Trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã đề cập đến nhiều nhơn vật võ công trác tuyệt. Nghiên cứu kỹ tài nghệ và đức tánh của một số trong các nhơn vật này ta có thể nhận thấy rằng Kim Dung đã dùng họ để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới, hoặc để mô tả một vài chánh khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
MỤC 1:
CÁC NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG
CHO MỘT VÀI QUỐC GIA
ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI.
Luận võ trên đỉnh Hoa Sơn để xác nhận vai tuồng bá chủ võ lâm là một đề tài đã được Kim Dung khai thác trong ba bộ truyện võ hiệp VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Tên bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ thật ra không thấy có trong danh sách các tác phẩm được Ông Hàn Giang Nhạn cho biết là chắc chắn do Kim Dung sáng tác (theo lời Dịch giả cho bản dịch LỘC ĐỈNH KÝ, Quyển 1-2 trang 3). Bởi đó, chúng ta không thể biết chắc là tác phẩm này quả thật của Kim Dung hay do người khác viết rồi gán cho Kim Dung. Nhưng trừ ra một vài điểm nhỏ nhặt, còn thì phần lớn các chi tiết về các nhơn vật chánh yếu trong đó đều phù hợp nhau nên chúng tôi nghĩ có thể dùng bộ truyện này làm một trong các tài liệu để nghiên cứu về đề tài luận võ ở Hoa Sơn được Kim Dung nêu ra.
Kể cho đủ hết thì có đến ba kỳ luận võ như vậy. Nhưng thật sự thì kỳ luận võ thứ nhì không đưa đến kết quả gì, còn trong kỳ luận võ thứ ba thì các cao thủ võ lâm gặp nhau về việc này là người đã có danh vọng rồi, lại có tinh thần hoà hợp với nhau nên đã không tỷ thí với nhau để phân hơn kém. Vậy, rốt cuộc lại, chỉ có cuộc luận võ đầu tiên là thật sự quan trọng.
Trong cuộc luận võ đầu tiên này, có 5 nhơn vật tham dự. Họ được gọi chung là Võ Lâm Ngũ Bá và mang ngoại hiệu Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái và Nam Đế. Năm nhơn vật này đã có ý thật sự tỷ thí với nhau với mục đích phân hơn kém và quyết định xem ai là người được quyền giữ bộ CỬU ÂM CHÂN KINH. Sau cuộc tỷ thí rất gay go này, mọi người đều công nhận rằng TrungThần Thông có võ cao diệu hơn hết, còn những người khác thì tài nghệ suýt soát như nhau. Ngoài họ ra, còn một nhơn vật thứ sáu được xem là đồng tài nghệ với họ, nhưng không dự cuộc luận võ này. Đó là Bang Chủ của Thiết Chưởng Bang.
Nếu chỉ xét bề ngoài câu chuyện thì Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là những người nhờ dày công tập luyện về nội công và võ nghệ, và có người còn nhờ thêm cơ duyên tiêu thụ được một vật quí hiếm có, mà trở thành những cao thủ siêu tuyệt trong võ lâm. Nhưng khi xem kỹ các chi tiết liên hệ đến họ, chúng ta có thể nhận thấy rằng họ đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một số quốc gia đặc biệt trên thế giới. Trong số các quốc gia được ám chỉ như vậy, laị có những quốc gia được ít nhiều thể hiện bằng những chánh khách có thật, và những quốc gia không có chánh khách biểu tượng cụ thể. Mặt khác, có khi một nhơn vật đã được dùng để tượng trưng cho một khối gồm nhiều quốc gia có những đặc điểm chung nhau.
Nhưng điều chúng ta nên để ý là tác giả các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP không phải dùng cốt chuyện của các bộ truyện võ hiệp này để kể lại cả lịch sử thật sự của các quốc gia được ông ám chỉ qua các nhơn vật võ lâm. Mục đích chánh yếu của ông là nêu ra các đặc tánh của các quốc gia hay khối quốc gia ấy. Các đặc tánh này dựa vào nền văn hoá và tâm lý nhơn dân, nó lại đưa đến những khả năng cá biệt của quốc gia trong cuộc tranh đấu với các quốc gia khác. Nói chung thì Kim Dung chỉ nêu ra một vài chi tiết liên hệ đến lịch sử các quốc gia ấy, theo cái nhìn của ông. Do đó, thời điểm tương ứng của các việc xảy ra trong các câu chuyện và của các cố sự mà nó ám chỉ không phải luôn luôn phù hợp với nhau. Mặt khác, vì quan điểm của Kim Dung đối với các quốc gia được ông ám chỉ bằng các nhơn vật võ lâm đã có sự thay đổi theo dòng thời gian nên trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, cách ông mô tả một vài nhơn vật trong số này cũng có hơi khác cách ông mô tả họ trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU.
Ta có thể nhận thấy ý Kim Dung muốn dùng các nhơn vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia trên thế giới trong đoạn ông mô tả cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn. Trong một giai đoạn của cuộc luận võ này, Võ Lâm Ngũ Bá đã tỷ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch sát nghĩa chữ là “năm nước tranh chiến với nhau.”. Theo lối tỷ thí này thì mỗi người chiếm một phương vị ngũ hành rồi dùng nội công kình lực công kích người khác theo thủ pháp nào cũng được. Năm vị cao thủ tham dự cuộc luận võ được tự do chọn lựa đối thủ, muốn đấu với ai cũng được mà muốn giúp ai cũng được. Vậy, Kim Dung đã trực tiếp dùng từ ngữ “ngũ quốc” tức là “năm nước” để chỉ các cao thủ luận võ với nhau. Ngoài ra, sự diễn tiến của cuộc tỷ thí theo ông mô tả đã cho thấy là những người có cảm tình với nhau có khi đã giúp nhau, nhưng cũng có khi đã thình lình đột kích nhau, và do đó mà đỡ đòn cho người họ không ưa thích. Điều này phù hợp với sự thật trong đời sống quốc tế, là các nước thân nhau có thể giúp nhau mà cũng có thể đánh nhau những đòn bất ngờ, trong khi các nước đối nghịch nhau thường chống nhau mà cũng có khi trợ lực cho nhau một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Với các dữ kiện trêông không đến nỗi quá tệ hại như Tây Độc, nhưng cũng có những thủ đoạn không chánh đáng, như việc bắt giam hay dùng mưu gạt gẫm Châu Bá Thông chẳng hạn. Đối với những người kế vị Trung Thần Thông để lãnh đạo phái Toàn Chân, Đông Tà nhiều khi đã tỏ ra thiếu sự kính trọng và đã có ý muốn lấn áp họ. Khi các đạo sĩ kế vị Trung Thần Thông lãnh đạo phái Toàn Chân lầm tưởng rằng ông đã giam sư thúc họ là Châu Bả Thông và tấn công ông, Đông Tà không thèm giải thích ngay để giải tỏa sự hiểu lầm và sự thù hận. Ông đã tận lực giao đấu với họ và có dụng ý phá tan Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của họ rồi mới nói sự thật cho họ biết. Điều này hàm ý rằng người Nhựt không phải xem Trung Quốc như bạn và ngay đến những lúc không có chủ trương làm hại cho Trung Quốc, họ cũng muốn áp đảo Trung Quốc về mặt tinh thần. Tuy nhiên, Đông Tà cũng có khi giúp phái Toàn Chân. Ông đã cứu Châu Bá Thông thoát khỏi sự hãm hại của hai anh em Âm Trường Giang và Âm Trường Hà trên đảo Lục Hoành. Tuy mục đích cuối cùng của ông là đưa Châu Bả Thông về đảo Đào Hoa để dùng Châu Bá Thông trong việc nghiên cứu võ cõng của phái Toàn Chân, ông cũng đã làm một điều có lợi cho phái này.
