Trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã đề cập đến nhiều nhơn vật võ công trác tuyệt. Nghiên cứu kỹ tài nghệ và đức tánh của một số trong các nhơn vật này ta có thể nhận thấy rằng Kim Dung đã dùng họ để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới, hoặc để mô tả một vài chánh khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
MỤC 1:
CÁC NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG
CHO MỘT VÀI QUỐC GIA
ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI.
Luận võ trên đỉnh Hoa Sơn để xác nhận vai tuồng bá chủ võ lâm là một đề tài đã được Kim Dung khai thác trong ba bộ truyện võ hiệp VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Tên bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ thật ra không thấy có trong danh sách các tác phẩm được Ông Hàn Giang Nhạn cho biết là chắc chắn do Kim Dung sáng tác (theo lời Dịch giả cho bản dịch LỘC ĐỈNH KÝ, Quyển 1-2 trang 3). Bởi đó, chúng ta không thể biết chắc là tác phẩm này quả thật của Kim Dung hay do người khác viết rồi gán cho Kim Dung. Nhưng trừ ra một vài điểm nhỏ nhặt, còn thì phần lớn các chi tiết về các nhơn vật chánh yếu trong đó đều phù hợp nhau nên chúng tôi nghĩ có thể dùng bộ truyện này làm một trong các tài liệu để nghiên cứu về đề tài luận võ ở Hoa Sơn được Kim Dung nêu ra.
Kể cho đủ hết thì có đến ba kỳ luận võ như vậy. Nhưng thật sự thì kỳ luận võ thứ nhì không đưa đến kết quả gì, còn trong kỳ luận võ thứ ba thì các cao thủ võ lâm gặp nhau về việc này là người đã có danh vọng rồi, lại có tinh thần hoà hợp với nhau nên đã không tỷ thí với nhau để phân hơn kém. Vậy, rốt cuộc lại, chỉ có cuộc luận võ đầu tiên là thật sự quan trọng.
Trong cuộc luận võ đầu tiên này, có 5 nhơn vật tham dự. Họ được gọi chung là Võ Lâm Ngũ Bá và mang ngoại hiệu Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái và Nam Đế. Năm nhơn vật này đã có ý thật sự tỷ thí với nhau với mục đích phân hơn kém và quyết định xem ai là người được quyền giữ bộ CỬU ÂM CHÂN KINH. Sau cuộc tỷ thí rất gay go này, mọi người đều công nhận rằng TrungThần Thông có võ cao diệu hơn hết, còn những người khác thì tài nghệ suýt soát như nhau. Ngoài họ ra, còn một nhơn vật thứ sáu được xem là đồng tài nghệ với họ, nhưng không dự cuộc luận võ này. Đó là Bang Chủ của Thiết Chưởng Bang.
Nếu chỉ xét bề ngoài câu chuyện thì Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là những người nhờ dày công tập luyện về nội công và võ nghệ, và có người còn nhờ thêm cơ duyên tiêu thụ được một vật quí hiếm có, mà trở thành những cao thủ siêu tuyệt trong võ lâm. Nhưng khi xem kỹ các chi tiết liên hệ đến họ, chúng ta có thể nhận thấy rằng họ đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một số quốc gia đặc biệt trên thế giới. Trong số các quốc gia được ám chỉ như vậy, laị có những quốc gia được ít nhiều thể hiện bằng những chánh khách có thật, và những quốc gia không có chánh khách biểu tượng cụ thể. Mặt khác, có khi một nhơn vật đã được dùng để tượng trưng cho một khối gồm nhiều quốc gia có những đặc điểm chung nhau.
Nhưng điều chúng ta nên để ý là tác giả các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP không phải dùng cốt chuyện của các bộ truyện võ hiệp này để kể lại cả lịch sử thật sự của các quốc gia được ông ám chỉ qua các nhơn vật võ lâm. Mục đích chánh yếu của ông là nêu ra các đặc tánh của các quốc gia hay khối quốc gia ấy. Các đặc tánh này dựa vào nền văn hoá và tâm lý nhơn dân, nó lại đưa đến những khả năng cá biệt của quốc gia trong cuộc tranh đấu với các quốc gia khác. Nói chung thì Kim Dung chỉ nêu ra một vài chi tiết liên hệ đến lịch sử các quốc gia ấy, theo cái nhìn của ông. Do đó, thời điểm tương ứng của các việc xảy ra trong các câu chuyện và của các cố sự mà nó ám chỉ không phải luôn luôn phù hợp với nhau. Mặt khác, vì quan điểm của Kim Dung đối với các quốc gia được ông ám chỉ bằng các nhơn vật võ lâm đã có sự thay đổi theo dòng thời gian nên trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, cách ông mô tả một vài nhơn vật trong số này cũng có hơi khác cách ông mô tả họ trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU.
