Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Chương 19
Chiếc thuyền con cũ

     hứ tư 20 tháng tư
 
Mà thật vậy, cái trại tựa hồ vắng tanh sau khi Jarro đi rồi. Con chó và con mèo thấy ngày dài quá, vì chúng không có dịp để cãi nhau về Jarro nữa, và bà chủ thì nhớ tiếc những tiếng bập mỏ lẹp kẹp vui mừng của nó đón bà mỗi khi bà bước vào phòng. Nhưng kẻ thấy thiếu Jarro hơn cả là Per Ola, đứa bé con, vì suốt đời nó chẳng có bạn chơi nào như thế.
Khi biết Jarro đã trở về hồ Tâkern để lại ở với những con vịt khác, thì nó không chịu để cho vịt đi mất như vậy, mà chỉ nghĩ đến việc làm sao đem Jarro trở về trại.
Per Ola đã trò chuyện nhiều với Jarro, những khi con vịt còn nằm trong cái rổ của nó, và nó tin chắc rằng vịt hiểu nó. Nó xin mẹ đưa nó đến bên bờ hồ để có thể tìm thấy Jarro, và nói cho vịt bằng lòng trở về nhà với nó. Mẹ nó không nghe, nhưng đứa bé không chịu chỉ vì chút việc nhỏ ấy mà từ bỏ ý định của mình.
Ngay hôm sau cái ngày mà Jarro biến mất, Per Ola ra ngoài sân. Ở đấy nó chơi những trò chơi như mọi ngày. Cesar nằm trên các bậc thềm, và khi phải đi vắng, mẹ nó bảo con chó: "Trông Per Ola, nghe chưa Cesar!"
Cứ như mọi khi thì Cesar đã nghe lệnh bà chủ, và đứa bé đã được trông nom cẩn thận. Nhưng mà đã mấy hôm nay, Cesar không còn là nó nữa. Nó biết rằng những chủ trại, những nông dân, những trai cày ở quanh hồ Tâkern đã bàn nhau về việc tát cạn cái hồ, và họ sắp sửa quyết định thực hiện việc đó. Những con vịt sẽ mất đi và chẳng bao giờ Cesar sẽ còn có dịp đi săn một cuộc săn ra trò nữa. Chỉ nghĩ đến tai họa đó là Cesar đã khổ não đến nỗi chẳng nghĩ đến việc trông nom Per Ola nữa.
Và đứa bé vừa ở lại một mình trong vườn, là liền thấy đã đến lúc đi ra hồ Tâkern và nói chuyện với Jarro. Nó mở một cái cửa nhỏ, và theo lối đi hẹp, băng qua các đồng cỏ, xuống hồ Tâkern. Còn trông thấy ngôi nhà là nó còn đi chầm chậm, nhưng sau đó thì nó rảo bước. Nó rất sợ mẹ nó hay một ai đó gọi lại và cấm nó đi xa hơn.
Per Ola không có ý làm một việc gì có lỗi, nó chỉ muốn làm cho Jarro phải trở về, nhưng nó đoán biết rằng mẹ nó sẽ không tán thành việc nó định làm.
Đến bờ hồ, Per Ola gọi Jarro nhiều lần. Rồi nó chờ một lúc lâu, không thấy Jarro đến. Per Ola trông thấy nhiều chim giống như con vịt trời. Chúng bay chẳng để ý gì đến nó, cho nên nó hiểu rõ rằng chẳng con nào trong bọn có thể là Jarro cả.
Vì Jarro không đến gặp nó lại, nên đứa bé nghĩ là có thể tìm ra nó dễ hơn ở ngay trên mặt hồ. Ở đấy có vài chiếc thuyền tốt, nhưng đều bị kéo lên bờ cả. Chỉ có một chiếc thuyền con cũ, ván đã hở ra cả, đang trôi nổi tự do trên mặt nước, nhưng bởi vì nó hư nát quá sức nên chẳng một ai nghĩ đến việc dùng nó cả.
Tuy vậy, Per Ola cứ leo qua mạn, xuống thuyền, không lo rằng nước đã đầy cả lòng thuyền. Nó không đủ sức dùng chèo để bơi, trái lại nó cứ việc đung đưa thân hình sang phải rồi sang trái ở trong lòng thuyền. Tất nhiên là không một người lớn nào có thể làm cho một chiếc thuyền con đi được trên hồ Tâkern bằng cách ấy cả; nhưng mà khi nước sâu và tai nạn có thể xảy ra, thì những trẻ nhỏ lại có khả năng lạ lùng để đi liều, không sợ nguy hiểm trên mặt sông. Chỉ một chốc là Per Ola, đã được đưa đi trên mặt hồ Tâkern, mồm gọi Jarro.