Đối với các nước Tây Phương, nước Nhựt cũng vừa theo vừa chống. Khi áp dụng chánh sách canh tân tự cường vào hậu bán thế kỷ thứ 19, người Nhựt đã học hỏi nhiều nơi các nước Tây Phương. Họ đã thâu nhận một số lề lối làm việc của người Tây Phương. Nhưng ngay đến lúc nước họ đã kỹ nghệ hóa, họ vẫn duy trì một số phong tục cổ truyền của họ và vẫn tự phân biệt với người Tây Phương. Điều này đã được Kim Dung ám chỉ qua một số chi tiết trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU. Đông Tà tượng trưng cho nước Nhựt có lúc đã muốn gả con gái là Hoàng Dung cho Âu Dương Công Tử là cháu của Tây Độc, tượng trưng cho các nước Tây Phương. Tuy nhiên, Đông Tà cũng đã nhiều lần chống lại Tây Độc. Cuối cùng, ông đã cho Tây Độc biết rõ rằng ông không phải thuộc loại người của Tây Độc. Tuy có tánh cao ngạo, hay nói và làm ngược lại thế tục, ông vẫn kính trọng các anh hùng liệt sĩ và tôn trọng lẽ phải chớ không phải tàn ngược như Tây Độc. Tây Độc đã giết một ông thầy đồ chỉ vì ông này giảng dạy những điều mà Tây Độc bảo là đạo đức giả, nhưng Đông Tà đã đem chôn cái đầu của ông đồ ấy và tỏ vẻ cảm thương về cái chết của ông ta.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, tuy vẫn duy trì ngoại hiệu Đông Tà cho nhơn vật tượng trưng cho nước Nhựt, Kim Dung đã nói đến ông với nhiều thiện cảm hơn. Mặt khác, Đông Tà đã tỏ ra rất ưa thích Dương Quá. Ông đã dạy cho Dương Quá các môn công phu độc đáo của ông và đã kết bạn với Dương Quá mặc dầu tuổi tác hai người cách biệt nhau xa. Điều này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ việc Nhựt và Mỹ đã trở thành hai nước thân hữu sau trận Thế Chiến II, mặc dầu một bên có nền văn hóa cổ truyền lâu đời, một bên là một quốc gia mới được xây dựng trong hai thế kỷ sau này.
C- SỰ GIAO THIỆP GIỮA LIÊN SÔ VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT VÀ CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA BẮC CÁI VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC
Về Liên Sô thì lúc mới thành lập, nước ấy đã có một chánh sách thân hữu với Trung Quốc và đã giúp Trung Quốc tự tổ chức để chống lại các nước Tây phương. Liên Sô đã gởi sang Trung Quốc một phái bộ do Borodin cầm đầu và phái bộ này đã có một vai tuồng đáng kể trong việc xây dựng các cơ cấu của Trung Hoa Dân Quốc thời ông Tôn Văn cầm quyền. Phần Kim Dung thì khi viết các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, ông hãy còn thiên tả. Bởi đó, ông đã mô tả Bắc Cái, nhơn vật tượng trung cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế như lả một bực anh hùng cái thế và giàu lỏng nghĩa hiệp. Tuy có tỷ thí với Trung Thần Thông để phân hơn kém, Bắc Cái không nuôi ỳ đồ cướp đoạt CỬU ÂM CHÂN KINH trong tay phái Toàn Chân như Tây Độc, Đông Tà. Ông và Trung Thần Thông đã tỏ ra rất tôn trọng nhau và đã có giúp đỡ nhau. Trung Thần Thông đã từng cứu Bắc Cái khỏi thuật Chiêu Hồn và ngón đòn độc hại của Ô Vưu Đạo Nhơn. Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Bắc Cái lại nói khéo cho Trung Thần Thông lưu ý đến các âm mưu gian hiểm của Tây Độc, đồng thời dùng tiếng hú để nhắc Trung Thần Thông là phải có thái độ tích cực chớ không thể ngồi yên mà nghe tiếng đàn tranh của Tây Độc và tiếng tiêu của Đông Tà, vì hai loại âm thanh này phụ họa với nhau làm cho thần trí Trung Thần Thông khó tránh được sự dao động thành ra phải thua trận.