Ta có thể nhận thấy ý Kim Dung muốn dùng các nhơn vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia trên thế giới trong đoạn ông mô tả cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn. Trong một giai đoạn của cuộc luận võ này, Võ Lâm Ngũ Bá đã tỷ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch sát nghĩa chữ là “năm nước tranh chiến với nhau.”. Theo lối tỷ thí này thì mỗi người chiếm một phương vị ngũ hành rồi dùng nội công kình lực công kích người khác theo thủ pháp nào cũng được. Năm vị cao thủ tham dự cuộc luận võ được tự do chọn lựa đối thủ, muốn đấu với ai cũng được mà muốn giúp ai cũng được. Vậy, Kim Dung đã trực tiếp dùng từ ngữ “ngũ quốc” tức là “năm nước” để chỉ các cao thủ luận võ với nhau. Ngoài ra, sự diễn tiến của cuộc tỷ thí theo ông mô tả đã cho thấy là những người có cảm tình với nhau có khi đã giúp nhau, nhưng cũng có khi đã thình lình đột kích nhau, và do đó mà đỡ đòn cho người họ không ưa thích. Điều này phù hợp với sự thật trong đời sống quốc tế, là các nước thân nhau có thể giúp nhau mà cũng có thể đánh nhau những đòn bất ngờ, trong khi các nước đối nghịch nhau thường chống nhau mà cũng có khi trợ lực cho nhau một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Với các dữ kiện trêông không đến nỗi quá tệ hại như Tây Độc, nhưng cũng có những thủ đoạn không chánh đáng, như việc bắt giam hay dùng mưu gạt gẫm Châu Bá Thông chẳng hạn. Đối với những người kế vị Trung Thần Thông để lãnh đạo phái Toàn Chân, Đông Tà nhiều khi đã tỏ ra thiếu sự kính trọng và đã có ý muốn lấn áp họ. Khi các đạo sĩ kế vị Trung Thần Thông lãnh đạo phái Toàn Chân lầm tưởng rằng ông đã giam sư thúc họ là Châu Bả Thông và tấn công ông, Đông Tà không thèm giải thích ngay để giải tỏa sự hiểu lầm và sự thù hận. Ông đã tận lực giao đấu với họ và có dụng ý phá tan Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của họ rồi mới nói sự thật cho họ biết. Điều này hàm ý rằng người Nhựt không phải xem Trung Quốc như bạn và ngay đến những lúc không có chủ trương làm hại cho Trung Quốc, họ cũng muốn áp đảo Trung Quốc về mặt tinh thần. Tuy nhiên, Đông Tà cũng có khi giúp phái Toàn Chân. Ông đã cứu Châu Bá Thông thoát khỏi sự hãm hại của hai anh em Âm Trường Giang và Âm Trường Hà trên đảo Lục Hoành. Tuy mục đích cuối cùng của ông là đưa Châu Bả Thông về đảo Đào Hoa để dùng Châu Bá Thông trong việc nghiên cứu võ cõng của phái Toàn Chân, ông cũng đã làm một điều có lợi cho phái này.
Đối với các nước Tây Phương, nước Nhựt cũng vừa theo vừa chống. Khi áp dụng chánh sách canh tân tự cường vào hậu bán thế kỷ thứ 19, người Nhựt đã học hỏi nhiều nơi các nước Tây Phương. Họ đã thâu nhận một số lề lối làm việc của người Tây Phương. Nhưng ngay đến lúc nước họ đã kỹ nghệ hóa, họ vẫn duy trì một số phong tục cổ truyền của họ và vẫn tự phân biệt với người Tây Phương. Điều này đã được Kim Dung ám chỉ qua một số chi tiết trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU. Đông Tà tượng trưng cho nước Nhựt có lúc đã muốn gả con gái là Hoàng Dung cho Âu Dương Công Tử là cháu của Tây Độc, tượng trưng cho các nước Tây Phương. Tuy nhiên, Đông Tà cũng đã nhiều lần chống lại Tây Độc. Cuối cùng, ông đã cho Tây Độc biết rõ rằng ông không phải thuộc loại người của Tây Độc. Tuy có tánh cao ngạo, hay nói và làm ngược lại thế tục, ông vẫn kính trọng các anh hùng liệt sĩ và tôn trọng lẽ phải chớ không phải tàn ngược như Tây Độc. Tây Độc đã giết một ông thầy đồ chỉ vì ông này giảng dạy những điều mà Tây Độc bảo là đạo đức giả, nhưng Đông Tà đã đem chôn cái đầu của ông đồ ấy và tỏ vẻ cảm thương về cái chết của ông ta.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, tuy vẫn duy trì ngoại hiệu Đông Tà cho nhơn vật tượng trưng cho nước Nhựt, Kim Dung đã nói đến ông với nhiều thiện cảm hơn. Mặt khác, Đông Tà đã tỏ ra rất ưa thích Dương Quá. Ông đã dạy cho Dương Quá các môn công phu độc đáo của ông và đã kết bạn với Dương Quá mặc dầu tuổi tác hai người cách biệt nhau xa. Điều này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ việc Nhựt và Mỹ đã trở thành hai nước thân hữu sau trận Thế Chiến II, mặc dầu một bên có nền văn hóa cổ truyền lâu đời, một bên là một quốc gia mới được xây dựng trong hai thế kỷ sau này.
C- SỰ GIAO THIỆP GIỮA LIÊN SÔ VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT VÀ CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA BẮC CÁI VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC
Về Liên Sô thì lúc mới thành lập, nước ấy đã có một chánh sách thân hữu với Trung Quốc và đã giúp Trung Quốc tự tổ chức để chống lại các nước Tây phương. Liên Sô đã gởi sang Trung Quốc một phái bộ do Borodin cầm đầu và phái bộ này đã có một vai tuồng đáng kể trong việc xây dựng các cơ cấu của Trung Hoa Dân Quốc thời ông Tôn Văn cầm quyền. Phần Kim Dung thì khi viết các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, ông hãy còn thiên tả. Bởi đó, ông đã mô tả Bắc Cái, nhơn vật tượng trung cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế như lả một bực anh hùng cái thế và giàu lỏng nghĩa hiệp. Tuy có tỷ thí với Trung Thần Thông để phân hơn kém, Bắc Cái không nuôi ỳ đồ cướp đoạt CỬU ÂM CHÂN KINH trong tay phái Toàn Chân như Tây Độc, Đông Tà. Ông và Trung Thần Thông đã tỏ ra rất tôn trọng nhau và đã có giúp đỡ nhau. Trung Thần Thông đã từng cứu Bắc Cái khỏi thuật Chiêu Hồn và ngón đòn độc hại của Ô Vưu Đạo Nhơn. Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Bắc Cái lại nói khéo cho Trung Thần Thông lưu ý đến các âm mưu gian hiểm của Tây Độc, đồng thời dùng tiếng hú để nhắc Trung Thần Thông là phải có thái độ tích cực chớ không thể ngồi yên mà nghe tiếng đàn tranh của Tây Độc và tiếng tiêu của Đông Tà, vì hai loại âm thanh này phụ họa với nhau làm cho thần trí Trung Thần Thông khó tránh được sự dao động thành ra phải thua trận.
