ muốn lên ngựa thì phải để chân trái lên bàn đạp, y lại để chân phải thành thử khi lên yên, mặt lại quay về phía mông con vật.
Mao Thập Bát cười sằng sặc, buông giây cương con ngựa Vi Tiểu Bảo đang cưỡi, vung roi quất luôn vào chân sau một cái, con ngựa lập tức lồng lên xoải như bay. Vi Tiểu Bảo sợ đến mất cả hồn vía, nhưng nào có dám nhảy xuống, đành bíu chặt lấy đuôi ngựa, hai chân kẹp chặt yên, nằm rạp xuống lưng con vật, nghe tiếng gió thổi vù vù bên tai, người chạy vùn vụt giật lùi về phía sau. Cũng may người y nhỏ thân y nhẹ, bám được đuôi ngựa rồi không bị tụt xuống, chỉ còn nước miệng la bải hải:
- Ối mẹ ơi! Cứu con với! Mao Thập Bát, có nắm đầu ngựa lại không lão tử gọi mười tám đời tổ tông ngươi lên mà chửi bây giờ, ối … ối …
Con ngựa cứ thế mà phóng trên đường cái, phải đến hơn ba dặm mà không chậm lại chút nào, vừa qua khỏi một khúc quanh thấy phía trước bên phải có một chiếc xe lừa đang đi lững thững, phía sau xe là một con ngựa trắng, cưỡi trên lưng là một hán tử chừng hăm bảy hăm tám. Một xe một ngựa đó cũng đi về hướng bắc. Tọa kỵ của Vi Tiểu Bảo không người chỉ huy, bị kinh hãi băng băng lao tới, khoảng cách mỗi lúc một gần.
Người phu đánh xe kêu hoảng lên:
- Ối con ngựa điên!
Y vội vàng giục chiếc xe lừa giạt qua một bên tránh đường. Hán tử cưỡi ngựa vội quay đầu ngựa, tọa kỵ của Vi Tiểu Bảo đã xông ngay tới. Hán tử kia giơ tay ra, nắm ngay đầu ngựa. Con ngựa đang lúc chạy nhanh nhưng cánh tay hán tử kia cực mạnh, vừa ghịt lấy, con ngựa kia lập tức đứng lại, hơi trắng từ mũi phun phì phì, nhưng không thể nào tiến thêm gì được.
Trong xe có tiếng đàn bà hỏi vọng ra:
- Bạch đại ca, có chuyện gì thế?
Hán tử đáp:
- Có một con ngựa xổng cương, trên lưng là một thằng nhỏ, không biết còn sống hay đã chết.
Vi Tiểu Bảo nhỏm dậy, quay đầu lại nói:
- Dĩ nhiên là sống, sao lại chết được?
Y thấy hán tử đó khuôn mặt thon dài, hai mắt lấp lánh có thần, mặc một trường bào màu xanh, trên khăn đính một khối ngọc trắng, y phục trang sức ra vẻ con nhà giàu. Vi Tiểu Bảo xuất thân hèn hạ nên trong bụng ghét nhất là tử đệ phú gia, liền nhổ toẹt một bãi nước miếng, khinh khỉnh nói:
- Mẹ nó chứ, ngựa thiên lý lão tử cưỡi ngược chiều, đang lúc khoái hoạt, có đâu lại chặn ngang đường, vướng lối … vướng lối ông …
Y thở hổn hển nói không ra hơi, phải nằm phục xuống mông con ngựa mà ho sặc sụa. Con ngựa nhột quá, giơ vó sau đá tung lên. Vi Tiểu Bảo kêu lên một tiếng ngã lăn chiêng xuống đất, miệng kêu:
- Ối chao ôi! Ối chao ôi!
Hán tử kia lúc đầu thấy Vi Tiểu Bảo ăn nói hỗn hào, đang định nỗi nóng, thấy y ngã xuống vạn phần hoảng hốt liền mỉm cười, quay đầu ngựa lại, đi theo chiếc xe lừa. Mao Thập Bát cưỡi ngựa chạy đến, kêu lớn:
- Thằng quỉ nhỏ, ngươi té chưa chết ư?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ngã ngựa đâu có chết, lão tử cưỡi ngựa đang ngon trớn, bị tiểu tử kia chắn ngang đường, tức muốn chết được. Khục khục …
Y hổn hển loạng choạng đứng lên, đầu gối bỗng đau nhói, lại khuỵu ngay xuống. Mao Thập Bát giục cương chạy đến, nắm ngay cổ áo thằng bé nhắc lên ngựa.
Vi Tiểu Bảo bị vố này không còn dám đòi cho mình cưỡi riêng một con ngựa nữa. Hai người cùng cưỡi một con, chạy đến hơn ba chục dặm khi mặt trời lên đến đỉnh đầu thì tới một tòa tiểu thị trấn. Mao Thập Bát chậm chạp xuống ngựa rồi bồng Vi Tiểu Bảo bỏ xuống, đến một quán ăn nghỉ ngơi. Vi Tiểu Bảo ở trong kỹ viện, xưa nay chỉ ngồi ở ngạch cửa nhà bếp, cầm một cái bát hoa sành, ăn cơm với đồ ăn khách ăn thừa tuy cá mú thịt thà nhiều thật nhưng trước nay chưa bao giờ được ngồi bàn ăn uống với người ta. Lúc này y được ngồi ngang hàng với Mao Thập Bát, tuy chỉ có vài bát mì to sợi, một đĩa trứng chiên nhưng trong lòng hết sức đắc ý.
Y ăn được chừng nửa bát mì, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng xôn xao cùng ngựa hí, phải đến mười bảy, mười tám người từ ngoài xông vào, trông bề ngoài ra vẻ quan binh. Vi Tiểu Bảo thầm kinh hoảng, nói khẽ:
- Quan binh đó, e rằng họ đến bắt lão huynh. Thôi mình chạy cho mau.
Mao Thập Bát hừ một tiếng, bỏ đũa xuống, đưa tay để lên cán đao.
Thế nhưng bọn người kia không để ý gì đến y, chỉ luôn mồm réo gọi điếm tiểu nhị mang đồ ăn lên. Trong quán nhỏ nơi tiểu thị trấn làm gì có món đặc biệt, cũng chỉ thịt kho, cá chiên, đậu hũ, trứng tráng, gã thủ lãnh bọn người kia phải bảo đàn em mang thịt quay, thịt gà của mình ra ăn thêm. Một gã nói:
- Mình ở Vân Nam vẫn thường nghe Giang Nam là nơi đô hội, mặc thì gấm vóc lụa là, ăn thì sơn trân hải vị. Thế mà ta xem, chỉ riêng mục ăn xem chừng cũng chưa bằng Côn Minh chúng mình được.
Một người khác liền đáp:
- Lão ca ở Bình Tây Vương phủ hưởng phúc quen rồi, đồ ăn thức uống dĩ nhiên phải khác. Đó đâu phải là Giang Nam không bằng Vân Nam mà trên đời này chẳng có mấy nơi sánh được với Bình Tây Vương phủ, cái đó thì ai cũng biết.
Ai nấy gật gù khen phải. Mao Thập Bát mặt biến sắc, nghĩ thầm:
“Bọn khốn kiếp này là bộ hạ của đại Hán gian Ngô Tam Quế chăng?”.
Lại nghe một gã mặt mày vàng vọt hỏi:
- Hoàng đại nhân, lần này ngài thượng kinh, liệu có yết kiến Hoàng thượng không?
Một gã trắng trẻo phốp pháp đáp:
- Cứ như quan tước của ta thì không xứng để yết kiến Hoàng thượng, thế nhưng mượn tiếng vương gia, có thể được bệ kiến không chừng. Những vị quan lớn trong triều đối với thành phần “Tây tuyển” thì cũng có nể nang đôi chút.
Lại một người nói:
- Chuyện đó đương nhiên rồi, trên đời này ngoài hoàng thượng ra thì vương gia chúng ta là to hơn hết thảy.
Mao Thập Bát đột nhiên lớn tiếng hỏi:
- Này, Tiểu Bảo, ngươi có biết trên đời này đứa nào mặt dầy nhất hay không?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Dĩ nhiên tiểu đệ biết chứ. Đó là quân rùa đen khốn kiếp.
Y nào có biết đâu nói như thế cũng bằng không. Mao Thập Bát vỗ bàn một cái thật mạnh nói:
- Đúng đó! Thế quân rùa đen khốn kiếp kia là ai?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mẹ nó chứ, cái thứ rùa đen khốn kiếp bỏ mẹ kia hẳn chẳng phải là đứa tử tế gì.