Đổi vớt Đông Tà, Bắc Cái không thân như đối với Trung Thần Thông, nhưng Bắc Cái vẫn có sự tôn trọng Đông Tà. Riêng đối với Tây Độc thì Bắc Cái ra mặt chống đối mạnh mẽ và liên tục. Phần Tây Độc cũng rất ghét Bắc Cái. Khi hai bên từ đảo Đào Hoa về đất liền và cùng ở trên một chiếc thuyền, họ đã gây sự đánh nhau. Bắc Cái đã tha cho cho Tây Độc một lần và đã cứu Tây Độc hai lần khỏi chết. Nhưng liền theo đó, Tây Độc lại thừa lúc Bắc Cái ơ hờ để tấn công Bắc Cái bằng công phu Cấp Mô Công làm cho Bắc Cái bị trọng thương đến mất hết công lực. Khi cho thấy Bắc Cái và Tây Độc luôn luôn xung đột và kích bác lẫn nhau, Kim Dung đã có ý làm nổi bật việc sau Thế Chiến II, Liên Sô và các nước Tây Phương đã trực diện đối đầu nhau về mọi phương diện và phản tuyên truyền nhau một cách mạnh mẽ. Nhưng trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã cho ta thấy Bắc Cái và Tây Độc ôm nhau cười và chết một lượt với nhau sau khi đã đấu võ với nhau và cảm phục tài nhau. Với hình ảnh này. tác giả bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP có thể muốn bảo rằng Liên Sô và các nước Tây Phương không bên nào nắm phần thắng lợi được trong cuộc tranh đấu với nhau. Nếu khinh suất gây chiến tranh hạch tâm để triệt hạ nhau thì cả hai bên đều sẽ bi tiêu diệt hết. Vậy, hai bên đã bị dồn vào cái thế phải chịu chung sổng hay là cùng chết với nhau. Đó là một thông điệp liên hệ đến chủ trương “Giảm Bớt Căng Thẳng” đã lưu hành trên thế giới từ cuối thập niên 1960.
D- SỰ GIAO THIỆP GIỮA CÁC NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI ĐẶC BIỆT LÀ THÁI LAN VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG VÀ LIÊN SÔ, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA NAM ĐẾ VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC VÀ BẮC CÁI
Trong chủ nghĩa Tam Dân, Tôn Văn đã bảo rằng Trung Quốc cần phải có thái độ thân hữu đối với các nước nhược tiểu và phải tận lực giúp đỡ các nước nhược tiểu. Riêng đối với Thái Lan, Trung Quốc đã có những liên hệ văn hóa trong quá khứ. Bởi đó, Nam Đế là nhơn vật tượng trưng cho các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới nói chung và nước Thái Lan nói riêng, cũng được Kim Dung mô tả như là một thân hữu của Trung Thần Thông và có chịu ơn Trung Thần Thông. Trung Thần Thông đã giúp Nam Đế cứu được cha mẹ và lấy lại được ngôi báu đã bị người chú cướp đoạt. Vì vậy, mặc dầu có đến Hoa Sơn luận võ theo lời mời của Trung Thần Thông, Nam Đế đã tỏ vẻ rất kính trọng Trung Thần Thông và không có ý muốn giành lấy CỬU ÂM CHƠN KINH. Nam Đế và phái Toàn Chân không hề có sự xung đột với nhau, mặc dầu Châu Bá Thông đã tư tình với một vương phi của Nam Đế là bà Anh Cô. Đã thế, khi cảm thấy mình đã già yếu, Trung Thần Thông đã đến nước Đại Lý và dạy Nam Đế công phu Nhứt Dương Chỉ để Nam Đế có khả năng chống lại Tây Độc hầu giữ cho CỬU ÂM CHƠN KINH không lọt vào tay Tây Độc.
Đối với Đông Tà và Tây Độc, Nam Đế không có sự hiềm khích, và ngoài lần tỷ thí ở Hoa Sơn, ông không có dịp đấu võ với họ. Tuy nhiên, ông đã tỏ ra kính trọng Đông Tà hơn Tây Độc. Điều này có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ việc giữa hai trận Thế Chiến, Thái Lan đã thân cận với Nhựt nhiều hơn các nước Tây Phương. Riêng đối với Bắc Cái, Nam Đế đã có nhiều cảm tình. Ông đã mời Bắc Cái đến vùng nước Đại Lý và khi xuống tóc đi tu, ông đã mời Bắc Cái dự kiến. Nói chung thì các chi tiết trên đây biểu lộ ý kiến của Kim Dung trong thời kỳ còn thiên tả. Vì lập trường thiên tả này, ông xem Liên Xô là thân hữu của các dân tộc nhược tiểu và có chủ trương giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu chống lại các nước đế quốc thực dân.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Nam Đế đã trở thành Nam Tăng và đã được kính trọng nhiều hơn trước. Điều này hàm ý là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới sau này đã có một vị thế quan trọng hơn trên chánh trường quốc tế.
Đ- SỰ GIAO THIỆP GIỮA NƯỚC ĐỨC VỚI TRUNG QUỐC, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG KHÁC, LIÊN SÔ VÀ CÁ NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP CỦA CỪU THIÊN NHẬN VỚI PHÁI TOÀN CHÂN, TÂY ĐỘC, BẮC CÁI, NAM ĐẾ
Về phần Cừu Thiên Nhận, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, ông không có đụng độ với Trung Thần Thông. Nhưng người tiền nhiệm của ông đã hai lần xung đột với vị Giáo Chủ phái Toàn Chân mà lần xung đột sau đã xảy ra ngay tại căn cứ của phái này. Điều này có thể được dùng để ám chỉ việc nước Đức trước thời kỳ Hitler cầm quyền, đã lấn hiếp Trung Quốc và bắt Trung Quốc nhường đất Thanh Đảo cho mình làm tô giới.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Cửu Thiên Nhận đã hợp tác với Hoàn Nhan Liệt là một thân vương nước Đại Kim, một quốc gia đã từng lấn hiếp Trung Quốc và có thể xem như là tượng trưng của chủ nghĩa đế quốc. Tây Độc cũng đã được Hoàn Nhan Liệt mời hợp tác để tìm bộ Vũ Mục Di Thư và do đó mà cũng đứng về một phe với Cừu Thiên Nhận trong một cuộc đụng độ với phái Toàn Chân, Bắc Cái và Đông Tà. Các sư kiện này được dùng nói lên việc Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít tuy có xung đột với các nước Tây Phương khác, nhưng vẫn áp dụng chánh sách đế quốc xâm lược như các nước ấy. Mặt khác, một số người trong Cái Bang đã vì binh vực dân chúng bị áp bức mà chọi lại hành động của Thiết Chưởng Bang. Sau đó lúc Cái Bang hội họp lại để chỉ định người làm Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã đến nơi hội họp và khuyến dụ Cái Bang nên nhận lễ vật của Hoàn Nhan Liệt mà dời hết về phương nam để nhường phương bắc lại cho nước Đại Kim. Sau khi Cái Bang đã nhận Hoàng Dung làm quyền Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã gặp lại Hoàng Dung và đánh bà này một đòn rất nặng làm cho bà bị trọng thương suýt chết. Với các việc này,Kim Dung đã nhắc lại một số biến cố thời Thế Chiến II. Hai phe Phải Xít và Cộng Sản vốn là kẻ thù của nhau. Nhưng trước khi mở cuộc tấn công các nước Tây âu, Đức Quốc Xã đã ký hiệp ước với Liên Sô để chia vùng ảnh hưởng ở Đông Âu, rồi sau đó, lại thình lình mở cuộc tấn công Liên Sô làm cho nước này suýt chút nữa là bị lâm nguy. Chúng ta nên lưu ý chỗ Hitler đã mở cuộc tấn công Liên Sô lúc nước ấy nằm dưới quyền lãnh đạo của Stalin, mà trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, nhơn vật tượng trưng cho Stalin chính là Hoàng Dung.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang đã trở thành Từ Ân Đại Sư và đã cố gắng tranh đấu với bản chất hung ác của mình để theo đúng lời thầy là Nhứt Đăng Đại Sư dạy. Điều này có thể đã được dùng để ám chỉ việc Tây Đức hiện nay đã theo chế độ dân chủ tự do và có thái độ thân hữu, sẵn sàng viện trợ cho các nước khác, nhất là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới.