Chiếc thuyền con cũ cứ bập bềnh giữa hồ, những kẽ hở giữa các tấm ván rộng dần ra, và nước tràn vào. Tuy vậy, Per Ola chẳng chút mảy may lo sợ. Ngồi trên một chiếc ghế nhỏ, đằng mũi, nó gọi tất cả những con chim nó trông thấy, và ngạc nhiên vì Jarro không đến.
Dù sao thì cuối cùng Jarro cũng trông thấy Per Ola, nghe gọi nó bằng cái tên mà những con người đã đặt cho nó, thì nó hiểu rằng đứa bé đã đến tìm nó. Jarro sung sướng quá vì thấy có một con người đã thực sự có lòng thương nó. Nó lao xuống với Per Ola như một mũi tên, ngồi bên cạnh, và để cho Per Ola vuốt ve; cả hai đều rất vui mừng vì được gặp lại nhau. Nhưng bỗng Jarro nhận thấy tình hình chiếc thuyền đã ngập nước đến một nửa và sắp sửa đắm. Jarro cố thuyết phục Per Ola là phải gắng trở vào đất liền, vì Per Ola không biết bơi, cũng không biết bay. Per Ola chẳng hiểu chút gì ngôn ngữ của Jarro. Thế là chẳng do dự nữa, Jarro bay đi tìm cứu viện.
Một lát sau, Jarro đã trở lại với một con người bé tí, bé hơn Per Ola rất nhiều. Nếu con người bé nhỏ kia không biết nói năng và cử động thì đứa bé đã cho rằng đó là một con búp bê.
Con người bé nhỏ ra lệnh cho Per Ola phải tức khắc cầm lấy cây sào dài ở lòng chiếc thuyền con, và cố gắng chống thuyền về một trong các hòn đảo mọc đầy sậy. Per Ola làm theo ngay. Được con người bé nhỏ giúp sức, nó có thể đưa chiếc thuyền con đi. Chỉ chống vài cái là đến một hòn đảo, và Per Ola đặt chân lên đất, chính đúng cái lúc mà chiếc thuyền con ngập nước hoàn toàn và đắm luôn.
Trông thấy thế, đứa bé cũng biết rằng bố mẹ nó sẽ mắng rất dữ, và nó đã bật ra khóc, nếu không được những ý nghĩ khác làm cho quên ngay điều đó. Thật vậy, một đàn chim to lông xám bay đến đỗ cạnh nó, và con người bé nhỏ kia dẫn cả đàn đến phía nó. Con người nói cho nó biết những chim đó là ai và cắt nghĩa cho nó hiểu những lời nói của chim. Per Ola thích quá đến mức quên hết mọi việc.
Trong lúc ấy ở trại, người ta nhận thấy đứa bé đi đâu mất, và người ta bổ đi tìm. Người ta tìm trong kho lúa mì, dưới giếng, dưới hầm nhà. Rồi tất cả mọi người kéo nhau lên các đường lớn và các đường hẻm nhỏ, hỏi thăm làng xóm láng giềng có trông thấy nó không. Sau cùng, người ta đến tìm tận hồ Tâkern. Nhưng chẳng thấy nó đâu cả, và Cesar, con chó, chẳng làm chút gì để đưa chủ đi theo dõi dấu vết cả. Trái lại, nó cứ nằm dài hết sức yên tĩnh, tựa hồ việc ấy chẳng liên quan gì đến nó hết.
Trời đã hơi chiều, người ta thấy dấu chân của Per Ola gần bến đò, và người ta nhận thấy là chiếc thuyền con cũ không còn ở chỗ của nó ven bờ nữa. Thế là người ta hiểu những gì đã xảy ra. Chủ trại và các anh người nhà liền đẩy các chiếc thuyền ra giữa hồ, lùng sục khắp nơi để tìm đứa bé. Họ chèo đi khắp mọi phía trên mặt hồ Tâkern, cho mãi đến tận tối mà chẳng tìm thấy dấu vết của Per Ola đâu cả. Chiếc thuyền cũ chắc đã đắm thẳng xuống hồ, và đứa bé đã nằm dưới đáy nước rồi.
