Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Chương 32 - Gorgo, chim đại bàng
Thung lũng núi cao

     ất xa ở miền bắc, giữa các cao nguyên băng tích của xứ Lapland, có một tổ đại bàng lâu năm, cheo leo trên chỗ nhô ra của một vách núi đá dốc đứng. Tổ làm bằng những cành thông. Qua nhiều năm, tổ đã được mở rộng và làm cho kiên cố thêm. Bây giờ thì trải rộng gần hai mét và cao gần bằng một chiếc lều của người Lapps.
Vách đá dựng lên sừng sững trên một thung lũng khá rộng mà mùa hè có một đàn ngỗng trời ở. Nằm khuất giữa những ngọn núi và gần như không được loài người biết đến, dù là người Lapps, thung lũng là một chốn trú ẩn rất tốt. Ở giữa có một cái hồ nhỏ, tròn vành vạnh, phong phú thức ăn cho đám ngỗng con; và bờ hồ phủ đầy những bụi to miên liễu [1]  lùn và những cây phong nhỏ còi cọc, đã cho đàn ngỗng những chỗ ẩn náu rất tốt để ấp trứng.
Từ thuở nào, đại bàng đã ở trên núi đá, và ngỗng trời dưới đáy thung lũng. Năm nào đại bàng cũng bắt vài con ngỗng, nhưng cũng giữ gìn không bắt nếu đàn ngỗng không quay trở lại nữa. Về phía ngỗng trời, thì dù có thế nào cũng lợi vì sự có mặt của các đại bàng. Chúng là những côn đồ, nhưng mà chúng làm cho bọn côn đồ khác không dám bén mảng. Khoảng ba năm trước cái thời mà Nils Holgersson đi với đàn ngỗng trời, thì ngỗng già đầu đàn Akka núi Kebnekaise, buổi sáng nọ, từ dưới đáy thung lũng nhìn lên cái tổ đại bàng. Đôi chim thường bay đi săn mồi, sau khi mặt trời mọc một chút. Những mùa hè trước, Akka sáng nào cũng phục, chờ chúng nó đi, để cho chắc chắn rằng chúng không chọn thung lũng làm đất săn mồi.
Ngỗng chẳng phải chờ lâu. Chỉ một chốc là đôi chim đẹp nhưng đáng sợ kia, lao vút lên không. Chúng bay về phía đồng bằng được trồng trọt; Akka liền thở ra như trút được một gánh nặng.
Ngỗng già đã thôi đẻ trứng và nuôi con; mùa hè thì thời gian của ngỗng dùng để đi lại từ tổ này sang tổ khác, khuyên bảo những điều hay về cách ấp trứng và nuôi con. Ngoài ra, ngỗng còn canh chừng, không những hai con đại bàng, mà cả những con cáo núi cao, những con cú và tất cả những kẻ thù khác đe dọa đàn ngỗng và các ổ trứng của đàn.
Vào lúc giữa trưa, Akka lại trông chừng hai con đại bàng trở về, như thường vẫn làm từ bao năm nay. Nhìn cách bay của chúng, ngỗng biết là chúng đã no mồi chưa, nếu đã thì ngỗng thấy yên tâm cho bà con. Nhưng mà ngày hôm đó, ngỗng không hề trông thấy chúng trở về.
Chờ đại một lúc lâu, ngỗng nghĩ rằng: "Quả thật mình già và lẫn mất rồi. Bọn đại bàng đã về từ lâu rồi mới phải".
Buổi chiều ngỗng không ngớt trông lên núi, chờ xem đôi đại bàng ở trên cái bậc đá là nơi chúng thường nghỉ ngơi; gần tối ngỗng lại còn chờ chúng vào lúc chúng thường xuống tắm dưới hồ. Và ngỗng lại phàn nàn là mình đã già và lẫn mất rồi. Ngỗng không thể nào chịu nhận rằng đôi đại bàng đã không trở về.
Ngày hôm sau, Akka dậy sớm để cố xem đôi đại bàng. Nhưng cũng lại vô ích. Trái lại, trong cành thanh tĩnh ban mai, ngỗng nghe có tiếng kêu, vừa tức giận vừa tội nghiệp, và hình như từ tổ đại bàng vọng xuống. Ngỗng bèn bay vút lên khá cao, để có thể phóng mắt nhìn xuống cái tổ ấy.
Ở đấy, ngỗng không trông thấy cả chim trống lẫn chim mái. Trong chiếc tổ to, chỉ có một con đại bàng non, nửa trần trụi, đang kêu đói.