Nói chung lại thì sự giao thiệp giữa Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang với nhau cũng như với các nhơn vật liên hệ đến họ không phải mô tả hết lịch sử bang giao thật sự giữa Trung Quốc, Nhựt, các nước Tây Phương, Liên Sô, các nước thuộc Thế Giới Đệ Tam và các nước Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít. Ta phải công nhận rằng nếu Kim Dung theo sát lịch sử bang giao thật sự đó thì ông rất khó có thể làm cho các bộ truyện võ hiệp của ông hấp dẫn được. Bởi đó, ông chỉ dùng một số chi tiết trong sự giao thiệp giữa các cao thủ võ lâm để ám chỉ các biến cố quan trọng trên trường chánh trị quốc tế và chúng tôi chỉ nêu các chi tiết này ra để cho quí vị độc giả suy nghiệm


- VI -
VI- CÁC NHƠN VẬT VÀ ĐOÀN THỂ TƯỢNG TRƯNG
CHO CÁC NƯỚC THEO CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI HỮU PHÁI:
THIẾT CHƯỞNG BANG VÀ ANH EM HỌ CỪU CÙNG CÔNG TÔN CHỈ

     goài Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái và Nam Đế, các bộ VÔ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP còn nói đến anh em nhà họ Cừu là những nhơn vật có võ công siêu tuyệt. Nói chung thì các nhơn vật này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ các nước theo chế độ độc tài hữu phái.
A. BANG CHỦ THIẾT CHƯỞNG BANG CỪU THIÊN NHẬN VÀ NGƯỜI ANH SONG SANH CỪU THIÊN LÝ TIÊU BIỂU CHO NƯỚC ĐỨC QUỐC XÃ VÀ NƯỚC Ý PHÁT XÍT VÀ THỂ HIỆN BẰNG HITLER VÀ MUSSOLINI
Khi mở cuộc luận võ ở Hoa Sơn lần đầu tiên, Trung Thần Thông đã có mời Bang Chủ Thiết Chưởng Bang đến dự, nhưng lúc ấy ông này nhận thấy công lực mình còn kém nên lo luyện Ngũ Độc Thần Chưởng và không đáp ứng lời mời. Do đó, ông không có tỷ thí với Võ Lâm Ngũ Bá để phân hơn kém. Tuy nhiên, ông vẫn được giới võ lâm nói chung xem như là một nhơn vật có tài nghệ tương đương với Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc. Bắc Cái và Nam Đế. Mặt khác, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang lại có một người anh song sinh giống ông như hệt, nhưng tài nghệ kém ông rất xa. Chúng ta có thể xem hai nhơn vật này như là biểu tượng của hai nước Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít và thể hiện bằng hai nhà lãnh tụ Hitler và Mussolini.
1. Các đặc điểm của Thiết Chưởng Bang so với các đặc điểm của các Đảng quốc Xã Đức và Phát Xít Ý.
a. Điều chúng ta có thể nhận thấy trước nhất là Thiết Chưởng Bang là một môn phái chuyên dùng rắn độc để tập luyện võ công, y như Tây Độc. Mặt khác, danh hiệu cũng như công phu căn bản của họ là Thiết Chưởng, mà thiết lại có nghĩa là sắt, tức là một chất thuộc kim loại. Đó là những dấu hiệu cho thấy rằng các nhơn vật của đoàn thể này đã được Kim Dung dùng để tượng trưng cho những nước âu Châu, thuộc khối Tây Phương. Lề lối làm việc hung bạo, cũng như việc đưa người ra làm quan để bóc lột và đàn áp dân chúng, giết người cướp của, và xem mạng người dân như cỏ rác có thể so sánh với chánh sách độc tài toàn diện hữu phái mà các nhà lãnh tụ Quốc Xã và Phát Xít đã áp dụng khi cầm quyền ở Đức và Ý.
b. Mặt khác, theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang lúc đầu là một bang hội do những nhà ái quốc thành lập với mục đích chống sự xâm lấn của nước ngoài, về sau mới lầm lạc đi vào con đường hung bạo, làm hại cho đất nước và nhơn dân. Những điều này phù hợp với lịch sử chung của hai phong trào Quốc Xã và Phát Xít.
Các nước Đức và Ý vốn là những nước có một nền văn minh lâu đời và thco Thiên Chúa Giáo. Sau Thế Chiến I, hai nước này đã bị thương tổn nặng về mặt tinh thần. Nước Đức đã thua trận và phải ký Hiệp Uớc Versaillcs nhận chịu những điều kiện bất lợi và nhục nhã. Phần nước Ý thì đứng về phía lực lượng Đồng Minh thắng trận, nhưng vì yếu hơn các nước Đồng Minh khác nên bi họ xem thường. Nước Ý chỉ tham chiến vì hai nước Anh và Pháp đã hứa hẹn là nếu thắng trận thì Ý sẽ được chia cho một phần đất Áo. Nhưng khi Thế Chiến l chấm dứt, vị Tổng Thống Wilson nuớc Mỹ theo chủ trương Dân Tộc Tự Quyết nên ông không chấp nhận các yêu sách của nước Ý đối với lãnh thổ Áo và hai nước Anh Pháp đã nuốt bỏ lời hứa của mình để theo lập trường của Tổng Thống Wilson. Do đó, người Ý rất bất mãn các nước Đồng Minh và có cảm giác là bị khinh thường.
