phía bắc vùng Brâviken, chỗ giáp ranh giữa hai tỉnh Ưstergưtland và Sưrmland mọc lên một quả núi dài mấy dặm và rộng một dặm. Giá núi mà cao tương xứng với bề dọc, bề ngang của nó thì đã là một trong những núi đẹp nhất mà người ta có thể trông thấy, nhưng mà đây không phải như vậy.
Đôi khi người ta gặp một ngôi nhà khỏi công với quy mô rộng lớn đến nỗi người xây dựng không bao giờ có thể hoàn thành được. Người ta thấy những nền móng kiên cố, những khung tò vò vững chắc, nhưng chẳng có chút tường cũng như tí mái nào cả; công trình xây dựng chỉ mọc lên cao hơn mặt đất có vài bộ.[1]. Chẳng có cái gì cho ta một ý niệm đúng hơn thế về quả
núi ranh giới ấy. Có thể nói rằng đó là nền móng của một quả núi hơn là một quả núi đã hình thành. Nó mọc từ đồng bằng lên với những sườn dốc đứng; khắp nơi những khối đá hiên ngang chồng chất lên nhau hình như để đỡ những gian phòng mênh mông, cao vút. Mọi thứ đều hùng vĩ và hoành tráng, nhưng mà thiếu mất bề cao. Người xây dựng đã chán và bỏ dở công việc trước khi đắp xong những sườn dài, những mũi nhọn, những đỉnh cao, thường làm nên những tường thành và nóc mái của những quả núi bình thường.
Để đền bù lại, quả núi lớn ấy được phủ kín những đại thụ hùng tráng. Từ những thuở nào, sồi và bồ đề đã mọc trong những thung lũng, phong và trăn trên các bờ hồ, thông trên những sườn cheo leo, và bách thì khắp nơi, ở đâu mà có một nhúm mùn.
Tất cả những loài cây ấy họp thành khu rừng lớn Kolmârden, mà xưa kia người ta khiếp sợ đến nỗi ai bắt buộc phải đi qua rừng đều gửi hồn cho Chúa và sửa soạn cái phút lâm chung của mình.
Rừng là một sào huyệt tuyệt vời cho những dã thú và những côn đồ biết leo, biết bò, biết chui qua các bụi gai rậm rạp. Đối với những kẻ lương thiện, rừng chẳng có gì hấp dẫn: âm u và hung gở, hoang vu và lừa lọc, gai nọc và chằng chịt. Rừng có những cổ thụ như hình những yêu tinh với thân đầy rêu, cành phủ địa y như những chòm râu dài.
Người ta nhìn rừng với đôi mắt ảm đạm vì với khí lực xum xuê, rừng như ngạo mạn thách thức cảnh nghèo khổ của họ. Tuy vậy, cuối cùng rồi họ cũng hiểu ra rằng có lẽ họ có thể rút ra được chút lọi nào đấy ở rừng chăng. Họ bắt tay khai thác, đẵn gỗ, xẻ ván và kèo, cột đem bán cho người ở đồng bằng, vì chính những người này đã đẵn hết cây của mình đi rồi. Người ta tìm ra được rằng rừng có thể nuôi sống người ta, chẳng kém gì đồng ruộng. Thế là họ đi đến chỗ nhìn rừng bằng con mắt khác hẳn. Họ quen chăm sóc rừng và yêu mến rừng. Họ quên hết tất cả nỗi hận thù xưa kia, và đi đến chỗ xem rừng như bạn tốt nhất của họ.
Vào khoảng mười hai năm trước cuộc lữ hành lớn của Nils Holgersson, thì có việc một người chủ ở vùng Kolmârden muốn loại bỏ một trong những con chó săn của mình. Ông ta cho tìm người gác rừng đến, và nói là không thể giữ con chó được nữa; nó cứ rượt đuổi cừu và gà, mãi không thôi. Vì vậy nó phải được đưa vào rừng và bắn chết.