Y vừa nói vừa vỗ mạnh xuống bàn. Mao Thập Bát nói:
- Để ta dạy cho ngươi, tên rùa đen khốn kiếp, là tên đại Hán gian nhận giặc làm cha, đem giang sơn gấm vóc, hai tay bưng lên dâng cho Thát tử …
Y vừa nói đến đây hơn chục cặp mắt của bọn người kia liền trừng trừng nhìn y, đầy vẻ tức tối. Mao Thập Bát tiếp:
- Tên đại Hán gian kia họ Ngô, mẹ nó chứ, một con rùa thì là Ngô Nhất Qui, hai con rùa thì là Ngô Nhị Qui, thế ba con thì là gì? Vi Tiểu Bảo lớn tiếng đáp:
- Ngô Tam Qui.
Mao Thập Bát cười sằng sặc nói:
- Chính là Ngô Tam Quế đại …
Đột nhiên tiếng binh khí kêu loảng xoảng, cả mười tám người đều cùng xông vào đánh Mao Thập Bát. Vi Tiểu Bảo vội chui tọt xuống gầm bàn, chỉ nghe tiếng leng keng, leng keng, tiếng binh khí chạm nhau không dứt, Mao Thập Bát tay cầm đơn đao đã đấu với bọn kia rồi.
Vi Tiểu Bảo thấy y ngồi trên ghế dài không chuyển động, biết y đùi bị thương, trong bụng không khỏi thấp thỏm. Một lát sau nghe keng một tiếng, một thanh đơn đao rơi xuống rồi có tiếng người rú lên thảm thiết, ngã văng ra. Thế nhưng đối phương người đông, Vi Tiểu Bảo thấy chân đứng chung quanh bàn không ngừng chuyển động, người nào cũng hoặc đi giày vải, hoặc đi ủng da, hiển nhiên đều là địch cả vì Mao Thập Bát đi thảo hài. Chỉ thấy Mao Thập Bát tay đánh miệng chửi:
- Ngô Tam Quế là đại Hán gian, còn chúng bay là tiểu Hán gian, ông sẽ giết sạch không còn một mống … ối ối …
Y kêu rống lên đủ biết đã bị thương, kế đó có người ngã bật ngửa, trên ngực đầy những máu. Vi Tiểu Bảo thò tay ra cầm một thanh đao dưới đất, nhắm kỹ một kẻ đi giày vải, theo sống chân chém mạnh xuống, nghe bụp một tiếng, một nửa bàn chân đã đứt lìa. Gã kia kêu rú lên một tiếng ngã bật về sau.
Dưới gầm bàn tối thui, mọi người đang đánh loạn cả lên, chẳng một ai biết vì sao y lại bị thương, liệu chừng chắc là bị Mao Thập Bát đánh trúng. Vi Tiểu Bảo thấy kế đó hữu hiệu, lại giơ đao lên chặt đứt bàn chân một gã khác.
Thế nhưng gã đó không ngã, đau quá kêu lên:
- Dưới gầm bàn … gầm bàn …
Y cúi người xuống xem xét, bị ngay Mao Thập Bát lấy sống đao đập vào sau ót, lập tức ngất đi. Vừa lúc đó, Vi Tiểu Bảo lại chém vào bắp chân một người nữa. Người kia kêu rú lên, lấy tay hất mạnh, cả bàn lẫn chén bát mì canh, đều bị tung ra. Y lập tức vung đơn đao nhắm đầu Vi Tiểu Bảo chém xuống.
Mao Thập Bát liền vung đao gạt ra, Vi Tiểu Bảo liên tiếp lăn tròn, theo kẽ hỡ giữa đám người mà chui ra. Người bị chém vào chân kia giận lắm vung đao đuổi theo. Vi Tiểu Bảo kêu lên:
- Ối mẹ ơi!
Y lại lòn xuống dưới một chiếc bàn khác. Gã kia nạt:
- Tiểu quỉ, ra đây mau!
Vi Tiểu Bảo cũng đáp lại:
- Lão quỉ, vô đây nè!
Người kia giận dữ, đưa tay định lật chiếc bàn, đột nhiên nghe bình một tiếng, ngực y đã trúng một quyền lập tức bắn văng ra, kẻ đánh y chính là một người ngồi bên cạnh. Người vừa xuất quyền tiện tay cầm một nắm đũa tre trong ống, từng chiếc một phóng ra. Chỉ nghe “Ối trời!”, “Chao ôi!” thảm thiết liên tiếp, những kẻ vây đánh Mao Thập Bát bị trúng phải, kẻ lòi mắt, kẻ trúng hàm, đều bị thương nơi những chỗ hiểm. Một tên kêu lên:
- Cường đạo ghê gớm lắm! Tất cả chạy đi thôi.
Người lành đỡ người què, cả bọn chen nhau ra cửa. Rồi có tiếng vó ngựa kêu lộp cộp, bọn kia đã thẳng đường chạy mất. Vi Tiểu Bảo cười khanh khách, từ dưới gầm bàn chui ra, trong tay vẫn còn cầm thanh đao dính đầy máu. Mao Thập Bát cũng tập tễnh chạy đến, ôm quyền hướng về người ngồi kia:
- Đa tạ tôn giá xuất thủ trợ quyền, nếu không Mao Thập Bát này quả bất địch chúng, việc hôm nay không dễ gì qua khỏi.
Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn lại, hơi chột dạ, thì ra người ngồi kia chính là kẻ trên đường đi đã giữ con ngựa của hắn lại, chính mình đã mở miệng chửi đổng mấy câu. Hán tử đứng lên hoàn lễ nói:
- Mao huynh trên người đã bị thương, vậy mà vì nghĩa phẫn mở miệng chửi bọn Hán gian, khiến cho ai cũng phải sinh lòng kính trọng.
Mao Thập Bát cười nói:
- Người mỗ bình sinh thống hận hơn cả, chính là đại Hán gian Ngô Tam Quế, chỉ tiếc rằng tên ác tặc đó ở tít tận Vân Nam, không cách nào kiếm y cho hả lòng căm tức, hôm nay đánh bọn thủ hạ tiểu Hán gian, kể cũng sướng tay thật. Thỉnh giáo tôn tính đại danh của các hạ là chi?
Hán tử kia đáp:
- Ở đây đông người nói năng không tiện. Mao huynh, chúng mình từ biệt nơi đây, có ngày gặp lại.
Nói xong y đến đỡ một nữ khách ngồi ở bên cạnh. Người đàn bà đó trước sau chỉ cúi đầu nên không nhìn rõ mặt. Mao Thập Bát sẵng giọng:
- Ngươi chẳng thèm nói tên họ cho ta nghe, sao coi rẻ người khác quá vậy?
Người kia không thèm để ý, tiếp tục đỡ nữ khách nọ đi ra, khi đi ngang Mao Thập Bát nói nhỏ vài câu gì đó. Mao Thập Bát giật bắn người, lập tức lộ vẻ cung kính, khom lưng nói:
- Dạ! Dạ! Mao Thập Bát hôm nay được gặp anh hùng, quả là … quả là tam sinh hữu hạnh.
Người kia không trả lời, vẫn đỡ người đàn bà ra khỏi quán, lên xe cưỡi ngựa đi thẳng. Vi Tiểu Bảo thấy Mao Thập Bát lúc đầu ngạo nghễ sau trở nên khúm núm, hết sức ngạc nhiên, hỏi:
- Thằng nhỏ đó lai lịch thế nào? Sao lão huynh lại sợ bắn người lên thế?
Mao Thập Bát đáp:
- Cái gì mà thằng nhỏ với chả thằng lớn? Ngươi có nói thì giữ mồm giữ miệng.
Y nhìn ra thấy chủ quán, tiểu nhị ngấp nghé dòm chừng, trong quán đỗ vỡ tứ tung, mặt đất đầy máu liền quát:
- Có cút đi không nào!
Y vịn vào bàn men ra, nhặt một then cửa làm gậy chống, cởi giây cương một con ngựa nói:
- Mi vịn chặt lấy yên, chân trái để vào bàn đạp, rồi hãy lên ngựa … đúng đó, thế là đúng cách.
Vi Tiểu Bảo gượng nói mẽ:
- Tiểu đệ vốn đã biết cưỡi ngựa rồi, có điều lâu không dợt nên mới quên phứt, chứ cái này dễ ợt mà!
Mao Thập Bát cười khẩy, cũng nhảy lên một con ngựa khác, tay trái cầm cương con ngựa Vi Tiểu Bảo đang cưỡi, giục ngựa chạy về phương bắc, nói:
- Ta đang bị thương, ví thử như gặp bọn ưng trảo chắc không đối phó nổi. Mình không nên đi trên đường cái, chi bằng kiếm chỗ nào kín đáo dưỡng thương ít ngày rồi tính sau.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Gã mới rồi võ công quả là khá thật, chỉ ném từng chiếc đũa ra đã đánh cho bọn kia chạy mất. Mao đại ca, tiểu đệ xem chừng lão huynh không bằng được y đâu.