Đổi vớt Đông Tà, Bắc Cái không thân như đối với Trung Thần Thông, nhưng Bắc Cái vẫn có sự tôn trọng Đông Tà. Riêng đối với Tây Độc thì Bắc Cái ra mặt chống đối mạnh mẽ và liên tục. Phần Tây Độc cũng rất ghét Bắc Cái. Khi hai bên từ đảo Đào Hoa về đất liền và cùng ở trên một chiếc thuyền, họ đã gây sự đánh nhau. Bắc Cái đã tha cho cho Tây Độc một lần và đã cứu Tây Độc hai lần khỏi chết. Nhưng liền theo đó, Tây Độc lại thừa lúc Bắc Cái ơ hờ để tấn công Bắc Cái bằng công phu Cấp Mô Công làm cho Bắc Cái bị trọng thương đến mất hết công lực. Khi cho thấy Bắc Cái và Tây Độc luôn luôn xung đột và kích bác lẫn nhau, Kim Dung đã có ý làm nổi bật việc sau Thế Chiến II, Liên Sô và các nước Tây Phương đã trực diện đối đầu nhau về mọi phương diện và phản tuyên truyền nhau một cách mạnh mẽ. Nhưng trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã cho ta thấy Bắc Cái và Tây Độc ôm nhau cười và chết một lượt với nhau sau khi đã đấu võ với nhau và cảm phục tài nhau. Với hình ảnh này. tác giả bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP có thể muốn bảo rằng Liên Sô và các nước Tây Phương không bên nào nắm phần thắng lợi được trong cuộc tranh đấu với nhau. Nếu khinh suất gây chiến tranh hạch tâm để triệt hạ nhau thì cả hai bên đều sẽ bi tiêu diệt hết. Vậy, hai bên đã bị dồn vào cái thế phải chịu chung sổng hay là cùng chết với nhau. Đó là một thông điệp liên hệ đến chủ trương “Giảm Bớt Căng Thẳng” đã lưu hành trên thế giới từ cuối thập niên 1960.
D- SỰ GIAO THIỆP GIỮA CÁC NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI ĐẶC BIỆT LÀ THÁI LAN VỚI TRUNG QUỐC, NHỰT, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG VÀ LIÊN SÔ, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP GIỮA NAM ĐẾ VỚI TRUNG THẦN THÔNG, ĐÔNG TÀ, TÂY ĐỘC VÀ BẮC CÁI
Trong chủ nghĩa Tam Dân, Tôn Văn đã bảo rằng Trung Quốc cần phải có thái độ thân hữu đối với các nước nhược tiểu và phải tận lực giúp đỡ các nước nhược tiểu. Riêng đối với Thái Lan, Trung Quốc đã có những liên hệ văn hóa trong quá khứ. Bởi đó, Nam Đế là nhơn vật tượng trưng cho các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới nói chung và nước Thái Lan nói riêng, cũng được Kim Dung mô tả như là một thân hữu của Trung Thần Thông và có chịu ơn Trung Thần Thông. Trung Thần Thông đã giúp Nam Đế cứu được cha mẹ và lấy lại được ngôi báu đã bị người chú cướp đoạt. Vì vậy, mặc dầu có đến Hoa Sơn luận võ theo lời mời của Trung Thần Thông, Nam Đế đã tỏ vẻ rất kính trọng Trung Thần Thông và không có ý muốn giành lấy CỬU ÂM CHƠN KINH. Nam Đế và phái Toàn Chân không hề có sự xung đột với nhau, mặc dầu Châu Bá Thông đã tư tình với một vương phi của Nam Đế là bà Anh Cô. Đã thế, khi cảm thấy mình đã già yếu, Trung Thần Thông đã đến nước Đại Lý và dạy Nam Đế công phu Nhứt Dương Chỉ để Nam Đế có khả năng chống lại Tây Độc hầu giữ cho CỬU ÂM CHƠN KINH không lọt vào tay Tây Độc.
Đối với Đông Tà và Tây Độc, Nam Đế không có sự hiềm khích, và ngoài lần tỷ thí ở Hoa Sơn, ông không có dịp đấu võ với họ. Tuy nhiên, ông đã tỏ ra kính trọng Đông Tà hơn Tây Độc. Điều này có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ việc giữa hai trận Thế Chiến, Thái Lan đã thân cận với Nhựt nhiều hơn các nước Tây Phương. Riêng đối với Bắc Cái, Nam Đế đã có nhiều cảm tình. Ông đã mời Bắc Cái đến vùng nước Đại Lý và khi xuống tóc đi tu, ông đã mời Bắc Cái dự kiến. Nói chung thì các chi tiết trên đây biểu lộ ý kiến của Kim Dung trong thời kỳ còn thiên tả. Vì lập trường thiên tả này, ông xem Liên Xô là thân hữu của các dân tộc nhược tiểu và có chủ trương giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu chống lại các nước đế quốc thực dân.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Nam Đế đã trở thành Nam Tăng và đã được kính trọng nhiều hơn trước. Điều này hàm ý là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới sau này đã có một vị thế quan trọng hơn trên chánh trường quốc tế.