Từ từ và như tuồng do dự, Akka hạ mình xuống cái tổ. Thật là một chốn thê thảm. Thấy ngay đây là sào huyệt của quân côn đồ. Cái tổ và bậc đá núi la liệt những xương trắng, túm lông, mảnh đá vấy máu, những sọ thỏ, mỏ chim và cẳng gà tuyết [2] còn đầy lông. Con đại bàng non nằm giữa tất cả các vật thừa của xác chết ấy, chính nó trông cũng khủng khiếp với cái mỏ to tướng há ra, cái thân hình nặng nề mới hai mọc lông tơ, và đôi cánh thô sa mà những chiếc lông tương lai đâm ra tua tủa như những cái gai.
Nhưng rồi Akka cũng nén được lòng ghê tởm và đậu xuống mép tổ, lo ngại nhìn ra chung quanh, vì mỗi chốc có thể gặp đôi đại bàng bố mẹ trở về.
-   Mãi giờ mới đến giúp người ta! Sớm lắm đấy! Đem ngay cho người ta ăn.
-   Không ngay được đâu! Akka nói. Hãy bảo cho ta biết bố mẹ mày ở đâu đã.
-   Người ta biết sao được. Họ đi từ sáng hôm qua, chỉ để cho người ta có con lemming [3] cả khổ này mà ăn. Mụ cũng phải hiểu là nó đã hết từ lâu rồi. Để cho người ta chết đói thế này thì xấu hổ quá.
Giờ Akka mới bắt đầu tin chắc là đôi đại bàng già đã bị giết chết rồi; ngỗng tự nhủ là mình mà cứ để cho con đại bàng non chết đói thì thiên hạ từ nay về sau sẽ trừ khử được toàn thể cái gia đình côn đồ này. Tuy vậy, ngỗng lại thấy ghê tởm nếu không cứu một đứa trẻ không có ai bảo vệ.
Con đại bàng lại sốt ruột kêu lên: "Mụ chờ gì nữa? Mụ không nghe thấy rằng người ta muốn có cái gì để ăn à?"
Akka dang cánh ra và thả mình rơi xuống tận cái hồ nhỏ dưới đáy thung lũng, và chỉ một tí là bay lên, mỏ ngậm một con cá hương. [4]
Trông thấy cá, con đại bàng nổi cơn thịnh nộ. Vừa lấy chân hất con cá hương đi, nó vừa rít lên: "Mụ tưởng người ta muốn ăn cái của này à? Đem ngay tức khắc cho người ta một con gà tuyết hay một con lemming, mụ nghe chưa?"
Akka liền vươn cổ ra, lấy mỏ quắp mạnh gáy con đại bàng. "Nghe kỹ ta bảo đây này," ngỗng già nói, "mày mà muốn ta cho mày ăn, thì ta cho gì phải ăn nấy. Bố mẹ mày chết cả rồi, và vì thế sẽ không thể làm gì cho mày được nữa. Nếu mày muốn chết đói bằng cách chờ có gà tuyết và lemming thì ta không ngăn mày đâu".
Nói xong ngỗng bay đi, và sau một giờ đằng đẵng mới trở lại cái tổ đại bàng. Con đại bàng non đã ăn tươi nuốt sống con cá rồi, và ngỗng vừa để trước mặt nó một con cá hương khác là nó liền hốc luôn, chẳng nói một lời, dù có vẻ cho là cá chẳng ngon lành gì lắm.
Akka thật là vất và. Đôi đại bàng già không hề trở về, và ngỗng phải một mình nuôi sống con đại bàng non. Ngỗng đem cho nó nào cá, nào ếch; và con đại bàng hình như chẳng chút nào khó ở vì chế độ ăn uống đó: nó cao lớn lên và cường tráng ra. Chẳng bao lâu nó quên bố mẹ nó, đôi đại bàng nọ, mà cho Akka là mẹ thật của nó. Về phía mình, thì Akka thương nó như con đẻ, và cố dạy dỗ nó tốt, làm cho nó bỏ thói hung hãn khát máu bẩm sinh và cái tính kiêu ngạo hỗn láo.
Hai hay ba tuần sau, Akka thấy mình sắp đến lúc thay lông và sẽ không thể bay được trong ít lâu, và suốt một tuần trăng sẽ không thể nào đem cái ăn lên cho con đại bàng được. Akka mới bảo nó:
"Này nhá, Gorgo à, ta sẽ không thể đem cá cho anh được nữa. Cái việc bây giờ là phải xem thử rằng anh có thể dẫn thân xuống dưới thung lũng được không. Phải chọn một trong hai điều: hoặc là chết đói ở đây, hoặc là lao mình xuống dưới kia, mà như thế cũng có thể thiệt mạng".