Mao Thập Bát đáp:
- Cái đó đã hẳn. Y là anh hùng trong Mộc vương phủ ở Vân Nam, lẽ nào không giỏi?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Y là người của Mộc vương phủ ở Vân Nam đấy sao? Vậy mà tiểu đệ lại tưởng y là cái gì Trần tổng đà chủ của Thiên Địa Hội nên đại ca mới rét đến thế.
Mao Thập Bát bực tức nói:
- Ta sợ hồi nào? Thằng quỉ con chỉ nói bá láp. Ấy là ta tôn kính Mộc vương phủ nên đối với y cũng khách khí vài phần.
Vi Tiểu Bảo nói kháy:
- Thế người ta có khách khí với lão huynh không? Đại ca hỏi tôn tính đại danh y, y chẳng thèm đáp, chỉ nói gì mà “Thôi mình từ biệt, hẹn ngày gặp lại”.
Mao Thập Bát nói:
- Thế y về sau chẳng nói cho ta biết là gì? Nếu không làm sao ta biết được y là người của Mộc vương phủ?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thế y ghé tai lão huynh nói gì thế?
Mao Thập Bát đáp:
- Y nói: “Tại hạ là người của Mộc vương phủ ở Vân Nam, họ Bạch”.
Vi Tiểu Bảo bĩu môi:
- Xí, họ Bạch, hóa ra cái đồ công tử bột.
Mao Thập Bát nạt:
- Trẻ con không được nói bá xàm.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Ai gặp người của Mộc vương phủ thì sợ hết hồn hết vía chứ lão tử đây chẳng coi chúng vào đâu. Mao đại ca, đại ca không sợ Ngao Bái, không sợ đại Hán gian Ngô Tam Quế, thế sao lại sợ Mộc vương phủ ở Vân Nam, bộ họ có ba đầu sáu tay gì chăng? À, biết rồi, lão huynh sợ y dùng hai cây đũa đâm đui mắt, Mao Thập Bát biến thành Mao tù mù chứ gì?
Mao Thập Bát đáp:
- Đâu có phải ta sợ bọn họ, có điều hảo hán trên giang hồ nếu như đắc tội với Mộc vương phủ, tính mạng không nói làm gì mà sợ mọi người sỉ mạ, không coi ra gì nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Thế thì Vân Nam Mộc vương phủ là cái gì, mà lại lợi hại đến thế?
Mao Thập Bát đáp:
- Ngươi không phải là người trong võ lâm, có nói ra ngươi cũng chẳng hiểu.
Vi Tiểu Bảo cáu quá văng tục:
- Mẹ nó chứ, chỉ làm bộ làm tịch. Ta xem cũng chẳng có quái gì.
Mao Thập Bát nói:
- Chúng ta hành tẩu trên chốn giang hồ, muốn gặp được người trong Mộc vương phủ ở Vân Nam cũng chẳng khó gì, có điều kết giao được với họ thì quả là thiên nan vạn nan. Hôm nay nhân vì lão tử ra tay đánh với bọn thủ hạ của Ngô Tam Quế, mà Mộc vương phủ lại là kẻ thù không đội trời chung của họ Ngô thành thử họ mới giúp ta. Còn cái thứ nhãi con như ngươi, chuyện hay không lo học, lại giở trò lưu manh, khiến cho lão tử người ta cũng chẳng coi ra gì.
Y nói đến đây vẻ mặt hầm hầm tức tối. Vi Tiểu Bảo khinh khỉnh đáp:
- Ối chao, chậc chậc, người ta làm cao không thèm làm quen với hạng ngươi, sao lại đổ thừa cho ta là thế nào?
Mao Thập Bát nổi cáu:
- Ngươi chui dưới gầm bàn dùng dao chém chân người khác, con mẹ nó chứ, thế là cái thứ võ công gì? Người ta nhìn thấy những trò đó, đời nào lại thèm làm bạn với mình nữa?
Vi Tiểu Bảo cũng chửi lại:
- Tổ bà ngươi, nếu không nhờ lão tử chặt mấy cái chân thì đến tính mạng ngươi cũng tiêu rồi, bây giờ còn giở giọng trách ngược ta nữa sao?
Mao Thập Bát nghĩ đến chuyện bị người của Mộc vương phủ coi nhẹ, càng nghĩ càng căm:
- Ta đã bảo ngươi đừng đi theo ta, ngươi cứ nhất định theo cho bằng được. Ngươi dùng vôi bột ném vào mắt người ta, cái thứ trò hạ tiện đó, trên giang hồ khinh rẻ nhất, so với bỏ thuốc mê, đốt nhang còn tệ gấp mấy lần. Ta thà để gã Hắc Long Tiên Sử Tùng giết chết còn hơn là để ngươi dùng thủ đoạn ti bỉ vô sỉ đó cứu ta. Con mẹ nó, cái mặt mo của ngươi càng nhìn càng lộn ruột.
Vi Tiểu Bảo bây giờ mới biết dùng vôi bột ném vào mắt người ta trên giang hồ là trò cực kỳ hạ lưu, mình đã phạm vào đại kỵ của võ lâm, còn chui dưới gầm bàn chặt chân người ta cũng chẳng phải là vẻ vang gì, có điều bị y chửi nên thẹn quá hóa khùng, mặt hầm hầm đáp:
- Dùng đao giết người cũng là giết, dùng vôi sống giết người cũng là giết, có đếch gì mà bảo thượng lưu với chả hạ lưu? Nếu không có thằng tiểu quỉ này dùng trò hạ lưu cứu ngươi thì tên lão quỉ đã thành thượng lưu quỉ rồi. Đùi ngươi chẳng phải bị thương đấy hay sao? Người ta dùng đao chặt đùi ngươi, còn ta dùng đao chặt ống quyển, đùi cũng là chân, ống quyển cũng là chân, đều là hạ thân cả, có khác gì nhau? Ngươi không muốn cho ta đi theo lên Bắc Kinh, ngươi đi đường ngươi, ta đi đường ta, từ nay hai bên không quen biết gì nữa là xong.
Mao Thập Bát thấy thằng nhỏ người đầy máu me bùn đất, nghĩ thầm sở dĩ y bị thương cũng chỉ vì mình mà ra, nơi đây cách Dương Châu đã xa, bỏ mặc một đứa trẻ ở nơi hoang dã thì quả là tệ bạc, huống chi y lại có ơn cứu mạng mình đến hai lần, lẽ nào vong ân phụ nghĩa cho được? Y bèn dịu giọng nói:
- Thôi được, ta đưa ngươi lên Bắc Kinh cũng không sao, có điều ngươi phải tuân theo ba điều.
Vi Tiểu Bảo mừng lắm, vội đáp:
- Tuân theo ba điều thì có gì là khó? Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, cái gì mã nan truy.
Y đã từng nghe thầy đồ giảng sách nói là “Tứ mã nan truy” nhưng chữ “tứ” lại không nhớ. Mao Thập Bát nói:
- Điều thứ nhất ngươi không được gây gỗ sinh sự, chửi bới thô tục, ăn nói phải cho đàng hoàng.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Cái đó dễ ợt! Không chửi bới thì thôi, lỡ như người ta chửi trên đầu trên cổ mình thì sao?
Mao Thập Bát đáp:
- Vô duyên vô cố, không lẽ người ta lại đến gây chuyện với ngươi? Điều thứ hai, nếu có phải đánh nhau với người ta, không được há miệng cắn, cũng không được liệng vôi sống làm mù mắt kẻ địch, cũng không được bò lê dưới đất, chui xuống gầm bàn phang ống quyển, thò tay vào quần bóp âm nang, thua thì bù lu bù loa, giả vờ chết … những trò hạ lưu đó, nhất thiết không được làm. Đó đều là những chuyện khiến cho người ta khinh rẻ, không phải hành vi của bậc anh hùng hảo hán.
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Ta đánh không lại người ta, không lẽ chịu vậy không hoàn thủ?
Mao Thập Bát đáp:
- Hoàn thủ thì phải dùng võ công chân chính, chứ còn những trò vô lại lưu manh như ngươi, chỉ khiến cho người ta cười đến trẹo quai hàm. Ngươi ở trong kỹ viện giở trò ma mãnh, cái đó chẳng hề chi nhưng đi theo ta hành tẩu giang hồ thì không được như thế nữa.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm: “Ngươi bảo đánh nhau phải dùng võ công chân chính, ta chỉ là một đứa bé con, làm gì có võ công chân thực nào? Cái đó không được, nhất định là không thể được, lẽ nào lại chịu vậy không hoàn thủ”.