Phong trào Quốc Xã Và Phát Xít đã khai thác sự bất mãn của hai dân tộc Đức và Ý, nhứt là lúc họ gặp khó khăn trong đời sống vì khủng hoảng kinh tế. Việc đề cao tinh thần dân tộc đã được người Đức và người Ý hoan nghinh nên hai Đảng Quốc Xã Và Phát Xít đã nắm được chánh quyền bằng những cuộc bầu cử tự do và hợp pháp.
Nhưng sau khi nắm được chánh quyền, họ đã áp dụng chánh sách độc tài toàn diện hữu phái và thiết lập một chế độ chuyên chế khắc nghiệt. Riêng người Đức đã thực hiện chủ trương bài trừ Do Thái và sát hại hàng triệu nguời Do Thái vô tội.
2. Sự tương đồng và dị biệt giữa hai Đảng Phát Xít và Quốc Xã, biểu tượng bằng sự khác nhau giữa hai anh em song sinh giống nhau như đúc.
a.. Chế độ Quốc Xã và Phát Xít chỉ mới xuất hiện sau Thế Chiến I và điều này đã được Kim Dung ám chỉ qua việc Bang Chủ Thiết Chưởng Bang không tham dự cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn. Hai phong trào Quốc Xã và Phát Xít vốn phân biệt nhau và xuất hiện ở hai nước khác nhau. Tuy nhiên, nó có những điểm tương đồng lớn lao đến mức người ta đã xem nó như nhau. Phong trào Phát Xít xuất hiện trước phong trào Quốc Xã một thời gian ngắn, và khi gây ra phong trào Quốc Xã, Hitlcr đã bắt chước lề lối tổ chúc và hành động của phong trào Phát Xít do Mussolini lãnh đạo. Nhưng về sau, Đảng Quốc Xã lại mạnh mẽ hữu hiệu hơn Đảng Phát Xít nhiều, vì dân tộc Đức vốn siêng năng và làm việc có phương pháp, trong khi dân Ý tánh tình dễ dãi và ham vui chơi chớ không cần cù làm việc. Bởi đó, trong khi Đức Quốc Xã đã thắng được nhiều trận lớn và Iàm cho thế giới hãi hùng thì Ý Phát Xít lại rất yếu kém và thường thua trận. Ngay đến việc chinh phục một nước nhược tiểu ở Phi Châu như Abyssinia (nay là Ethiopia), Ý Phát Xít cũng đã chật vật lắm mới thắng, và khi đánh một nước nhỏ ở Âu Châu là Hy Lạp, Ý Phát Xít đã thất bại nặng, phải nhờ Đức Quốc Xã tiếp tay. Tuy nhiên, vì phong trào Phát Xít xuất hiện trước nên trên thế giới, danh từ Phát Xít đã được dùng để nói đến chế độ độc tài toàn diện hữu phái một cách tổng quát, chỉ khi nào phải minh đinh rằng chế độ được nói đến là chế độ áp dụng ở Đức, người ta mới dùng danh từ Quốc Xã.
b. Những điều trên đây đã đuợc Kim Dung ám chỉ trong một số chi tiết liên hệ đến Thiết Chuởng Bang. Mặc dầu hai nước Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít khác nhau, các nhơn vật biểu tượng cho họ là Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Lý được xem là thuộc một bang hội với nhau, và sự tương đồng lớn lao giữa hai phong trào Quốc Xã và Phát Xít cũng như việc hai phong trào ấy xuất hiện hầu như đồng thời với nhau đã được Kim Dung ám chỉ bằng việc trình bày hai
nhơn vật trên đây như là hai anh em song sinh. Các chi tiết về hai nhơn vật này cũng phù hợp với sụ thật về hai phong trào Phát Xít và Quốc Xã. Cừu Thiên Lý biểu tượng cho nước Ý Phát Xít được xem là anh, nhưng vì biếng nhác nên võ công rất tầm thường, chỉ dùng sự điêu ngoa bip bợm mà lòe người. Trong khi đó, Cừu Thiên Nhận biểu tượng cho nước Đức Quốc Xã tuy là em nhưng lại siêng năng cần mẫn, cố công luyện tập võ nghệ nên đã có một võ công siẽu tuyệt làmp cho mọi nguời hãi sợ, và cầm quyền điều khiển cả Thiết Chuởng Bang, thành ra anh là Cừu Thiên Lý phải ở vào địa vị thuộc hạ.
3. Kỹ thuật chiến đấu của Thiết Chưởng Bang đối chiếu với chủ trương và lề lốỉ làm việc của hai Đảng Quốc Xã và Phát Xít.
a. Công phu Thủy Thượng Phiêu của Cừu Thiên Nhận và các chủ nghĩa siêu nhơn và siêu tộc của Đảng Quốc Xã Đức.
Về mặt kỹ thuật chiến đấu thì ngoài việc dùng rắn như Tây Độc, và công phu Thiết Chưởng, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang còn một công phu khinh công độc đáo: ông có thể đi trên tuyết mà không để dấu chơn, và có thể đi dưới sông như trên bờ. Do đó, người ta đã gọi ông bằng ngoại hiệu Thủy Thượng Phiêu. Như ta đã thấy, việc anh em Cừu Thiên Lý và Cừu Thiên Nhận chuyên dùng rắn độc và luyện công phu Thiết Chưởng hàm ý rằng các nước mà họ biểu tượng là những nước Âu Châu. Riêng danh từ Thủy Thượng Phiêu, nó có nghĩa là nổi trên mặt nước. Với danh hiệu này, công phu độc đáo của Bang Chủ Thiết Chưởng Bang có lẽ đã được Kim Dung dùng để ám chỉ chủ nghĩ siêu nhơn và siêu tộc của Đảng Quốc Xã Đức.