Đ- SỰ GIAO THIỆP GIỮA NƯỚC ĐỨC VỚI TRUNG QUỐC, CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG KHÁC, LIÊN SÔ VÀ CÁ NƯỚC THUỘC ĐỆ TAM THẾ GIỚI, BIỂU LỘ QUA SỰ GIAO THIỆP CỦA CỪU THIÊN NHẬN VỚI PHÁI TOÀN CHÂN, TÂY ĐỘC, BẮC CÁI, NAM ĐẾ
Về phần Cừu Thiên Nhận, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, ông không có đụng độ với Trung Thần Thông. Nhưng người tiền nhiệm của ông đã hai lần xung đột với vị Giáo Chủ phái Toàn Chân mà lần xung đột sau đã xảy ra ngay tại căn cứ của phái này. Điều này có thể được dùng để ám chỉ việc nước Đức trước thời kỳ Hitler cầm quyền, đã lấn hiếp Trung Quốc và bắt Trung Quốc nhường đất Thanh Đảo cho mình làm tô giới.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Cửu Thiên Nhận đã hợp tác với Hoàn Nhan Liệt là một thân vương nước Đại Kim, một quốc gia đã từng lấn hiếp Trung Quốc và có thể xem như là tượng trưng của chủ nghĩa đế quốc. Tây Độc cũng đã được Hoàn Nhan Liệt mời hợp tác để tìm bộ Vũ Mục Di Thư và do đó mà cũng đứng về một phe với Cừu Thiên Nhận trong một cuộc đụng độ với phái Toàn Chân, Bắc Cái và Đông Tà. Các sư kiện này được dùng nói lên việc Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít tuy có xung đột với các nước Tây Phương khác, nhưng vẫn áp dụng chánh sách đế quốc xâm lược như các nước ấy. Mặt khác, một số người trong Cái Bang đã vì binh vực dân chúng bị áp bức mà chọi lại hành động của Thiết Chưởng Bang. Sau đó lúc Cái Bang hội họp lại để chỉ định người làm Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã đến nơi hội họp và khuyến dụ Cái Bang nên nhận lễ vật của Hoàn Nhan Liệt mà dời hết về phương nam để nhường phương bắc lại cho nước Đại Kim. Sau khi Cái Bang đã nhận Hoàng Dung làm quyền Bang Chủ, Cừu Thiên Nhận đã gặp lại Hoàng Dung và đánh bà này một đòn rất nặng làm cho bà bị trọng thương suýt chết. Với các việc này,Kim Dung đã nhắc lại một số biến cố thời Thế Chiến II. Hai phe Phải Xít và Cộng Sản vốn là kẻ thù của nhau. Nhưng trước khi mở cuộc tấn công các nước Tây âu, Đức Quốc Xã đã ký hiệp ước với Liên Sô để chia vùng ảnh hưởng ở Đông Âu, rồi sau đó, lại thình lình mở cuộc tấn công Liên Sô làm cho nước này suýt chút nữa là bị lâm nguy. Chúng ta nên lưu ý chỗ Hitler đã mở cuộc tấn công Liên Sô lúc nước ấy nằm dưới quyền lãnh đạo của Stalin, mà trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, nhơn vật tượng trưng cho Stalin chính là Hoàng Dung.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang đã trở thành Từ Ân Đại Sư và đã cố gắng tranh đấu với bản chất hung ác của mình để theo đúng lời thầy là Nhứt Đăng Đại Sư dạy. Điều này có thể đã được dùng để ám chỉ việc Tây Đức hiện nay đã theo chế độ dân chủ tự do và có thái độ thân hữu, sẵn sàng viện trợ cho các nước khác, nhất là các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới.
Nói chung lại thì sự giao thiệp giữa Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang với nhau cũng như với các nhơn vật liên hệ đến họ không phải mô tả hết lịch sử bang giao thật sự giữa Trung Quốc, Nhựt, các nước Tây Phương, Liên Sô, các nước thuộc Thế Giới Đệ Tam và các nước Đức Quốc Xã và Ý Phát Xít. Ta phải công nhận rằng nếu Kim Dung theo sát lịch sử bang giao thật sự đó thì ông rất khó có thể làm cho các bộ truyện võ hiệp của ông hấp dẫn được. Bởi đó, ông chỉ dùng một số chi tiết trong sự giao thiệp giữa các cao thủ võ lâm để ám chỉ các biến cố quan trọng trên trường chánh trị quốc tế và chúng tôi chỉ nêu các chi tiết này ra để cho quí vị độc giả suy nghiệm


I- NHƠN VẬT VÀ ĐOÀN THỂ
TIÊU BIỂU CHO NƯỚC TRUNG HOA CỔ ĐIỂN:
Trung Thần Thông , Châu Bá Thông và Phái Toàn Chân

     rong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Võ Lâm Ngũ Bá, có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng đệ nhứt bá là Trung Thần Thông và đoàn thể do ông lãnh đạo là phái Toàn Chân đã được dùng để tiêu biểu cho nước Trung Hoa cổ điển. Kim Dung là người Trung Hoa. Do đó, việc ông xem Trung Hoa là nước xứng đáng dẫn đầu các nước khác là việc tự nhiên. Thật sự thì trong thời cận đại, nước Trung Hoa không phải là cường quốc mạnh nhứt thế giới. Bởi đó, mặc dầu danh hiệu đệ nhứt bá võ lâm đã đạt được sau một cuộc tranh tài bằng võ nghệ, nó không phải được dùng để chỉ quốc gia cường thạnh nhứt mà để nói đến quốc gia có nền văn hoá đáng trọng vọng nhất.