Người gác cầm đầu mút sợi dây, dắt con chó đến chỗ mà người ta thường giết và chôn những chó không dùng vào việc gì nữa. Ông ta không phải là một người ác, thật ra là ông ta cũng muốn trừ khử con chó đi, vì ông ta biết rằng không những nó chỉ rượt đuổi cừu và gà, mà còn thường thoát vào rừng để bắt thỏ hay gà rừng tơ nữa.
Con chó nhỏ và đen, ức và chân trước đều màu vàng. Nó tên là Karr, và thông minh đến mức hiểu tất cả những gì mà người ta nói. Khi người gác dẫn nó đi qua khu rừng thì nó biết rất rõ cái gì đang chờ nó. Nhưng mà nó chẳng để lộ ra chút gì cả. Nó không ngoẹo đầu, cũng không quắp đuôi vào hai chân; hình như nó vẫn vô tư lự như thường ngày. Chẳng phải người ta đang đi qua khu rừng mà ở đó nó đã là mối kinh hãi của tất cả mọi vật nhỏ cư trú tại đó ư. Nó tự nhủ: "Khắp nơi trong bụi bờ gai góc, người ta sẽ rất hài lòng nếu biết cái gì đang chờ mình". Nó bèn vẫy đuôi và sủa lên một tiếng vui vẻ để cho người ta đừng ngờ chút gì hết.
Nhưng nó bỗng đổi cách đi, nó vươn dài cổ ra và ngẩng đầu như để tru lên vậy. Và đáng lẽ chạy nước kiệu bên cạnh người gác thì nó cứ ở lại đằng sau; người ta thấy rõ là một ý nghĩ khó chịu đã tác động mạnh đến nó.
Mùa hè vừa mới bắt đầu. Những con nai xứ lạnh [2] vừa mới đẻ con, và chiều hôm qua, Karr tách được một con nai con, mới đẻ chưa đầy năm ngày ra khỏi mẹ nó, và đuổi nó đến một cái đầm lầy. Ở đấy Karr đã rượt con nai con từ mô đất này sang mô đất khác, không phải để thấy nó sợ cho vui. Con nai mẹ biết rằng vào cữ này, ít ngày sau khi tan băng thì đầm lầy sâu lắm và không thể mang nổi một con vật to như nó, nên cứ ở trên đất liền cho đến khi không ở được nữa. Nhưng vì con nó mỗi lúc một chạy xa, nên bỗng nó liều mình xuống đầm lầy, và đến lượt nó đuổi con chó đi và gọi con nó lại, rồi trở về đất liền. Loài nai xứ lạnh đi trong các đầm lầy, tránh không bị lún khéo léo hơn tất cả các loài vật khác, nên hai mẹ con hình như đã sắp thoát hiểm. Nhưng đến gần bờ thì một mô đất, mà con nai cái vừa đặt chân lên, bỗng sụt xuống bùn, và nó bị lún theo. Nó cố gắng nhấc chân lên để đứng cho vững, nhưng không ăn thua, và mỗi lúc một bị lún sâu thêm. Karr nhìn theo không dám thở; trông thấy con nai không tài nào thoát chết được nó liền ba chân bốn cẳng chạy trốn. Nó hiểu rằng một trận đòn nên thân đang chờ nó, người ta biết rằng nó đã làm chết mất một con nai. Nó sợ đến mức chỉ khi đã về đến nhà mới dám thôi chạy.
Cái việc xảy ra mà Karr vừa nhớ lại là như vậy, chẳng có việc xấu nào nó đã làm mà khiến nó xót xa đến thế. Nó có muốn làm hại con nai cái cũng như con nai con đâu, nhưng mà nó đã là nguyên nhân gây ra cái chết của cả hai mẹ con.
Bỗng nó nghĩ: "Vả lại có thể là chúng chưa chết. Có thể là chúng đã được cứu thoát rồi".
Nó hết sức muốn được biết sự thể đã ra sao. Người gác cầm sợi dây không chặt; Karr thình lình né mình sang một bên, và sợi dây tuột xuống đất. Karr bèn chạy thoát qua cánh rừng về phía đầm lầy; khi người gác muốn nhắm bắn thì nó đã xa quá rồi.