Theo chủ nghĩa siêu nhơn thì trong nhơn loại, có những người tài giỏi vượt lên trên những kẻ khác, và làm được những công việc vĩ đại, phi thưởng mà phàm nhơn không làm được. Sự tiến bộ của nhơn loại trên con đường văn minh hoàn toàn do nơi các siêu nhơn này mà có. Quần chúng chỉ hưởng các công trình của họ và muốn cho nhơn loại tiến bộ, quần chúng phải hoàn toàn tùng phục và tuân lịnh họ. Quan niệm siêu nhơn đặt nền tảng trên sự bất bình đẳng giữa loài người. Nhưng theo Đảng Quốc Xã Đức, sự bất bình đẳng này không phải chỉ xuất hiện giữa các cá nhân, mà còn xuất hiện giữa các chủng tộc. Đảng này cho rằng chủng tộc tài giỏi nhất trong cả nhơn loại là chủng tộc Aryan. Đó là một siêu tộc đã tạo lập văn minh ở khắp nơi trên thế giới. Nhưng vì bị lai giống với các chủng tộc thấp kém hơn bị họ chinh phục nên nhiều nhánh dân Aryan đã bị thoái hóa và không duy trì nổi nền văn minh mình đã xây dựng. Riêng dân Đức là nhánh dân Aryan thuần túy duy nhất còn sót lại, và xứng đáng làm chủ cả địa cầu. Nhưng muốn thực hiện sứ mạng lãnh đạo cả nhơn loại, người Đúc phải giữ cho chủng tộc mình thuần túy và do đó mà phải diệt trừ người Do Thái đang sống chung lộn với dân Đức.
b- Tài nghệ và xảo thuật của Cừu Thiên Lý so với tài nghệ và xảo thuật của Mussolini
Đảng Phát Xít Ý không theo chủ nghĩa siêu tộc như Đảng Quốc Xã Đức mà theo chủ nghĩa sùng thượng Quốc Gìa. Mộng tưởng của Đảng này là làm cho nước Ý cường thạnh và khôi phục lại địa vị bá chủ của Đế Quốc La Mã xưa kia. Nhưng vì khả năng quá kém, nên nước Ý Phát Xít đã phải chật vật lắm mới chinh phục được nước Abyssinia. Do đó. những lời tuyên bố nẩy lửa của nhà lãnh tụ Mussolini về sự cường mạnh của nước Ý Phát Xít chỉ có tánh cách khoa trương, và nước Ý Phát Xít không phải là một đe dọa thật sự cho các nước khác. Điều này đã được Kim Dung ám chỉ qua việc Cừu Thiên Lý biểu diễn trò mang cái chum sắt đựng đầy nước để lội qua sông. Bên ngoài trông vào, người ta tưởng là cái chum nước ấy nặng đến cả ngàn cân, mà khi lội qua sông, Cừu Thiên Lý lại nổi lên hêu hểu như là nước chỉ ngập đến đầu gối. Người không biết việc thấy như vậy thì rất sợ Cừu Thiên Lý. Nhưng thật sự thì cái chum chỉ có một vỏ sắt mỏng và bên trên gần miệng chum, lại có dán giấy mỏng và láng làm cái đáy để chum có thể chỉ đựng một chút nước mà thấy như đầy. Ở dưới đáy sông thì Cừu Thiên Lý đã lén đặt trước những cái chậu chìm để ông đặt chân mà đi.
Mặt khác, khi gặp những địch thủ mạnh hơn mình, Cừu Thiên Lý đã thường giả đau bụng để xin đi cầu và nhơn cơ hội này mà lẩn trốn. Việc này có liên hệ đến một cổ sự đặc biệt của nước Ý Phát Xít. Lúc mới lên cầm quyền và áp dụng chánh sách độc tài, Mussolini đã bị nhiều dân biểu đối lập chống lại. Mussolini vốn không tàn ác bằng Hitlcr nên không giết hại những người này. Để làm cho họ hoảng sợ mà chấm dứt sự chống đối, ông chỉ sai thủ hạ đến nhà họ rồi bắt họ uống dầu đu đủ tía. Họ bị đi cầu đến lả người và không dám chống đối ông nữa. Tuy việc đi cầu được áp dụng cho đối lập, nhưng ý kiến dùng dầu đu đủ tía là của Mussolini nên trong ANH HÙNG XẠ ĐIÊU Cừu Thiên Lý tiêu biểu cho Mussolini đã giở trò xin đi cầu để né tránh cường địch.
c- Tổ chức của Thiết Chưởng Bang so với tổ chức của hai Đảng Quốc Xã và Phát Xít nói chung.
Tổ chức của Thiết Chưởng Bang rất chặt chẽ và bủa ra ở nhiều nơi. Lúc Quảch Tĩnh và Hoàng Dung lên vào căn cứ họ ở núi Thiết Chưởng, Thiết Chưởng Bang đã huy động người bao vây vả khi thấy Quách Tĩnh và Hoàng Dung chạy lên trên cái hang trên đầu núi là nơi họ không có quyền lên, họ đã dùng xà trận để tần công. Những điều này nhắc lại việc các Đảng Phát Xít và Quốc Xã đã có tổ chức rất chặt chẽ và có hành động rất mạnh mẽ cương quyết, không khác Cái Bang biểu tượng cho Đảng Cộng Sản Quốc Tế.
4. Đặc điểm riêng của Đảng Quốc Xã Đức.
Ngoài các điểm chung cho cả hai phong trào Phát Xít Ý và Quốc Xã Đức, lại có một vài điểm chỉ liên hệ đến Quốc Xã Đức.
a. Bội tinh Thập Tự Sắt của Quốc Gia Đức so với hai bàn tay sắt, tín hiệu của Bang Chủ Thiết Chưởng Bang.
Tín hiệu của Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là hai bàn tay sắt. Đối với người Đức, sắt hàm ý cương kiên anh dũng. Năm 1813, vua nước Phổ (một quốc gia về sau trở thành một tỉnh bang nồng cốt của nước Đức) đã tạo ra một bội tinh mang tên là Thập Tự Sắt và bội tinh này về sau đã trở thành huy chương cao quí nhứt của dân tộc Đức về mặt quân công.
b. Chữ Vạn của Quốc Gia Đức so với hai bàn tay sắt, tín hiệu của Bang Chủ Thiết Chưởng Bang.