Mao Thập Bát lại tiếp:
- Võ công phải do học mà có, chẳng ai vừa ở trong bụng mẹ ra đã biết bao giờ! Ngươi tuổi còn nhỏ, bây giờ bắt đầu luyện võ là vừa lắm. Ngươi khấu đầu bái ta làm thầy, ta sẽ thu ngươi làm đồ đệ. Ta một đời phiêu lãng giang hồ, chẳng được mấy ngày an tĩnh mà có thì giờ thu học trò. Cứ như ngươi, chỉ cần biết nghe lời, cần học khổ luyện, sau này lo gì chẳng luyện thành một thân võ nghệ.
Y nói xong chăm chăm nhìn Vi Tiểu Bảo, ánh mắt ra chiều ban ơn cho thằng bé. Vi Tiểu Bảo lắc đầu:
- Không được, ta với lão huynh là bạn bè bằng vai bằng vế, nay lại muốn ta lạy ngươi làm thầy, chẳng phải ép ta tụt xuống một cấp hay sao? Con bà ngươi chứ, bụng dạ chẳng tử tế gì, tính chơi khăm ta hả?
Mao Thập Bát tức quá, trên giang hồ chẳng biết bao nhiêu người mong được học Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao Pháp danh tiếng lừng lẫy của y, có điều kẻ thì tâm thuật bất chính, kẻ lại tư chất chẳng hay, cũng có người không có cơ duyên khiến mình đang có chuyện gấp nên không rảnh rang mà thu đồ truyền nghệ. Vậy mà hôm nay nghĩ đến cái tình Vi Tiểu Bảo cứu mạng cho mình, định dạy y võ công, y lại nhất định cự tuyệt, trong cơn cuồng nộ toan đánh ra một chưởng, tay đã giơ lên nhưng lại cố nhịn nói thêm:
- Ta bảo cho mà biết, lúc này ta đang hứng khởi, mới chịu thu ngươi làm đồ đệ, chứ ngày sau có rập đầu một trăm cái, ta cũng chẳng khứng chịu đâu.
Vi Tiểu Bảo mặt câng câng:
- Thế thì đã sao nào? Ngày sao ngươi có rập đầu ba trăm cái cầu ta, năn nỉ ta bái ngươi làm thầy, ta cũng nhất định không chịu. Làm đồ đệ ngươi, việc gì cũng phải nghe lời, còn ra cái thá gì nữa? Ta chẳng thèm học võ công của ngươi.
Mao Thập Bát tức không để đâu cho hết nói:
- Được rồi, không học cũng không sao, ngày sau ngươi bị địch nhân bắt, chết không được, sống không xong, lúc đó đừng có hối.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Làm gì mà phải hối hận? Ví như có học được võ công của ngươi, thì cũng đã hơn ai? Ngươi bị Hắc Long Tiên trói chặt, không cục cựa được, vừa gặp một gã công tử bột của Mộc vương phủ ở Vân Nam, vội vàng khúm na khúm núm, suýt soa bợ đỡ xin được làm quen, người ta coi như cái giẻ rách không thèm chơi. Võ công ta tuy không bằng ngươi thật, nhưng …
Mao Thập Bát càng nghe càng lộn ruột, không còn nhẫn nại được nữa, vung tay vả cho thằng bé một cái. Vi Tiểu Bảo cũng đã liệu y sẽ đánh mình nên không khóc, trái lại còn cười hô hố nói:
- Ngươi bị ta nói trúng tim đen nên mới nổi sùng chứ gì? Ta hỏi ngươi, có phải là ngươi muốn kết giao bằng hữu với người ta, người ta không coi vào đâu, giận cá chém thớt nên đổ lên đầu ta, phải vậy không?
Mao Thập Bát không còn cách nào làm gì thằng nhãi này, đánh nó cũng không xong, chửi nó cũng không được, y vốn tính nóng như lửa, lúc này chỉ còn cố gắng dằn xuống, hừ một tiếng, tính chuyện dằn mặt nên buông dây cương ra, kêu lên:
- Ngựa ơi, ngựa ơi, mau mau nhảy dựng lên, liệng thằng quỉ con này xuống cho nó biết thân.
Y vốn định giao ước với Vi Tiểu Bảo ba điều kiện, tới điều thứ hai thấy không xong nên không nói tiếp nữa. Vi Tiểu Bảo tự cầm giây cương, con ngựa ngoan ngoãn chạy, không làm khó y. Thằng bé hết sức vừa ý, nghĩ thầm: “Ngươi không dạy ta cưỡi ngựa, lão tử không biết học lấy hay sao?”. Lại nghĩ thầm: “Từ nay trở đi ta theo ngươi hành tẩu giang hồ, thể nào chẳng thấy ngươi đánh nhau với người ta, ngươi không dạy, bộ ta đui hay sao mà không biết nhìn? Ta không chỉ học võ công của ngươi mà đến võ công của kẻ đối đầu ta cũng học được. Võ công mấy người gom lại làm một, thể nào cũng trội hơn ngươi. Hừ, con mẹ nó, làm phách hoài! Bản sự ném đũa của thằng công tử bột xem còn dùng được, nếu như y lạy ta xin ta học công phu của gã, lão tử không chừng bằng lòng. Tổ cha y, sao y lại phải rập đầu lạy mình để năn nỉ mình học công phu của hắn nhỉ?”. Nghĩ đến đây, bất giác bật cười.
Mao Thập Bát qauy đầu lại hỏi:
- Có gì mà tức cười?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ta nghĩ đến gã công tử bột của Mộc vương phủ …
Mao Thập Bát hỏi:
- Cái gì mà công tử bột?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Thì y chẳng họ Bạch là gì?
Mao Thập Bát gắt:
- Họ Bạch là họ Bạch, sao lại thành công tử bột? Người ta họ Bạch, ở Mộc vương phủ tại Vân Nam có tiếng lắm đó. Lưu, Bạch, Phương, Tô là tứ đại gia tướng của Mộc vương phủ ở Vân Nam.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Cái gì tam đại gia tướng, tứ đại gia tướng? Mộc vương phủ thì đã ra quái gì?
Mao Thập Bát đáp:
- Ngươi ăn nói cho tử tế có được không? Ở chốn giang hồ, nói đến Mộc vương phủ, không ai là không kính phục đến bò xuống đất, sao lại “ra quái gì” là thế nào?
Vi Tiểu Bảo bực tức, chỉ hứ một tiếng, không trả lời. Mao Thập Bát nói tiếp:
- Năm xưa Minh Thái Tổ khởi binh phản Nguyên, Mộc vương gia Mộc Anh lập được đại công, khôi phục được Vân Nam nên Thái Tổ phong cho họ Mộc đời đời trấn thủ Vân Nam, chết đi rồi lại được phong cái gì gì vương đó, con cháu đời đời, thế tập cái gì gì Quốc Công.
Vi Tiểu Bảo vỗ yên ngựa một cái, lớn tiếng:
- Thì ra Vân Nam Mộc vương phủ cái gì đó, chính là nhà Mộc Anh Mộc vương gia. Lão huynh nói đến Vân Nam Mộc vương phủ, chẳng rõ ràng gì cả, nếu như nói sớm là Mộc Anh Mộc vương gia thì có phải ta biết ngay không? Mộc vương gia chết mấy nghìn năm rồi, đại ca việc gì phải sợ đến thế?
Mao Thập Bát đáp:
- Cái gì mà mấy nghìn năm? Chỉ bá láp. Bọn ta trên giang hồ kính trọng Mộc vương phủ đâu có phải vì sợ Mộc Anh Mộc vương gia mà là vì con cháu ông ta là Mộc Thiên Ba. Hoàng đế cuối đời Minh là Quế vương chạy đến Vân Nam, Kiềm Quốc Công Mộc Thiên Ba, phải rồi, nhớ ra rồi, đó là Kiềm Quốc Công son sắt một lòng, bảo giá hộ chúa. Tên gian tặc Ngô Tam Quế đánh đến Vân Nam, Kiềm Quốc Công bảo vệ Quế vương chạy sang Miến Điện. Bọn khốn kiếp ở Miến Điện định giết Quế vương, Mộc Thiên Ba liều mình chết thay cho chủ. Một hào kiệt trung nghĩa song toàn như thế, quả thực cổ kim khó gặp.
Vi Tiểu Bảo nói:
- À, vị Mộc Thiên Ba lão gia này, hóa ra là con cháu của Mộc Anh trong Anh Liệt Truyện. Mộc vương gia dũng cảm không chê được, là ái tướng của Thái Tổ hoàng đế, cái đó tiểu đệ thuộc trơn như cháo chảy.
Y từng nghe thuyết thư tiên sinh kể Anh Liệt Truyện nào là Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Hồ Đại Hải, Mộc Anh các tướng, y quen thuộc lắm rồi, bèn hỏi thêm:
- Sao lão huynh không nói sớm? Nếu như tiểu đệ biết được Mộc vương phủ chính là nhà của Mộc Anh Mộc vương gia thì đối với ông bạn công tử bột kia cũng nể nang vài phần. Lưu, Bạch, Phương, Tô tứ đại gia tướng là những ai?