A- Ý NGHĨA CỦA NGOẠI HIỆU TRUNG THẦN THÔNG.
1- Trung là ở ngay chính giữa. Từ ngàn xưa, người Tàu đã tự hào là mình sống ngay chính giữa địa cầu. Họ đã chánh thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc. Các danh xưng trên đây đã cho thấy rõ quan niệm của họ về vấn đề này.
2- Về mặt tinh thần, người Trung Hoa lại theo đạo trung dung. Một số người thường lầm tưởng rằng trung dung là một thái độ ở nửa chừng trong mọi việc. Nhưng nếu hiểu trung dung như vậy thì khi phải chọn giữa hoà bình với chiến tranh, người đương nhiên phải theo chủ trương xung đột hạn chế, và khi phải chọn giữa việc làm người lương thiện với việc làm người ăn cướp thì người đương nhiên phải chấp nhận làm người ăn trộm. Sự chọn lựa máy móc như vậy không có gì khó khăn và cũng không có tánh cách đạo lý chút nào nên ta không hiểu đạo trung dung như vậy được. Thật sự trong Hán văn, chữ trung cũng đọc là trúng có nghĩa là đúng, hợp. Nó chỉ tư thế của một con người lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình, không nghiêng không lệch về phía nào, và trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải, không thái quá cũng không bất cập. Vì mọi việc trong đời đều biến đổi không ngừng nên việc theo đạo trung dung như thế không phải là dễ dàng. Nhưng nếu người cố gắng theo đạo trung dung được thì người trở thành sáng suốt, hiểu biết được mọi sự việc và có thể biến cải để ứng phó với mọi khó khăn, mọi trở lực, mọi địch thủ. Nói cách khác, người trở thành Thần Thông và có thể tự bảo vệ, đồng thời thực hiện được các nguyện vọng của mình.
3- Như thế, ngoại hiệu TRUNG THẦN THÔNG vừa gọi đúng danh hiệu, vừa nêu ra một quan niệm triết lý căn bản và khả năng đặc biệt của quốc gia Trung Hoa. Trong vũ trụ quan của người Trung Hoa từ ngàn xưa, ngũ hành cùng các phương hướng và các màu sắc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vị thế trung ương thuộc hành thổ và liên hệ với màu vàng. Bởi đó trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, Trung Thần Thông đã thường mặc áo vàng, mà trong tổ chức chánh trị cổ của Trung Hoa, màu vàng lại là màu dành cho nhà vua. Việc Trung Thần Thông thường mặc màu vàng xác nhận địa vị số một của ông ta trong võ lâm.
B – Ý NGHĨA CỦA HỌ VƯƠNG LÀ HỌ CỦA TRUNG THẦN THÔNG
Địa vị số một của Trung Thần Thông trong võ lâm được gọi là điạ vị bá chủ. Nhưng mặc dầu đã tham dự cuộc tỷ thí để đoạt chức vị bá chủ võ lâm, Trung Thần Thông lại có một bản chất trái ngược lại tư tưởng bá chủ.
1. Trung Thần Thông vốn là một người họ Vương mà trong từ ngữ Trung Hoa, vương có nghĩa là vua. Trong Hán văn thì chữ vương gồm 3 nét ngang và 1 nét dọc. Lúc khởi thủy, có thể đây là hình vẽ cái búa mà nhà cầm quyền dùng để chặt đầu những kẻ trái lịnh hay phạm pháp. Nhưng khi đã có một nền văn hoá khá cao rồi, người Trung Hoa giải thích rằng trong chữ vương, 3 nét ngang tượng trưng cho Trời, Đất và Người, và nét dọc hàm ý nối liền ba nét ngang trên đây. Lối giải thích trên đây đã trở thành cổ điển. Nó biểu lộ rõ rệt quan niệm cho rằng quyền uy của một nhà vua xứng đáng với danh hiệu vua được xây dựng không phải trên võ lực mà trên đạo lý. Đạo lý mà nhà vua phải dựa vào được gọi là vương đạo. Nó đòi hỏi nhà vua phải hành động theo nhân nghĩa, và phải dùng những phương tiện chánh đáng để phục vụ nhơn dân. Chủ trương làm chánh trị theo vương đạo chính là chủ trương mà dân Trung Hoa đã chánh thức đề cao trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
2. Việc theo lý tưởng vương đạo của Trung Hoa đã được Kim Dung bộc lộ rõ rệt qua việc Trung Thần Thông nhứt quyết không dùng CỬU ÂM CHÂN KINH. Đó là một tác phẩm dạy các căn bản để luyện nội công. Người tập đúng mức và thành công có thể chữa cho kẻ bị đánh mang nội thương trầm trọng và chính mình thì có thể trường sanh bất lão. Nhưng CỬU CÂM CHÂN KINH lại bao gồm những phương pháp luyện công có cái ác độc dị thường. Công phu Cửu Âm Thần Trảo phải cần dùng một số lớn heo dê còn sống để người luyện tập dùng ngón tay thọc mạnh vào trong óc của chúng. Sự luyện tập này phải kéo dài cho đến khi năm ngón tay đủ sự cứng rắn và chánh xác cần thiết. Đã vậy, người luyện tập còn phải tẩm thêm chất độc trên ngón tay. Công phu Độc Hạp Thần Công thì chuyên luyện tập móng tay, luyện xong thì chỉ cần đụng vào thân một người nào là người ấy chết không phương cứu chữa. Công phu Tồi Tâm Chưởng thì có thể làm một quả tim của kẻ địch nát bấy và kẻ địch phải thổ huyết mà chết. Hai công phu Độc Hạp Thần Công và Tồi Tâm Chưởng cũng phải dùng thú vật như mèo chó để cho người luyện tập thí nghiệm.