Mặt khác, trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, khi đến dự cuộc luận võ kỳ hai ở Hoa Sơn, Cừu Thiên Nhận lại thình lình hối cải sau khi bi Bắc Cái mắng, và xin theo làm đồ đệ của Nam Đế lúc ấy đã trở thành Nhút Đăng Đại Sư. Từ đó, Cừu Thiên Nhận chỉ còn được biết dưới pháp danh Từ Ân Đại Sư. Có thể Kim Dung đã dùng hình ảnh này để nói lên sự hối hận của người Đức sau trận Thé Chiến II về việc làm của nước họ thời Quốc Xã. Các Chánh Phủ Tây Đức sau này có chánh sách rất hòa dịu đối với nước Do Thái và với các nước Đông Âu. Nhưng cũng có thể Kim Dung dùng việc Cừu Thiên Nhận trở thành Từ Ân Đại Sư để ám chỉ việc Hitler dùng chữ Vạn để làm biểu hiệu cho Đảng Quốc Xã.
Chữ Vạn vốn là một dấu hiệu đã xuất hiện từ thiên niên kỳ thứ ba tr. C. N. ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả Á Châu và Âu Châu. Ở các nước Bắc Âu, nó được xem như là hình vẽ cái búa của Thần Thor là Thần Sấm Sét, biểu tượng cho chiến tranh. Nhưng chữ Vạn được biết nhiều hơn là chữ Vạn ở Ấn Độ. Tên mà các nước Tây Phương dùng ít chỉ chữ Vạn là Swatiska vốn phải xuất từ chữ Phạn Svatiska có nghĩa là kiết tường an lạc. Hình chữ Vạn ở Ấn Độ là biểu tượng của mặt trời hay là của lửa, tức là một nguyên tắc mang sự ấm áp sáng sủa và nghị lực đến cho muôn loài. Theo sự giải thích của một số học giả thì chữ Vạn này là hình vẽ đường quĩ đạo của mặt trời nhìn tử Bắc Bán Cầu. Ở bán cầu này, chúng ta thấy buổi sáng mặt trời mọc ở hướng đông, đến trưa thì ném về hướng nam, rồi chiều thì lặn ở hướng tây, cứ như thế mãi ngày này sang ngày khác. Bởi đó, chữ Vạn vẽ lại quĩ đạo của mặt trời bắt đầu từ hướng đông để đi về hướng nam rồi quay về hướng tây và sau cùng quặt xuống để trở lại đi từ hướng đông về hướng nam. Hai đường vẽ này gác tréo lên nhau biểu lộ sự liên tục triền miên của quá trình được mô tả. Vì thế chữ Vạn hàm ý liên tục và tái tạo không ngừng.
Theo kinh Phật thì trên ngực Đức Như Lai có hình chữ Vạn và đó là một trong 32 tướng tốt của Ngài. Bởi đó, từ xưa, Phật Giáo đã lấy chữ Vạn làm một trong những biểu tượng của mình. Đến thế kỷ thứ 20, một số người quốc gia quá khích ở Âu Châu lại cho rằng chữ Vạn là một dấu hiệu biểu tượng cho chủng tộc Aryan, và vì Hitlcr cho rằng dân Đức là nhánh thuần túy duy nhất của chủng tộc Aryan hiện cỏn sót lại nên ông đã lấy chữ Vạn làm biểu hiệu cho Đảng Quốc Xã. Thật ra, chữ Vạn mà Hitler dùng có các nhánh đi ngược chiều so với chữ Vạn cổ của Ấn Độ được Phật Giáo dùng. Dầu vậy việc Hitler dùng chữ Vạn đã làm cho dấu hiệu này bị cả thế giới thù ghét nên sau Thế Chiến II, Phật Giáo không còn dùng chữ Vạn nhiều như trước. Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Nhứt Đăng Đại Sư là một vị cao tăng theo phái Tiểu Thừa và thông thuộc tiếng Phạn nên việc Cừu Thiên Nhận xin theo ông đã được Kim Dung dùng để ám chỉ việc Hitler lấy chữ Vạn mà ông ta cho là phát xuất từ nhánh dân Aryan ở ấn Độ làm biểu hiệu cho Đảng Quốc Xã của mình.
B- CỪU THIÊN XÍCH VÀ CHỒNG LÀ CÔNG TÔN CHỈ: TIÊU BIỂU CHO CÁC QUỐC GIA NHỎ YẾU THEO CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI HỮU PHÁI NÓI CHUNG VÀ NƯỚC TÂY BAN NHA NÓI RIÊNG.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Kim Dung chỉ nói đến hai anh em Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Lý. Nhưng trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, ta lại thấy xuất hiện người em gái của hai nhơn vật ẩy là Cừu Thiên Xích cùng với chồng là Công Tôn Chỉ.
Chúng ta có thể xem cặp vợ chồng này là tiêu biểu cho các quốc gia nhỏ yếu theo chế độ độc tài hữu phái, và đặc bộ là nước Tây Ban Nha thời ông Franco nắm chánh quyền.
1. Cừu Thiên Xích, tượng trưng cho nhánh nhỏ yếu nhất trong phong trào Phát Xít và đặc biệt là ở nước Tây Ban Nha.
a. Theo sự mô tả của Kim Dung, Cừu Thiên Xích tuy là phụ nữ, nhưng võ công rất cao vì bà đã được Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là Cừu Thiên Nhận tận tâm truyền thọ võ công. Tuy nhiên, về mặt cảm tình thì bà lại mến người anh cả là Cừu Thiên Lý nhiều hơn. Bà thường đứng về phía Cừu Thiên Lý khi ông này bị Cừu Thiên Nhận trách mắng. Chính vì binh vực Cừu Thiên Lý mà bà đã cãi nhau với Cừu Thiên Nhận rồi bỏ nhà ra đi. Bà gặp Công Tôn Chỉ và kết hôn với ông này rồi truyền dạy thêm võ công cho ông này làm cho ông này trở thành một cao thủ võ lâm. Nhưng về sau, Công Tôn Chỉ đã gạt cho bà uống thuốc mê rồi cắt hết gân chơn của bà và quăng bà xuống đáy Tuyệt Tình Cốc. Bà phải sống cô độc trong một cảnh giam hãm rất khổ sở suốt mười năm mới được Dương Quá và con gái bà là Công Tôn Lục Ngạc cứu ra. Bà đã tìm mọi cách báo thù Công Tôn Chỉ. Nhưng cuối cùng, hai vợ chồng đã vì đánh nhau mà rơi xuống đáy Tuyệt Tình Cốc và chết một lượt với nhau.