Mao Thập Bát đáp:
- Lưu Bạch Phương Tô tứ gia, tức là bốn gia tướng của Mộc vương gia, tổ tiên đi theo vương gia bình phục Vân Nam. Thiên Ba công hộ giá qua Miến Điện, hậu nhân của bốn gia tướng này cũng chiến đấu cho tới chết mới thôi. Chỉ những tử đệ còn nhỏ tuổi chạy thoát được, ta gặp vị anh hùng họ Bạch kia tỏ ra khách khí, trước là vì giúp ta đẩy lui bọn ưng khuyển của đại Hán gian …
Vi Tiểu Bảo xen vào:
- Ta cũng giúp lão huynh đẩy lui bọn chó săn tay chân của đại Hán gian, sao đối với ta không khách khí là thế nào?
Mao Thập Bát trừng mắt nhìn y, nói:
- … hai là y là hậu nhân của kẻ trung lương, trên giang hồ ai ai cũng kính trọng. Nếu như đắc tội với người của Mộc vương phủ Vân Nam, có phải là bị mọi người trên thiên hạ sỉ mắng hay sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Thì ra là thế, gặp con cháu người trung lương thì phải nể nang một chút.
Mao Thập Bát nói:
- Từ khi ta gặp ngươi, đến bây giờ mới nghe ngươi nói một câu có đạo lý.
Vi Tiểu Bảo đốp lại ngay:
- Còn ta không biết đến bao giờ mới nghe lão huynh nói được một câu có đạo lý. Mộc vương gia đồng giác độ giang, hỏa tiễn xạ tượng, hành vi đại anh hùng như thế, ai mà không kính trọng? Việc gì phải để đến hạng ngươi thêm rắm dặm rít?
Mao Thập Bát hỏi lại:
- Cái gì mà đồng giác độ giang, hỏa tiễn xạ tượng?
Vi Tiểu Bảo cười rộ lên một tiếng nói:
- Hóa ra ngươi chỉ giỏi tài bợ đít Vân Nam Mộc vương phủ, chứ có biết quái gì những hành vi anh hùng của Mộc vương gia đâu? Thế có biết Mộc vương gia là người gì của Thái Tổ hoàng đế không nào?
Mao Thập Bát đáp:
- Mộc vương gia là thủ hạ đại tướng của Thái Tổ hoàng đế, ai mà chẳng biết?
Vi Tiểu Bảo xì một tiếng nói:
- Hừ, đại tướng? Đại tướng thì dĩ nhiên rồi, không lẽ lại là tên lính quèn không tên không tuổi? Hèm, thủ hạ của Thái Tổ, tất cả có sáu vì vương, Từ Đạt Từ vương gia, Thường Ngộ Xuân Thường vương gia, ngươi hẳn biết rồi. Thế còn tứ vương kia là ai?
Mao Thập Bát là thảo mãng hào kiệt, đối với sử sách khai quốc Minh triều nào có biết gì đâu, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân thì có nghe đến nhưng đâu biết là cả thảy đến sáu vị vương, cũng chẳng biết còn có thêm bốn vương gia khác nữa. Vi Tiểu Bảo thì thường thường la cà ở trà phường nghe thấy đồ kể Anh Liệt Truyện, nên thuộc nằm lòng. Khi đó nhà Minh mất chưa lâu, lòng người vẫn còn hướng về thời cũ, nhưng nào có dám công khai bàn chuyện phản Thanh phục Minh, thuyết thư tiên sinh ở trà phường kể truyện mọi triều đại, người nghe thích nhất là chuyện khai quốc đời Minh, khu trừ Thát tử. Minh Thái Tổ mở nước, gian nan nhất là đại chiến với Trần Hữu Lượng ở hồ Bà Dương, nhưng người nghe hứng khởi hơn cả, lại là làm sao xua được quân Mông Cổ ra quan ngoại, làm sao đánh cho Thát tử cúp đuôi chạy trốn.
Người ta nghe vào tai chuyện Minh Thái Tổ đánh quân Mông Cổ mà lòng thì nghĩ đến việc đánh đuổi người Mãn Châu. Người Hán đại thắng, Thát tử đại bại, thế là chí đắc ý mãn rồi. Trong các khai quốc công thần của Minh triều thì Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Mộc Anh ba người được dân chúng sùng bái hơn cả. Thuyết thư tiên sinh khi kể đến ba người làm sao giết quân Thát tử thì nêm mắm dặm muối, thêm dầu thêm mỡ, người nghe ai nấy mặt mày hớn hở, mê mẩn ngẩn ngơ.
Vi Tiểu Bảo thấy Mao Thập Bát đực mặt ra không trả lời được, lại càng đắc ý, nói tiếp:
- Tứ vương còn lại, đó là Lý Văn Trung, Đặng Dũ, Thang Hòa và Mộc Anh Mộc vương gia. Thế bốn vị vương gia này được phong tước vương gì, để ta nói cho nghe chứ xem chừng lão huynh cũng chẳng nhớ nổi, có phải không nào?
Thực tình mà nói, chính y cũng chẳng nhớ được bốn người đó được phong tước vương gì. Mao Thập Bát gật đầu. Vi Tiểu Bảo liền đáp:
- Thang Hòa là bạn cũ của Minh Thái Tổ, tuổi còn lớn hơn. Đặng Dũ thì quen biết Thái Tổ rất sớm, từ đó theo Thái Tổ khôi phục giang sơn. Lý Văn Trung là cháu gọi Thái Tổ bằng cậu. Mộc vương gia là nghĩa tử của Thái Tổ, được ban họ Chu nên còn gọi là Chu Anh, về sau lập nên công lớn, Thái Tổ mới nói trở về họ cũ, thành thử mới gọi là Mộc Anh.
Mao Thập Bát hỏi:
- Thì ra là thế. Còn cái gì đồng giác xạ tượng, ấy là chuyện gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ấy là đồng giác độ giang, không phải đồng giác xạ tượng. Thái Tổ bình định thiên hạ, sau cùng chỉ còn Lương Vương ở Vân Nam, Quí Châu chưa chịu hàng phục. Gã Lương Vương Ky Ly Cô Lỗ Hoa[1], là điệt nhi của hoàng đế cuối cùng triều Nguyên, trấn giữ Vân Nam, Quí Châu không chịu đầu hàng.
Lương Vương đó tên thực là Bả Táp Thích Ngõa Nhĩ Mật[2], Vi Tiểu Bảo không nhớ được, nên bịa đại ra một cái tên. Mao Thập Bát nghe thấy lạ lùng nhưng không dám cãi, chỉ nghe thằng bé nói tiếp:
- Thái Tổ hoàng đế long tâm đại nộ, liền điểm ba chục vạn quân mã, sai Mộc vương gia dẫn binh tấn công, đến biên giới Vân Nam thì gặp quân Nguyên. Nguyên soái quân Nguyên tên là Đạt Lý Ma, thân cao mười trượng, đầu to như cái đấu …
Mao Thập Bát ngắt lời:
- Làm gì có ai cao đến mười trượng?
Vi Tiểu Bảo biết mình nói hớ liền trớ đi:
- Thát tử dĩ nhiên so với người Trung Quốc cao lớn hơn nhiều. Gã Đạt Lý Ma mình mặc giáp sắt, tay cầm trường thương, bên kia sông rống lên một tiếng, thật chẳng khác gì ba tiếng sét đánh giữa lưng trời, chỉ thấy lõm bõm, lõm bõm, lõm bõm liên tiếp, nước văng tung tóe. Thế ngươi có biết chuyện gì xảy ra không?
Mao Thập Bát đáp:
- Không biết. Chuyện gì thế?
Vi Tiểu Bảo nói:
- Thì ra tiếng hú của Đạt Lý Ma, thanh âm truyền qua sông, có đến mươi tên quân nhà Minh sợ quá vỡ mật, ngã lăn xuống ngựa, rơi tõm xuống sông. Mộc vương gia thấy thế biết là không ổn, nghĩ bụng nếu để y hú thêm vài tiếng nữa, quân mình rơi hết cả xuống sông, đại sự hỏng hết, nên nhíu mày một cái nghĩ ra ngay một kế.
Vi Tiểu Bảo lúc bình thời nói năng thô tục, “con mẹ nó” là tiếng đầu câu nhưng khi kể chuyện Mộc Anh bình Vân Nam, học lối thầy đồ không hề có tiếng chửi thề nào, thỉnh thoảng lại chêm vào một thành ngữ, câu được câu chăng. Y lại kể tiếp:
- Mộc vương gia mắt thấy Đạt Lý Ma há chiếc mồm to như tô máu, đang toan hú tiếp, lập tức lắp tên vào cung, tách một tiếng nhắm ngay miệng y bắn ra. Tiễn pháp của Mộc vương gia bách bộ xuyên dương, thiên bộ xuyên khẩu, mũi tên bay vèo một cái, vượt qua sông, nhắm thẳng vào cái mồm rộng như cá ngão của Đạt Lý Ma.