C- THÁI ĐỘ CỦA TRUNG THẦN THÔNG VỚI CỬU ÂM CHÂN KINH BIỂU LỘ THÁI ĐỘ CỦA NƯỚC TRUNG HOA CỔ ĐIỂN ĐỐI VỚI KHOA HỌC
1.Ta có thể nghĩ rằng Kim Dung đã dùng CỬU ÂM CHÂN KINH để chỉ các khoa học thực nghiệm. Các khoa học này nêu ra những nguyên tắc quan sát và suy luận có thể mở mang trí tuệ con người và giúp vào sự cải thiện đời sống của loài người về mọi phương diện. Nhưng nó cũng đồng thời bao gồm những cách thức làm việc trái với đạo nhân, như việc dùng các con thú làm vật thí nghiệm hay việc chế tạo các võ khí hại người quá độ như các chất nổ có sức tàn phá lớn lao, các võ khí hoá học hoặc võ khí hạch tâm.
Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì Trung Thần Thông đã cố công tìm ra được bộ CỬU ÂM CHÂN KINH nhưng sau khi xem qua, ông đã quyết định không dùng nó mà còn nghiêm cấm môn đệ tập luyện theo nó. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung cho biết rằng Trung Thần Thông đã phải áp dụng các nguyên tắc ông đọc được trong CỬU ÂM CHÂN KINH mới sáng chế được các thế võ có đủ khả năng thắng các đòn của phái Cổ Một vốn mang tánh cách chế khắc võ thuật của phái Toàn Chân. Mặt khác, các cao thủ võ lâm đều tìm CỬU ÂM CHÂN KINH để học và khi học được thì đều tiến bộ rất nhiều. Tuy nhiên, Trung Thần Thông vẫn duy trì quyết định không cho môn đệ ông học CỬU ÂM CHÂN KINH.
2. Kim Dung đã dùng các sự kiện này để chỉ thái độ của người Trung Hoa trước đây đối với khoa học thực nghiệm. Người Trung Hoa thời xưa đã có những phát minh khoa học cao diệu. Họ đã làm được kim chỉ nam, chế được thuốc súng, làm đồ gốm rất tốt và xây dựng được nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, đặc biệt là các cầu mống không cần cột chôn ở giữa dòng sông để chống đỡ, khiến cho người Âu Châu hâm mộ. Đời Tam Quốc (thế kỷ thứ 3 sau CN), Hoa Đà đã biết giải phẩu và đã dám nghĩ đến việc mổ óc cho Tào Tháo. Nhưng các nhà lãnh đạo tinh thần của Trung Hoa từ thời xưa đã hướng dẫn dân tộc họ về việc tuyệt đối tôn trọng đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm. Đó là một quan điểm sai lầm tai hại mà hậu quả được nêu rõ trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Trung Thần Thông và phái Toàn Chân. Mặc dầu Trung Thần Thông đã đoạt được địa vị đệ nhứt bá võ lâm, các đệ tử kế vị ông để lãnh đạo phái Toàn Chân về sau, đã thua sút các cao thủ đã từng bị ông đánh bại.
D- CHÂU BÁ THÔNG, BIỂU TƯỢNG CHO NỀN CÔNG NGHỆ CỔ CỦA TRUNG QUỐC
1. Trong phái Toàn Chân, ngoài Trung Thần Thông, chỉ có Châu Bá Thông là đã từng học CỬU ÂM CHÂN KINH. Tuy nhiên, ông này bất đắc dĩ mới phải đọc nó và lại theo đúng lời dạy của vị Giáo Chủ họ Vương là sư huynh mình nên lúc đầu, ông đã không sử dụng các điều nó dạy. Dầu vậy, ông cũng gián tiếp nhờ nó mà có một tài nghệ kinh người không thua sút Đông Tà, Bắc Cái, Tây Độc và Nam Đế. Mãi đến lúc về già, Châu Bá Thông mới dùng chiêu số Đại Phục Ma Pháp của CỬU ÂM CHÂN KINH để luyện Không Minh Chưởng. Nhưng mặc dầu thông minh đỉnh ngộ, có tài sáng chế các môn võ và cuối cùng cũng có một võ công siêu tuyệt, Châu Bá Thông không phải là người lãnh đạo phái Toàn Chân, cũng không được xem là đệ nhứt bá võ lâm. Đã thế, ông còn bị gọi là Lão Ngoan Đồng, tức là ông già mà có tánh hay chơi đùa như trẻ con, vì tánh ông ham vui, không theo đuổi những công việc làm đứng đắn một cách liên tục được.
Trong phần kết cuộc bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Châu Bá Thông đã được chọn làm kẻ thay thế Trung Thần Thông làm một trong năm bá chủ võ lâm với ngoại hiệu là Trung Ngoan Đồng. Nhưng lúc ấy, phái Toàn Chân đã suy sụp mà Châu Bá Thông cũng không hề nghĩ gì đến phái ấy. Mặt khác, theo Kim Dung, vì ông tánh tình phóng dật không ưa giới luật câu nệ, nên ông không được các nhà lãnh đạo chánh thức của phái Toàn Chân mến chuộng. Vậy, Châu Bá Thông không được Kim Dung dùng để tượng trưng toàn diện cho Trung Quốc như Trung Thần Thông trước đó.