Người gác chạy theo; đến đầm lầy thì bắt gặp nó đang đứng trên một mô đất cách bờ vài mét, dùng hết sức tru tréo lên. Tò mò muốn biết việc gì đã xảy ra, ông ta bò bốn chân trên mặt băng, ra xem. Chỉ một lát, ông ta tìm thấy một con nai cái bị vùi kín dưới bùn. Sát bên cạnh là con nai con. Nó còn sống, nhưng không thể cựa quậy, vì trông nó đã kiệt sức lắm rồi. Karr cúi xuống thân hình nó, lúc thì tru lên kêu cứu, lúc thì liếm liếm nó.
Người gác lôi con vật bé nhỏ lên đất liền. Con chó như cuồng điên lên vì vui sướng. Nó nhảy nhót quanh người gác, vừa nhảy vừa sủa, và liếm hai tay ông ta.
Người gác mang con nai con về và nhốt trong chuồng bò. Sau đó ông ta phải gọi người đến kéo con nai lớn ra khỏi đầm lầy; mãi về cuối mới nhớ ra là phải đem bắn Karr. Ông ta gọi nó, và lại đi về phía rừng. Nhưng giữa đường dường như ông ta thay đổi ý kiến, vì bỗng ông ta quay lại và đi về phía lâu đài.
Karr vẫn bình tĩnh đi theo ông ta, nhưng thấy được đưa về lại nhà chủ thì nó đâm lo. Chắc rằng người gác đã biết rằng chính nó, Karr, đã gây ra cái chết của con nai mẹ, và giờ đây người ta sắp đem nó ra đánh đòn, trước khi giết nó.
Nhưng mà bị đòn thì đối với Karr dường như là điều tệ hại nhất. Nó mất bình tĩnh; cái đầu rũ xuống, nó làm như chẳng nhận ra người nào nữa.
Ông chủ đứng trên tam cấp. Karr thu mình lại bé tí và nép sát vào sau đôi chân người gác, lúc mà ông này nói đến việc các con nai. Nhưng mà ông ta lại không hề kể câu chuyện theo lối mà con chó sợ. Ông ta khen Karr. Rằng Karr biết các con nai đang gặp nạn và đã muốn cứu chúng nó.
Ông ta kết thúc câu chuyện rằng: "Xin ông chủ tha lỗi cho, chứ tôi không thể giết chết con chó này được!"
Karr vểnh tai lên. Nó có nghe rõ không? Dù nó có không muốn tỏ ra vẻ lo ngại chút nào đi nữa thì nó cũng không thể không sủa lên một tiếng than thở nho nhỏ. Có thể nào chỉ mỗi cái việc nó muốn cứu các con nai mà đã đáng cứu mạng cho nó được?
Ông chủ cũng đồng ý là Karr đã ăn ở tốt, nhưng vì ông không muốn giữ nó nữa, nên ông do dự không biết quyết định ra sao.
Sau cùng ông ta nói: "Nếu anh muốn nhận nuôi nó và bảo đảm với ta là nó sẽ không làm những việc ngu dại nữa, thì ta rất muốn để cho nó sống".
Người gác nhận lời, và Karr đã đến ở cái nhà trong rừng như thhắc chắn là người ta đã thấy sung sướng ở trong đồng bằng vì nó tốt lành và quảng đại, và người ta đã đem hết sức ra tô điểm cho nó. Đối với Nils, đang lượn trên chốn rất cao, thì hình như bao nhiêu những thành phố và ấp trại, những nhà thờ và nhà máy, những lâu đài và nhà ga lỗ chỗ trên mặt đồng bằng, đều là bấy nhiêu vật trang sức. Những mái ngói rực rỡ và những cửa kính long lanh khác nào những viên ngọc thạch. Những đường cái màu vàng, những đường sắt bóng nhoáng và những dòng kênh xanh biếc chạy ngang dọc như một mạng lưới đan bằng lụa. Thành phố Linkưping khảm ngôi nhà thờ lớn của mình như một viên kim cương vào giữa những hạt ngọc trai, và những cái trại ở nông thôn thì trông như những chiếc trâm nhỏ và những chiếc cúc quý. Bố trí thì không đều đặn lắm, nhưng thật là một cảnh tráng lệ, nhìn không chán.