Thế nhưng Đạt Lý Ma cũng là anh hùng hảo hán, thấy tiễn đạo cực kỳ mạnh mẽ, vội vàng hụp đầu, tránh thoát. Chỉ nghe tiếng hậu quân bát nháo la ó “Không xong rồi”. Đạt Lý Ma quay đầu nhìn lại, thấy mười viên tướng ai nấy bị một lỗ xuyên qua ngực, máu tươi phun ra như suối.
Thì ra mũi tên của Mộc vương gia xuyên qua mười viên tướng quân, qua ngực viên tướng thứ nhất, chui ra sau lưng, lại trúng ngực viên tướng thứ hai, cả thảy mười người.
Mao Thập Bát lắc đầu:
- Làm sao thế được? Mộc vương gia dẫu trời sinh thần lực, một mũi tên cũng không thể nào xuyên qua được mười người.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mộc vương gia là tinh tú trên thượng giới hạ phàm, Ngọc Hoàng đại đế sai ngài xuống phò tá vua Thái Tổ chứ nào phải người thường đâu? Bộ ngươi tưởng cũng như Mao Thập Bát đấy à? Một mũi xuyên mười người có cái tên là Xuyên Vân Tiễn.
Mao Thập Bát nửa tin nửa ngờ, hỏi thêm:
- Rồi sau ra sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Đạt Lý Ma trông thấy tức quá, trong bụng nghĩ thầm ngươi biết bắn cung, không lẽ ta không biết? Y cầm cung cứng, bắn một mũi tên về phía Mộc vương gia. Mộc vương gia kêu lên: “Giỏi lắm”, giơ hai ngón tay trái ra, nhẹ nhàng kẹp lấy mũi tên. Vừa ngay lúc đó, trên trời có một bầy nhạn[3] bay qua, kêu quàng quạc. Mộc vương gia nghĩ ra một kế, kêu lớn: “Xem ta bắn trúng mắt trái con nhạn thứ ba đây!”. Vút một tiếng, nhắm ngay con chim bắn tới. Đạt Lý Ma nghĩ thầm: “Ngươi muốn bắn con nhạn thứ ba cũng đã khó rồi, lại còn nói gì mắt trái mắt phải?”. Y ngửng lên xem thì ngay lúc đó, tên liên châu của Mộc vương gia bắn ra, ba mũi liền bắn vào Đạt Lý Ma.
Mao Thập Bát vỗ đùi reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Đó chính là kế Thanh Đông Kích Tây[4].
Vi Tiểu Bảo tiếp:
- Thế nhưng mạng Đạt Lý Ma chưa đến nỗi tuyệt, mũi tên thứ nhất trúng ngay mắt trái y, ngã bật ngửa, mũi tên thứ hai, thứ ba liên tiếp bắn trúng tám tên đại tướng Thát tử. Thát tử trên người đầy lông lá, quân Minh gọi chúng là Mao binh, Mao tướng. Mộc vương gia liên tiếp bắn ba mũi tên, chết cả thảy mười tám viên Mao tướng nên mới gọi là:
Mộc vương gia cách giang đại chiến
Tam tiễn xạ tử Mao thập bát
Mao Thập Bát chưng hửng, hỏi:
- Cái gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mộc vương gia cách sông bắn chết mười tám tên Mao quân.
Y nói đến đây, nhịn không nổi cười lên khanh khách. Mao Thập Bát bấy giờ mới vỡ lẽ, y xách mé nói xa nói gần để rủa mình bèn chửi:
- Con mẹ nó, chỉ nói bá láp! Mộc vương gia cách giang đại chiến, Tam tiễn xạ tử Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
- Khi đó ta chưa sinh ra đời, Mộc vương gia làm sao bắn chết ta được?
Mao Thập Bát nói:
- Thôi ngươi đừng có nói tầm xàm. Đạt Lý Ma mắt trái trúng tên, rồi sao nữa?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Quân Nguyên thấy nguyên soái bị trúng tên, ngã lăn xuống ngựa, lập tức đại loạn. Mộc vương gia đang định xua quân vượt sông, bỗng nghe bên kia bờ có tiếng pháo hiệu nổ vang, thì ra viện binh của chúng đã tới, bắn tên rào rào như mưa, mù trời tối đất. Mộc vương gia lại nghĩ ra một kế, sai bốn viên đại tướng thủ hạ, len lén dẫn quân về phía hạ lưu vượt sông, vòng ra tấn công phía sau quân Nguyên, khi đó tù và đồng sẽ thổi lên inh ỏi.
Mao Thập Bát hỏi:
- Bốn viên đại tướng đó, ắt hẳn là bọn Lưu, Bạch, Phương, Tô chăng?
Vi Tiểu Bảo cũng chẳng biết có phải hay chăng, nhưng không muốn để cho Mao Thập Bát đoán trúng, lắc đầu:
- Không phải, bốn viên đại tướng đó là Triệu, Tiền, Tôn, Lý. Lưu, Bạch, Phương, Tô bốn người thì ở lại bên cạnh Mộc vương gia thủ vệ.
Mao Thập Bát gật gù:
- Thì ra là thế!
Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
- Mộc vương gia liền truyền lệnh xuống, bảo binh sĩ của bốn thủ hạ Lưu, Bạch, Phương, Tô cùng reo hò, đồng thời chèo xuồng nhỏ, ôm cây gỗ ra giữa giòng, lại sai một nghìn quân Minh, làm bộ như đang tính qua sông. Quân Nguyên thấy quân Minh dự định vượt qua, lại càng ra sức bắn tới. Mộc vương gia bấy giờ mới thu binh, cách nửa giờ nữa lại sai quân giả vờ như định vượt sông, quân Nguyên lại bắn xuống như mưa. Trong sông không biết bao nhiêu cá tôm cua rùa bị bắn chết.
Mao Thập Bát nói:
- Cái đó ta không tin. Bắn chết cá thì còn được, tôm thì nhỏ quá, cua rùa có mai cứng, làm sao bắn chết chúng được?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Nếu như lão huynh không tin, chi bằng mình đến thị trấn đằng trước mua một con rùa, một con cua, mua thêm một con tôm dùng giây buộc lại treo lên, rồi dùng tên bắn thử, để xem chết hay không chết.
Mao Thập Bát nghĩ thầm: “Mình đi đường đang gấp gáp, có ai rảnh để làm những chuyện tào lao”. Y nghe đang say mê, sợ Vi Tiểu Bảo lại dỗi không kể tiếp nữa, bèn nói:
- Ngươi nói bắn chết thì đúng là chết, rồi sau ra sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Về sau binh sĩ thủ hạ của Mộc vương gia, vớt dưới sông lên mười tám con rùa mình đầy lông lá lên nấu ăn, chứ đâu có gì nữa.
Mao Thập Bát vừa cười vừa chửi:
- Thằng tiểu quỉ, chỉ giỏi tài chửi xéo chửi xiên. Thế rồi Mộc vương gia làm cách nào qua sông?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mộc vương gia thấy Thát tử bắn tên, liền sai quân la ó, khua chiêng đánh trống làm như lại tính vượt sông, cứ như thế mấy bận nhưng không qua sông thật. Bỗng nghe đằng sau quân Thát tử tiếng tù và inh ỏi, biết rằng bốn tướng Triệu, Tiền, Tôn, Lý đã xuống dưới hạ lưu qua được rồi, chặn đường phía sau quân Nguyên, bấy giờ mới hạ lệnh liều chết qua sông.
Các tướng cầm khiên che trước mặt đẩy thuyền làm phao tấn công qua. Thát tử bắn đã lâu, bao nhiêu tên gần hết rồi, nghe từ sau lưng tiếng quân địch đánh thốc tới, chủ tướng lại trúng tên trọng thương, không khỏi quân tâm đại loạn.
Mộc vương gia cưỡi ngựa đi đầu, xung phong đánh tới, Thát tử chạy tán loạn tứ phía. Mộc vương gia trông thấy trong đám quân Nguyên có một đại tướng nằm phục trên lưng ngựa, rất đông quân lính trước sau hộ vệ, ắt là Đạt Lý Ma liền giục ngựa đuổi theo, quát lớn: “Thát tử Đạt Lý Ma, sao không xuống ngựa đầu hàng?”. Đạt Lý Ma đáp: “Ta … ta không phải Đạt Lý Ma, ta là Mao…” Mộc vương gia thấy bên mắt trái của y trúng một mũi vũ tiễn, cán tên còn khắc chữ vàng, chính là chữ Mộc, chẳng phải tên mình bắn ra thì còn ai? Đến nước này không còn khách khí gì nữa, ông bèn vươn cánh tay dài, chộp lấy y ném xuống đất quát lên: “Trói nó lại!”.