2. Với các chi tiết trên đây, chúng ta có thể nghĩ rằng Châu Bá Thông là người được dùng làm biểu tượng cho nền công nghệ cổ của Trung Quốc. Nền công nghệ này vốn dựa vào sự thực nghiệm. Nó đã sản xuất những công trình rất tinh xảo, không thua các công trình sản xuất ở bất cứ nước nào khác. Nhưng phần lớn các phát minh của nó nhờ thực nghiệm mà nó chỉ dùng vào việc mua vui hay vào hoạt động nghệ thuật, chớ không dùng vào việc tăng cường lực lượng quốc gia. Như thuốc súng chẳng hạn, đã được người Trung Hoa phát minh rất sớm, nhưng họ đã dùng nó để làm pháo bông nhiều hơn để làm đại pháo đánh thành phá lũy. Mặt khác, những người thợ khéo của xã hội cổ Trung Quốc không được trọng vọng như những người đồng nghề ở các nước khác, đặc biệt là các nước Tây Phương, vì công việc của họ chỉ được xem là việc dùng để cho vui tai đẹp mắt mà không hữu ích cho nền chánh trị vương đạo nên họ chỉ được xem là hạng phục dịch cấp dưới của nhà vua. Tuy vẫn nói rằng “nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh”, người Trung Hoa trước đây đã khinh thường người thợ khéo và đặt những người trong ngành công nghệ nói chung ở hạng thứ ba trong bốn hạng người của xã hội: dưới hai hạng sĩ và nông.
Từ khi nắm được toàn quyền lãnh đạo nước Trung Hoa, Đảng Trung Công đã đưa nước này vào một đường lối hoàn toàn mới. Bởi đó, nước Trung Hoa cổ điển kể như đã chấm dứt về mặt chánh trị và hiện nay, nó chỉ còn được người ta biết đến và hâm mộ nhờ các tác phẩm thuộc mọi loại nó còn để lại. Các điểm trên đây đã được Kim Dung ám chỉ qua việc phái Toàn Chân lần lần suy sụp sau cái chết của Trung Thần Thông và chỉ còn được kính trọng nhờ Châu Bá Thông, một nhơn vật võ nghệ cao siêu và tánh tình khả ái làm cho người ta mến phục, nhưng không có sự nghiêm chỉnh cần thiết để có thể đóng vai tuồng lãnh đạo hay đại diện cho môn phái của mình.
Đ- CÁI NẤM MỌC TRÊN BÃ NHƠN SÂM LÀM TĂNG CÔNG LỰC TRUNG THẦN THÔNG, BIỂU TƯỢNG NỀN VĂN HÓA CỔ TRUNG HOA
1- Về phần Trung Thần Thông thì sở dĩ ông luyện được một công lực siêu phàm là vì lúc nhỏ ông đã ngẫu nhiên ăn được cái nấm mọc trên chỗ đổ bã nhơn sâm từ mấy chục năm trước tích tụ lại. Nhơn sâm là một trân quí có khả năng bổ dưỡng con người. Bã của nó đã bị đem bỏ vì đã hết công dụng, nhưng lại làm nảy sanh được cái nấm qúi. Cậu bé họ Vương sau này là Trung Thần Thông đã ăn cái nấm đó và chết mất ba ngày. Người nhà đã sắp đem cậu đi chôn, chỉ nhờ có thầy là Thanh Hư Chơn Nhơn đến và giải cứu cho, cậu mới sống lại được. Đạo hiệu Trùng Dương mà thầy của Trung Thần Thông đặt cho ông bao hàm ý đã chết mà được sống trở lại.
2. Với câu chuyện trên đây, Kim Dung muốn mô tả tính cách cao quí nhưng rất cổ của nền văn hoá Trung Hoa. Nền văn hoá này đã được duy trì liên tục từ mấy ngàn năm. Do đó, mặc dầu có nhiều điểm hay và có công dụng tốt trong quá khứ, nó không khỏi có chỗ không còn thích ứng với đời sống hiện tại. Nền văn hoá Trung Hoa đã tạo cho nước ấy một sức mạnh tinh thần thâm hậu, nhưng cũng đã là một trở ngại lớn cho việc canh tân trong mấy thế kỷ sau này và suýt làm cho Trung Hoa bị liệt cường qua phân hay chinh phục, nghĩa là súyt bị loại luôn khỏi trường chánh trị quốc tế.
E- Ý NGHĨA CỦA PHÁI ĐẠO GIÁO TOÀN CHÂN
1. Vị trí của Đạo Giáo trong lịch sử Trung Quốc.
Xét về mặt văn hoá thì hệ thống tư tưởng Trung Hoa được người ngoại quốc biết đến nhiều nhứt là Nho Giáo, còn xét về mặt võ thuật thì môn phái Thiếu Lâm. Nhưng Trung Thần Thông lại được Kim Dung mô tả như là người theo Đạo Giáo. Đó là vì Nho Giáo chỉ chuyên về văn học mà không nghiên cứu về võ thuật, còn môn phái Thiếu Lâm có tiếng về võ thuật lại là một môn phái của Phật Giáo mà Phật Giáo vốn từ Ấn Độ truyền sang nên bị người Trung Hoa xem là một tôn giáo ngoại lai. Về phần Đạo Giáo, nó là một tôn giáo phát xuất từ Trung Quốc mà cũng có nghiên cứu về võ thuật. Bởi vậy, nó đã được Kim Dung dùng để biểu tượng cho tài nghệ của nước Trung Hoa.