b. Các chi tiết trên đây rất phù hợp với các quốc gia nhỏ yếu hơn Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít, nhưng cũng theo chế độ độc tài hữu phái, và đặc biệt hơn họ là nước Tây Ban Nha. Cừu Thiên Xích vốn là em gái của Cừu Thiên Lý và Cừu Thiên Nhận và lúc nào cũng đề cao Thiết Chưởng Bang nên có thể xem như là tượng trưng cho nhánh nhỏ yếu nhất của phong trào Phát Xít trên thế giới. Trong lịch sử thì sau khi Mussolini thực hiện chế độ Phát Xít ở Ý và Hitler thực hiện chế độ Quốc Xã ở Đức thì hữu phái Tây Ban Nha đã nổi lên chống lại chánh quyền thiên tả của nước mình. Trong cuộc nội chiến này, hữu phái Tây Ban Nha đã được Ý Phát Xít và Đức Quốc Xã tận lực giúp đỡ. Đức Quốc Xã có lực lượng hùng hậu hơn và có kỹ thuật chiến đấu cao hơn nên đã giúp hữu phái Tây Ban Nha một cách đắc lực hơn. Tuy nhiên, vì người Tây Ban Nha cùng thuộc nòi giống La Tinh như người Ý nên hữu phái Tây Ban Nha đã có cảm tình với Ý Phát Xít nhiều hơn với Đức Quốc Xã. Sự kiện này đã được Kim Dung ám chỉ khi cho biết rằng Cừu Thiên Xích học võ với Cừu Thiên Nhận, nhưng thương Cừu Thiên Lý nhiều hơn.
2. Công Tôn Chỉ, tiêu biểu cho cánh hữu ôn hòa ở các nước nhỏ bé, và đặc biệt là Tướng Franco của Tây Ban Nha.
a. Về phần Công Tôn Chỉ là người đã cưới Cừu Thiên Xích làm vợ, ông có thể xem như là tiêu biểu của cánh hữu tương đối ôn hòa hơn ở các nước nhỏ yếu. Họ Công Tôn vốn phát xuất từ các dòng vua đã làm chủ các nước chư hầu ở Trung Quốc thời cổ. Khi dùng họ đó để đặt cho người chồng của Cừu Thiên Xích, Kim Dung đã có dụng ý cho biết rằng ông này thuộc hạng sang cả của một quốc gia.
b. Điều trên đây và một số chi tiết khác liên hệ đến Công Tôn Chỉ cho thấy rằng nhà chánh khách cận đại có sự tích phù hợp nhứt với nhơn vật kể trên đây là Tướng Franco.
Tướng Franco vốn là một trong những người lãnh đạo cuộc tranh đấu do quân đội Tây Ban Nha khởi xưởng chống lại chánh phủ tả phái. Với sự giúp đỡ của Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít, ông đã nắm phần thắng lợi rồi trở thành Quốc Trưởng Tây Ban Nha năm 1936. Ông đã tổ chức một chánh đảng độc tài để cai tri nước mình và đứng về phía các nước Phát Xít cho đến khi Thế Chiến II nổ bùng. Tuy nhiên, Franco đã không chịu gia nhập cuộc chiến đấu của phe Phát Xít chống lại các nước Đồng Minh theo chế độ dân chủ tự do. Ở hội nghi với Hitler tại Hendaye (một thành phổ Pháp ở sát biên giới Tây Ban Nha) năm 1941, Tướng Franco đã nhứt quyết không chấp nhận việc cho phép quân Đức Quốc Xã kéo ngang lãnh thổ Tây Ban Nha để sang tác chiến ở Bắc Phi. Điều này rất lợi cho các nước Đồng Minh, vì nếu được chuyển quân qua lãnh thổ Tây Ban Nha, Đức Quốc Xã đã có thế mạnh hơn ở Bắc Phi và lực lượng Đồng Minh đã khó có thể thắng nổi họ. Đến năm 1944, Tướng Franco lại thỏa thuận với Hoa Kỳ: để Hoa Kỳ hủy bỏ lịnh cấm bán dầu lửa cho Tây Ban Nha, ông đã chấp nhận giảm bớt việc cho chở các khoáng sản sang Đức Quốc Xã, đồng thời hạn chế hoạt động của các cán bộ Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít tại Tây Ban Nha.
Sau khi trận Thế Chiến II chấm dứt, Tưởng Franco vẫn duy trì chế độ độc tài ở Tây Ban Nha, nhưng đã vì xu hướng chung của thế giới mà bỏ chủ trương Phát Xít. Về mặt đối ngoại, ông đã tìm cách kết thân với các nước trong Khối Tự Do. Năm 1953, ông đã ký với Hoa Kỳ một thỏa ước cho Hoa Kỳ được dùng một số căn cứ Hải Quân và Không Quân của Tây Ban Nha để bù lại, Hoa Kỳ viện trợ cho Tây Ban Nha về kinh tế và quân sự. Về mặt nội bộ thì từ năm 1945, Tướng Franco đã ngỏ ý là chế độ quân chủ sẽ được khôi phục. Năm 1947, ông cho ban hành đạo luật ấn đinh rằng sau khi ông chết người kế vị ông làm Quốc Trưởng sẽ là một nhà vua. Đến năm 1969 ông chỉ định Hoàng Tử Juan Carlos De Bourbon làm người kế vị này. Mặt khác, năm 1964, ông đã ban hành một Hiến Pháp mới tương đối cởi mở hơn.
Nói chung lại, ông Franco gốc là người độc tài hữu phái thuộc phe Phát Xít nhưng đã vì tình thế mà nghiêng lần về phía các nước theo chế độ dân chủ tự do. Ông đã dọn đường cho việc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến theo chánh thể dân chủ tự do và sau khi ông chết năm 1975, chế độ và chánh thể này đã thật sự thiết lập được ở Tây Ban Nha. Khi nói đến việc Công Tôn Chỉ cắt đứt gân chơn của Cừu Thiên Xích và quăng bà này xuống đáy Tuyệt Tình Cốc, Kim Dung có lẽ đã muốn mô tả việc Franco công khai từ bỏ phong trào Phát Xít sau Thế Chiến II. Và khi mô tả cảnh Công Tôn Chỉ và Cừu Thiên Xích đánh nhau rồi cùng chết một lượt, tác giả của bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP có thể đã muốn bảo rằng khi Tướng Franco chết thì nước Tây Ban Nha cũng hoàn toàn từ bỏ ý thức hệ Phát Xít và chế độ độc tài hữu phái.