Bốn tướng Lưu, Bạch, Phương, Tô ùa tới, xách Đạt Lý Ma lên, buộc vòng trong vòng ngoài thật chặt. Trận đó quân Nguyên đại bại, chết đuối không biết bao nhiêu mà kể. Bọn rùa đen trên sông ăn xác Thát tử lông lá, từ đó trên mình cũng mọc lông, cái thứ rùa đó mới gọi là rùa lông, ở vùng khác không có.
Mao Thập Bát biết rằng Vi Tiểu Bảo lại chửi xỏ mình, hừ một tiếng nhưng không dám cãi, ở Vân Nam quả có loại rùa lông đó chăng làm sao biết được. Vi Tiểu Bảo tiếp:
- Mộc vương gia toàn thắng rồi, lập tức tiến vào kinh thành của Lương vương. Đến bên ngoài thành thấy êm ắng không một tiếng động, vương gia liền sai quân đánh trống khiêu khích, chỉ thấy trên đầu thành đưa lên một tấm biển gỗ viết hai chữ “Miễn Chiến”.
Mao Thập Bát nói:
- Thì ra Lương vương biết mình đánh không lại nên treo bảng Miễn
Chiến Bài.
Vi Tiểu Bảo tiếp:
- Mộc vương gia lòng dạ nhân từ, nghĩ thầm nếu Lương vương đã treo miễn chiến bài, hẳn là có ý đầu hàng, nếu như mình ra lệnh đánh thành thì sau khi phá vỡ, bách tính sẽ chết chóc rất nhiều, chi bằng bãi chiến ba hôm, để y có dịp ra hàng, đỡ phải tổn thương đến trăm họ.
Mao Thập Bát vỗ đùi, lớn tiếng nói:
- Đúng quá! Mộc vương gia một nhà trấn thủ Vân Nam, cùng Minh triều đồng thủy đồng chung, cũng bởi vì vương gia yêu thương bách tính, tâm địa nhân từ nên được trời cao phù hộ.
Vi Tiểu Bảo kể tiếp:
- Đêm hôm đó vương gia ngồi trong quân doanh thắp đèn đọc Xuân Thu…
Mao Thập Bát ngắt lời:
- Quan vương gia[5] mới đọc Xuân Thu, không lẽ Mộc vương gia cũng đọc hay sao?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Cả hai người đều là vương gia, tất nhiên là đọc Xuân Thu rồi. Không đọc Xuân Thu, chẳng lẽ lại đọc Hạ Đông chăng? Sách Hạ Đông là sách Trương Phi đọc, Trương Phi lỗ mãng, hữu dũng vô mưu. Mộc vương gia là sao Vũ Khúc trên trời chuyển thế, có khác gì Quan vương gia nên chỉ đọc Xuân Thu, không đọc Hạ Đông.
Mao Thập Bát nào có biết Xuân Thu hay Hạ Đông là loại sách gì, gật gù khen phải. Vi Tiểu Bảo lại tiếp:
- Mộc vương gia đọc được một lát, đột nhiên mắc tiểu mới đứng lên cầm kim dạ hồ[6] do Thái Tổ hoàng đế ban cho đang định tiểu tiện, bỗng nghe trong thành truyền ra mấy tiếng rống, thanh âm vang dội, mà không phải tiếng hổ gầm, cũng chẳng phải ngựa hí. Mộc vương gia nghe rồi, xem chừng không ổn …
Mao Thập Bát hỏi:
- Thế tiếng con gì kêu vậy?
Vi Tiểu Bảo hỏi lại:
- Lão huynh thử đoán xem sao?
Mao Thập Bát đáp:
- Chắc là có vài tên Thát tử cỡ như Đạt Lý Ma ở trong thành lớn tiếng kêu gào.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu:
- Không phải! Mộc vương gia vừa nghe thấy, liền không đi tiểu nữa, cầm kim dạ hồ cung kính để lên bàn …
Mao Thập Bát ngạc nhiên:
- Sao lại để tiện hồ lên trên bàn?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Đây là kim tiện hồ do hoàng đế ngự tứ, ngươi tưởng là cái tiện hồ bình thường hay sao? Thành thử Mộc vương gia khi đặt trở lại mới phải cung kính. Ông để xong liền đánh trống thăng trướng, chiêu tập các quan các tướng, lấy ra một kim bài lệnh tiễn nói: “Lưu tướng quân nghe đây: Truyền lệnh cho ngươi đem ba nghìn quân sĩ, suốt đêm đi bắt chuột đồng, bắt được nhiều thì có thưởng, bắt không đủ chiếu quân pháp mà xử trị”. Lưu tướng quân đáp: “Đắc lệnh!”, nhận lấy lệnh tiễn, đi bắt chuột.
Mao Thập Bát ngạc nhiên hỏi:
- Đi bắt chuột làm gì thế?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mộc vương gia dụng binh như thần, quân cơ sao có thể tiết lậu được? Nguyên soái ra lệnh thì cứ thế mà làm. Người nhận lệnh nếu hỏi thêm một câu, Mộc vương gia bực mình, lập tức sai lôi ra ngoài trướng chém đầu. Nếu lão huynh muốn làm tướng dưới quyền Mộc vương gia, cứ cái thói hỏi tới hỏi lui, thì dù có mười tám cái đầu lâu, con mẹ nó cũng bị Mộc vương gia chặt hết ráo rồi.
Mao Thập Bát đáp:
- Nếu ta làm tướng, dĩ nhiên không hỏi. Ngươi đâu phải là Mộc vương gia, không lẽ cũng không cho hỏi hay sao?
Vi Tiểu Bảo xua tay:
- Không hỏi được! Không hỏi được! Mộc vương gia lại lấy ra chiếc kim bài lệnh tiễn thứ hai, gọi Bạch tướng quân nghe lệnh, truyền rằng: “Ngươi đem hai vạn quân, đi ra ngoài năm dặm đào một cái mương dài, dài hai dặm, rộng hai trượng, sâu ba trượng, đào suốt đêm, không được sơ xuất”. Bạch tướng quân nhận lệnh ra đi. Mộc vương gia sau đó ra lệnh lui binh, nhổ trại trở về, ra xa sáu dặm đóng lại.
Mao Thập Bát càng nghe càng lạ lùng hỏi:
- Nghe thật là kỳ quái, ta chẳng đoán ra được chuyện gì!
Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng nói:
- Hừm, nếu phép dụng binh của Mộc vương gia mà để ngươi đoán được, Mộc vương gia biến thành Mao Thập Bát, Mao Thập Bát biến thành Mộc vương gia rồi còn gì. Sáng sớm ngày hôm sau, Lưu, Bạch hai tướng trở về báo tin: chuột đồng bắt được hơn một vạn con, cái mương cũng đã đào xong. Mộc vương gia gật đầu nói: “Hay lắm!”. Sau đó sai thám tử đến bên chân thành nghe ngóng động tĩnh. Đến quá trưa, bỗng nghe trong thành có tiếng chiêng trống ầm ầm, rồi tiếng người la hét, thám tử giục ngựa quay về báo: “Khải bẩm nguyên soái: Đại sự hỏng rồi”. Mộc vương gia vỗ án đứng lên quát: “Con mẹ nó, làm gì mà quýnh quáng thế?”. Thám tử trình rằng: “Khải bẩm nguyên soái: Thát tử mở cửa thành phía tây, trong thành chạy ra mấy trăm con trâu yêu quái mũi dài, đang rầm rập tấn công về hướng chúng ta”. Mộc vương gia cười ha hả nói: “Trâu yêu quái mũi dài là cái gì! Đi xem lại ra sao!”. Thám tử tuân lệnh quay ra.
Mao Thập Bát lạ lùng:
- Trâu yêu quái mũi dài là cái giống gì thế?
Vi Tiểu Bảo nghiêm nét mặt đáp:
- Ta cũng đã liệu ngươi chẳng biết gì cả. Cái giống đó so với trâu còn to hơn nhiều, da thô thịt dày, mũi thật dài, hai chiếc răng nhọn chĩa về phía trước, hai chiếc tai phe phẩy, trông hình dáng hung mãnh vô cùng, không phải là trường tị tử ngưu yêu thì là gì?
Mao Thập Bát ồ lên một tiếng, gật gù, suy nghĩ xem cái giống trâu yêu quái mũi dài kia hình dạng ra sao. Vi Tiểu Bảo nói tiếp:
- Mộc vương gia lẩm bẩm một mình: “Gã thám tử quả là hồ đồ, kém kiến thức nên cái gì cũng lạ, thấy lạc đà thì bảo ngựa gù lưng, thấy voi thì bảo là trâu mũi dài”.