Xu hướng trọng Đạo Giáo hon Phật Giáo đã có ở Trung Hoa từ thời trước. Trong quá khứ, khi theo nguyên tắc tam giáo đồng lưu, người Việt Nam ta đã xem Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo như nhau, và có lúc đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo nhiều hơn hai tôn giáo kia. Người Trung Hoa, trái lại, lúc nào cũng đặt Nho Giáo lên trên hết, và tuy vẫn phải dung nạp Phật Giáo vì quần chúng sùng tín tôn giáo, các chánh quyền Trung Quốc hai đời Đường (618-907) và Tống (960-1276) đã trọng Đạo Giáo hơn Phật Giáo.
Vì truyền thuyết cho rằng một Giáo Tổ của Đạo Giáo là Lão Tử vốn họ Lý, mà vua nhà Đường cũng họ Lý, nên triều đại này đã nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình và đặc biệt ưu đãi Đạo Giáo. Năm 667, vua Đường Cao Tông đã phong Lão Tử tước Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Đến năm 736, vua Đường Huyền Tông lại quyết định cho các đạo sĩ và nữ quan (tức là các phụ nữa theo học Đạo Giáo) thuộc sự quản trị của Tông Chánh Tự là cơ quan coi sóc các việt liên hệ đến những người trong tông thất,nghĩa là có họ hàng với nhà vua. Nói cách khác, từ đời vua này, những người theo Đạo Giáo được xem như là người trong hoàng tộc. Đối với Phật Giáo, chánh quyền quân chủ Trung Hoa trước đây đã nhiều lần áp dụng chánh sách chèn ép. Riêng đời nhà Đường thì năm 845, vua Võ Tông đã ra lịnh đàn áp Phật Giáo, phá hủy nhiều chùa và bắt một số tăng ni hoàn tục làm cho Phật Giáo bị suy.
Nhà Tống đã tiếp tục chánh sách của nhà Đường. Nhưng vì vốn họ Triệu nên các nhà vua Tống không thể nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình. Do đó, họ phải tạo ra một vì thần Đạo Giáo khác để tôn thờ làm tổ tiên. Đó là Triệu Công Minh, một vị thần cỡi cọp đen, cũng được gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái.
Vậy, từ thế kỷ thứ 7, chánh quyền Trung Hoa đặc biệt tôn sùng Đạo Giáo và sang thế kỷ thứ 8, với việc xem đạo sĩ và nữ quan như là người trong hoàng tộc, tôn giáo này được nâng lên hàng quốc giáo. Kim Dung đã dựa vào các sự thật trên đây khi mô tả Trung Thần Thông, người biểu tượng của nước Trung Hoa cổ điển, như là một nhà lãnh tụ Đạo Giáo. Tác giả các bộ truyện võ hiệp nói đến Trung Thần Thông vốn không phải là người có ác cảm với Phật Giáo. Trái lại, ông đề cao tư tưởng Phật Giáo trong nhiều tác phẩm, nhứt là trong các bộ THIÊN LONG BÁT BỘ và LỤC MẠCH THẦN KIẾM. Nhưng vì có chủ ý dùng Trung Thần Thông để biểu tượng nước Trung Hoa cổ điển, ông đã phải hạ thấp giá trị Phật Giáo xuống về mặt võ thuật, mặc dầu môn phái Thiếu Lâm theo Phật Giáo đã nổi tiếng khắp nơi. Trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ông cho thấy rằng Trung Thần Thông ngay từ lúc trẻ đã nhiều lần thắng một cách dễ dàng các nhà sư của chùa Thiếu Lâm trong các cuộc tỷ thí. Mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, không có vị cao tăng Trung Hoa nào có một vai tuồng siêu việt, đáng được tôn trọng.
2. Phái Toàn Chân: tiêu biểu cho tánh cách dung hợp của nền văn hoá Trung Hoa
Phái Đạo Giáo mà Vương Trùng Dương lãnh đạo tên là Toàn Chân. Đạo Giáo vốn đã được Trương Đạo Lăng sáng lập dưới đời Đông Hán (25-220) và đặt căn cứ chánh tại nơi họ Trương tu luyện là Long Hổ Sơn (trong tỉnh Giang Tây ngày nay). Nhưng từ lúc nước Đại Kim chiếm lấy phía bắc Trung Quốc, triều đình nhà Tống phải dời về phương nam, người theo Đạo Giáo ở Hà Bắc thuộc quyền cai trị của người Đại Kim đã tách ra và lập ba phái phân biệt nhau là Toàn Chân, Đại Đạo, Thái Ất. Trong ba phái này, Toàn Chân là phái mạnh nhất.
Toàn Chân vốn có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Môn phái Đạo Giáo này đã mang danh hiệu trên đây vì ngoài chủ trương riêng của Đạo Giáo, nó lại còn bao gồm những chủ trương của Nho Giáo và Phật Giáo. Các môn phái Đạo Giáo trước đó chỉ chuyên về việc luyện linh đơn và làm phù chú. Phái Toàn Chân đã thêm vào các công phu trên đây, việc theo đạo trung hiếu của Nho Giáo và các giới luật của Phật Giáo. Những người theo môn phái này đã gọi nó là Toàn Chân chính vì nó bao gồm trọn vẹn các chơn lý mà các tôn giáo lớn lưu hành ở Trung Quốc đã nêu ra. Nói chung lại thì tuy cốt là Đạo Giáo, phái Toàn Chân cũng chứa đựng cả giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo và điều này đã mô tả đúng tánh cách dung hợp của nền văn hoá Trung Hoa trước đây.