Đàn ngỗng đã từ giã vùng núi Omberg và đang bay ngược sông đào Gưta bên phía đông. Con sông cũng đang trang điểm để vào hè. Những người thợ đang sửa sang lại các bờ kênh, và sơn hắc ín các cánh cửa lớn ở các âu thuyền.
Khắp nơi người ta làm lụng để đón tiếp mùa xuân một cách xứng đáng, cả trong các thành phố cũng vậy. Ở đấy thợ quét vôi và thợ nề, đứng trên các giàn giáo, lo sửa sang các bức tường bên ngoài; những người ở gái, leo lên các mép cửa sổ mở rộng, lau chùi các tấm kính. Trong các bến, người ta sửa chữa và sơn mới các thuyền buồm và tàu máy.
Đến Norrkưping đàn ngỗng trời từ giã đồng bằng và rẽ về phía miền rừng Kolmârden. Đàn bay một lúc theo một đường làng cũ hỏng nát, uốn lượn ven những khe sâu, dưới chân những sườn núi dốc đứng, thì Nils bỗng kêu lên một tiếng. Chú đung đưa chơi cái chân và chiếc giày gỗ của chú vừa rơi xuống đất.
"Ngỗng đực, ngỗng đực, mình mất chiếc giày gỗ", chú kêu lên.
Ngỗng đực bay trở lại và hạ thấp xuống đất, nhưng Nils trông thấy hai đứa trẻ đang đi trên đường cái, đã nhặt chiếc giày gỗ.
"Ngỗng đực, ngỗng đực," chú kêu lên.
"Bay lên nhanh đi. Chậm mất rồi. Có ai nhặt mất rồi".
Nhưng mà ở bên dưới, giữa đường cái, Âsa, cô bé chăn ngỗng, và đứa em, bé Mats đang tò mò nhìn một chiếc giày gỗ bé tí, từ trên trời rơi xuống.
- Ngỗng trời đánh rơi đấy, bé Mats nói.
Âsa, cô bé chăn ngỗng, đứng lặng hồi lâu, ngắm nghía chiếc giày, sau cùng, chậm rãi nói, vẻ suy nghĩ:
- Em có nhớ không, bé Mats à, khi đi qua Ưstergưtland, trong một cái trại, chúng mình có nghe nói là có những người đã trông thấy một gia thần, mặc quần da và đi giày gỗ như một người thợ bình thường là gì? Ở xa tí nữa, một bé gái có trông thấy một yêu lùn đi giày gỗ, cưỡi một con ngỗng. Và khi mình về đến nhà, đến cái nhà của mình, bé Mats à, chúng mình đã trông thấy rõ ràng một con người bé tí, ăn mặc đúng như thế, và người ấy cũng cưỡi một con ngỗng đực bay lên. Hay có lẽ chính là kẻ ấy đang đi qua trên cao và đánh rơi chiếc giày gỗ.
- Chắc là người ấy, bé Mats nói.
Hai đứa trẻ lật đi lật lại chiếc giày gỗ, xem xét kỹ lưỡng, vì không phải ngày nào người ta cũng bắt được chiếc giày gỗ của một gia thần ở trên đường cái.
- Này, thong thả, bé Mats à, Âsa, cô bé chăn ngỗng bỗng kêu lên. Có chữ gì viết đây này, ở phía bên!
- Ơ, thật nhỉ. Nhưng mà chữ bé quá sức.
- Để chị xem! Có... chữ viết
: Nils Holgersson ở Vemmenhưg.
- Em chưa bao giờ thấy cái gì lạ lùng đến thế này, bé Mats nói.