Mao Thập Bát sửng sốt, lập tức cười ha hả nói:
- Tên thám tử quả là hồ đồ, gọi voi là trâu mũi dài. Có điều y là người phương bắc, xưa nay chưa từng thấy voi, cũng không đáng trách.
Nơi thành Dương Châu khi thầy đồ kể đến đoạn “ trâu yêu quái mũi dài” mọi người trong quán đều cười lên hô hố, lúc này Vi Tiểu Bảo cũng lập lại y hệt, quả nhiên cũng khiến cho Mao Thập Bát cười sặc sụa. Vi Tiểu Bảo lại tiếp tục kể:
- Mộc vương gia dàn trận nhìn về phía xa xa, thấy bụi bay mù mịt, mấy trăm con voi đầu buộc dao sắc, đuôi bốc lửa, điên cuồng phóng tới. Thì ra đất Vân Nam cận kề Miến Điện, Lương vương mua của Miến Điện vài trăm con voi, bày hỏa tượng trận, buộc cành thông vào sau đuôi con vật, đốt lửa lên. Đàn voi kinh hoảng, lập tức xông vào quân Minh. Voi là giống da dày thịt chắc, tên bắn không ăn thua gì, quân Minh nếu như rối loạn, Thát tử theo sau đàn voi sẽ xông vào xung sát. Quân Minh đều là người phương Bắc, xưa nay chưa từng thấy voi, vừa trông thấy không khỏi kinh hoàng, thể nào chẳng kêu thầm: “Ngưu ma vương đuôi phun lửa, hôm nay xem ra không xong”.
Mao Thập Bát vẻ mặt lo âu, trầm ngâm nói:
- Hỏa tượng trận quả là lợi hại.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Mộc vương gia không động thanh sắc, chỉ cười khẩy, đợi đến khi đàn voi xông đến cách chừng mười trượng mới quát lên: “Thả chuột ra”. Một vạn con chuột bấy giờ thả ra, trong chốc lát, mặt đất lúc nhúc đầy những chuột là chuột, chạy đông chạy tây. Phải biết giống voi kia không sợ sư tử hổ báo, nhưng lại sợ nhất là chuột. Nếu như chuột chui được vào trong tai, voi to lớn là thế mà không làm gì được. Đàn voi trông thấy chuột, sợ đến mất vía, quay đầu chạy ngược trở vào trận địa của Thát tử, giày xéo quan quân nhà Nguyên kẻ vỡ đầu người lòi ruột. Cũng có con không biết phương hướng, chạy về phía quân Minh thì đều bị sa xuống rãnh. Bấy giờ Mộc vương gia mới quát lên: “Bắn tên lửa”. Lệnh của lão nhân gia truyền ra, trên không hàng muôn hàng vạn đốm lửa hoa, trông đẹp mắt vô cùng.
Mao Thập Bát hỏi:
- Sao tên bắn ra lại cháy được?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Ngươi tưởng hỏa tiễn là tên có lửa hay sao? Sai rồi! Hỏa tiễn chính là pháo bông đó thôi. Ở trong quân Minh, có những loại hỏa dược dùng lưu hoàng, diêm tiêu, tối hôm trước Mộc vương gia đã truyền lệnh, sai quân sĩ dùng hỏa dược làm pháo bông, khi bắn ra, tàn lửa bay đầy trời, bình bình bang bang nổ rầm cả lên. Đoàn voi nghe tiếng lại càng sợ, chỉ biết cắm đầu chạy, trận thế quân Thát tử bị tan nát, vỡ loạn xà ngầu, không còn gì nữa.
Mộc vương gia liền hạ lệnh đánh trống thúc quân, quan quân la ó hò reo chạy theo đàn voi xông vào trong thành. Lương vương cùng các phi tử đang ở trên thành uống rượu, đợi tin quân Minh đại bại, bỗng thấy mấy trăm con voi xông vào. Lương vương kêu lên: “Cô lỗ a bố thổ, ô lý ô, cô lỗ a bố thổ, ô lý ô!”.
Mao Thập Bát lạ lùng:
- Y xí xố ô lý ô là nghĩa gì?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Y là Thát tử, kêu lên dĩ nhiên là tiếng Mông Cổ, y nói là: “Ối trời ơi không xong, voi nổi loạn rồi!”. Y chạy xuống dưới thành, thấy một chiếc giếng, liền nhảy xuống đó định tự sát. Ngờ đâu Lương vương to béo quá, cái bụng cực lớn, nhảy xuống mới được một nửa thì cái bụng nút chặt miệng giếng, lên không được, xuống không xong chỉ đành kêu: “Khổ quá, cô vương chết kẹt rồi”.
Mao Thập Bát hỏi:
- Sao bây giờ y lại không nói tiếng Thát tử nữa?
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Y vẫn kêu bằng tiếng Thát tử, có điều ngươi không hiểu, nên ta sửa thành tiếng của mình. Mộc vương gia giục ngựa chạy trước xông vào thành, trông thấy một lão Thát tử mặc hoàng bào, đầu đội kim quan, tin chắc chính là Lương vương, thấy cái bụng phệ của y chẹn tại miệng giếng, không khỏi cười lên ha hả, thò tay nắm tóc nhắc y ra. Ngờ đâu mùi thối xông lên tận mây, hóa ra Lương vương sợ quá nên vãi cứt vãi đái ra rồi.
Mao Thập Bát cười sằng sặc nói:
- Tiểu Bảo, chú mày kể chuyện quả là có duyên. Thì ra Mộc vương gia bình Vân Nam quả là trí dũng song toàn. Ví như lão nhân gia không bày trận chuột đồng, đàn voi lửa của Lương vương tiến tới, quân Minh ắt sẽ đại bại.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Cái đó đã hẳn. Mộc vương gia đánh trận dùng chuột, chúng ta đánh nhau dùng vôi sống, hai bên cũng tám lạng nửa cân.
Mao Thập Bát lắc đầu:
- Không phải! Người đời nói “Binh bất yếm trá[7]”, đánh trận dùng kế gì cũng được. Gia Cát Lượng chẳng dùng kế không thành là gì đấy ư? Còn như bọn ta một đao một thương, hành tẩu giang hồ thì phải quang minh lỗi lạc, đánh trận và đánh lộn không thể giống nhau.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Tiểu đệ xem ra cũng không có gì khác.
Hai người vừa đi đường vừa truyện trò nên cũng bớt tịch mịch. Mao Thập Bát đem những cấm kỵ, qui củ giang hồ nói hết cho Vi Tiểu Bảo nghe, sau cùng mới kết luận:
- Ngươi không biết võ công, người ta không cho ngươi là cùng bọn nên ra tay cũng không cạn tàu ráo máng. Còn như ngươi khệnh khạng giở trò, ắt sẽ bị đòn đau.
Vi Tiểu Bảo vênh mặt đáp:
- Tiểu Bạch Long Vi Tiểu Bảo này chỉ biết công phu dưới nước, nằm sâu ăn tôm cá sống, chứ còn công phu trên bờ, xin đừng có thử làm gì.
Mao Thập Bát cười ha hả. Chiều hôm đó hai người ghé tại một nhà nông tá túc. Mao Thập Bát lấy ra hai lượng bạc đưa cho chủ nhà để ở nhờ chừng mươi ngày, vết thương trên người đỡ nhiều, lúc ấy mới thuê xe đi tiếp.
---
[1]nguyên nghĩa là líu la líu lo, xì xà xì xồ
[2]Basalawarmi (chết 1382). Vân Nam khi đó là một khu vực cai trị bởi một hội đồng các sắc tộc, dưới quyền Lương vương. Sau nhiều lần cố gắng thuyết phục Lương vương bằng đường lối hòa bình, năm 1381 Chu Nguyên Chương phải dùng võ lực, sai Phó Hữu Đức (FuYu-te) chỉ huy, có Lam Ngọc (Lan Yu), Mộc Anh (Mu Ying) phụ tá đem 30 vạn quân bình định Vân Nam. Basalawarmi thua trận, đẩy vương hậu xuống hồ rồi tự tử cùng bá quan văn võ. Phó Hữu Đức cùng Lam Ngọc về sau bị vua Hồng Võ sát hại nên người ta chỉ nhắc nhiều đến Mộc Anh (Vụ án này chép trong Nghịch Thần Lục). Thực ra bình Vân Nam công của Phó Hữu Đức là chính.
[3] Tức vịt trời, loài chim mùa đông bay về nam để tránh rét, mùa xuân bay trở lên miền bắc
[4] Kế thứ 6 trong 36 kế
[5] tức Quan Vũ đời Tam Quốc
[6] cái bô đi tiểu
[7] việc binh không nề hành vi trá ngụy