Chiều tối, mẹ Per Ola đi lang thang trên bãi cát ven hồ. Tất cả mọi người đều đinh ninh rằng đứa bé đã chết đuối rồi, nhưng bà thì không thể cho là như thế được, và bà cứ tiếp tục đi tìm. Bà tìm giữa các đám lau sậy và cói lác; bà đi lại không biết mệt trên các bờ hồ lầy lội, không nghĩ là mình đang lún xuống bùn và lấm be lấm bét. Nỗi tuyệt vọng thật là vô hạn. Bà không khóc, nhưng vặn hai bàn tay và gọi tên con nghe đứt ruột. Chung quanh, bà nghe kêu lên nào thiên nga, nào vịt trời, nào dẽ gà. Bà tưởng là chúng đi theo bà, vừa kêu rên vừa than khóc như bà. "Chúng cũng phải phiền muộn mới kêu than như thế", bà tự nhủ. Nhưng rồi bỗng bà nhớ ra là bà đang nghĩ đến chim, mà chim thì chắc là không có chút lo nghĩ nào. Tuy nhiên, thật lạ thay, mặt trời đã lặn rồi, mà chúng vẫn không chịu làm thinh. Trái lại, bà nghe tất cả chim chóc đang ở trên hồ Tâkern đều kêu, rồi lại kêu. Nhiều con cứ bay theo bà, dù bà cất bước đến đâu. Những con khác bay qua, cánh khẽ lướt vào bà. Chung quanh bà, không trung chỉ còn là những lời than vãn và oán trách.
Nỗi lo sợ của chính bà làm cho bà cỏi mở tấm lòng. Bà hiểu hơn bao giờ hết những tình cảm của các loài chim. Hoàn toàn như bà, chúng cũng lo lắng đến nhà cửa của chúng, con cái của chúng. Giữa bà với chúng nào có khác gì như cho đến nay bà vẫn tưởng.
Và, bà nghĩ đến việc đã quyết định, có thể nói là tước của hàng nghìn thiên nga, vịt trời, chim cốc những chiếc tổ ấm cạnh hồ Tâkern. Thế là chúng phải biết bao lo lắng! Sau cái việc ấy thì làm sao mà chúng có thể nuôi nấng và dạy dỗ con cái chúng được? Bà đứng im lặng, miên man suy nghĩ. Thoạt mới nhìn thì hình như biến một cái hồ thành đất trồng trọt và đồng cỏ là một công việc hữu ích và tốt lành, nhưng mà cũng phải có một cái hồ nào khác hồ Tâkern, một cái hồ mà không có một số chim đông đến như thế này cư trú chứ.
Bà nhớ ra rằng ngay ngày mai đây thôi, người ta sẽ quyết định tát cạn hồ Tâkern, và bà tưởng là đã thấy trong việc này một lý do của việc con bà mất tích. Bà vội vàng chạy về trại, và nói ngay cho chồng nghe cái điều mà bỗng nhiên bà nghĩ ra. Bà nói với chồng về cái hồ và về các loài chim, và bà nói với chồng rằng cái chết của Per Ola phải là một sự trừng phạt của Chúa cho cả hai vợ chồng họ. Và, tức thì bà thấy chồng cũng cùng ý nghĩ như bà. Họ đã có một dinh cơ lớn, nhưng nếu việc tát cạn hồ mà hoàn thành thì phần lớn đất đai thu được ở đấy sẽ thuộc về họ và sản nghiệp của họ sẽ tăng lên gần gấp đôi. Bởi thế mà họ đã thúc giục việc thực hiện dự định này hăng hái hơn bất kỳ một người nào trong số các cư dân ven hồ.
Thế là người chồng đứng lặng, tự hỏi có nên xem là một ý Chúa, cái việc hồ Tâkern đã bắt mất con trai họ ngay hôm trước cái ngày mà họ định kí hợp đồng về việc tát cạn hồ không. Vợ ông ta chẳng cần phải nói gì nhiều, thì ông ta đã trả lời:
- Có thể là Chúa không muốn chúng ta xen vào cái mà chính Chúa đã an bài. Mai, tôi sẽ nói với những người kia, và tôi tin rằng chúng ta sẽ quyết định là hiện nay không nên thay đổi chút gì cả.
Trong khi ông bà chủ bàn về dự định tát cái hồ, thì Cesar nằm trước lò sưởi. Nó ngẩng đầu lên và lắng tai nghe hết sức chăm chú. Khi nó đã chắc rằng việc nó làm là đúng, nó bèn chạy đến phía bà chủ. Nó đớp lấy váy bà, cắn vào hai hàm răng, và cứ thế đưa bà ra đến cửa.
-   Gì thế Cesar! Bà vừa nói vừa muốn gỡ ra.
Rồi bỗng nhiên bà kêu lên:
- Mày biết Per Ola ở đâu à?
Cesar sủa một tiếng vui mừng và đâm bổ vào cánh cửa, mở ra, rồi chạy thẳng về phía hồ Tâkern, bà chủ lao theo sau.
Và thế là chưa đến bờ hồ đã nghe tiếng một đứa trẻ khóc ở phía hồ. Per Ola đã sống cái ngày thích thú nhất trong đời nó cùng với chú bé Tí Hon và đàn chim, nhưng giờ đây bỗng nó khóc, vì nó sợ đêm tối. Khi mẹ nó và Cesar đến tìm nó thì nó cảm thấy sung sướng lạ thường.