Chẳng đáp lại một lời, mà cũng chẳng chút do dự, con đại bàng non leo ra mép tổ; nó cũng chẳng thèm đưa mắt ước độ cao nữa, dang đôi cánh cụt ngủn ra, và lao mình xuống. Nó quay quay như chong chóng nhiều lần trong không, nhưng rồi cũng biết sử dụng đôi cánh, tạm đủ để đáp xuống dưới ấy, gần như an toàn vô sự.
Sau đó, ở dưới thung lũng, Gorgo sống qua mùa hè cùng với đám ngỗng con. Nó tự xem như cũng là trong gia tộc, và thử sống hệt như ngỗng vậy; khi ngỗng lao xuống nước bai, nó cũng lao theo và suýt chết đuối. Nó tự thấy nhục quá vì không thể nào học bai được, và đem việc đó phàn nàn với Akka.
- Tại sao cháu lại không có thể bai được như những kẻ khác?
- Trong khi anh ở cao trên núi thì các móng chân anh đã khoằm lại cả rồi. Nhưng cũng chẳng nên buồn phiền. Dù có thế nào anh cũng sẽ là một con chim lương thiện. Akka trả lời như vậy.
Đôi cánh của con đại bàng con to ra nhanh, nhưng nó không nghĩ đến việc dùng để bay trước khi mùa thu đến, là lúc mà các ngỗng con học bay. Lúc ấy đối với nó là một lúc đáng tự hào, vì trong môn thể thao này nó tức khắc đứng đầu. Các bạn nó không bao giờ ở lâu trên không, còn nó thì chỉ ít lâu sau là cứ bay suốt cả thời gian trên ấy. Nó chưa nhận ra rằng nó thuộc một loài khác các con ngỗng, nhưng nó cũng nhận thấy bao nhiêu điều, mà nó đem ra hỏi Akka.
-   Tại sao các con gà tuyết và lemming đều bỏ chạy khi thấy bóng cháu vẽ xuống mặt cao nguyên băng tích? Tại sao chúng nó tỏ ra khiếp sợ như thế trước mặt đám ngỗng con?
-   Là vì cánh của anh đã mọc ra to quá trong thời mà anh ở trên bậc núi kia, Akka nói. Điều đó làm chúng nó sợ. Nhưng cũng chẳng nên buồn phiền. Không vì vậy mà anh sẽ không phải là một con chim lương thiện.
Sang mùa thu, khi đàn ngỗng trời di cư, thì Gorgo đi theo đàn. Nó vẫn tự xem là chim của đàn. Nhưng không trung đầy những chim đang trên đường bay đến các xứ nóng, và thế là huyên náo lên khủng khiếp, khi chúng trông thấy đi theo Akka có cả một con đại bàng. Từng đám vô công rồi nghề cứ vây lấy đàn ngỗng đang bay theo hình chữ nhân. Akka khẩn khoản chúng im, nhưng làm sao mà bịt được bao nhiêu cái mồm bép xép đến thế?
"Tại sao chúng cứ gọi cháu là đại bàng?" Gorgo cứ hỏi Akka không ngớt, và mỗi lúc lại càng bực tức thêm. "Chúng nó chẳng thấy cháu thuộc về đàn chúng ta sao? Chúng có ở trong bọn những đứa ăn thịt chim, nhai nuốt đồng loại ấy đâu".
Một hôm, đàn bay trên một cái trại, có những gà mái đang kiếm mồi trong sân gà vịt.
"Đại bàng! Đại bàng!" Các con gà kêu lên và hoảng hốt chạy trốn.
Nhưng Gorgo thường đã nghe gọi những quân hung đồ khủng khiếp là đại bàng, nên không thể nào nén được con tức giận. Nó hạ cánh, bổ thẳng xuống một con gà mái và đâm các móng của nó vào thân hình con gà.
"Tao dạy cho mày biết rằng tao không phải là một con đại bàng", nó khùng lên, vừa thét vừa mổ con gà.
Đúng lúc ấy nó nghe tiếng Akka gọi. Ngoan ngoãn, nó bay lên. Ngỗng bay đón đầu để trừng phạt nó.
"Mày điên đấy à?" Ngỗng hỏi và mổ nó một cái. "Mày định giết con gà mái tội nghiệp ấy à? Mày không xấu hổ à?"
Thấy đại bàng để yên cho ngỗng mắng mà không hề cãi lại, đám chim liền phá ra cười; tiếng kêu, tiếng cười ào ào như bão. Con đại bàng nghe cười, quay nhìn Akka, tức giận như muốn đánh lại. Rồi bỗng nó rẽ ngoắt, hùng dũng đập đôi cánh, bay vút lên trời, lên cao đến nỗi không còn một tiếng kêu nào thấu đến nơi, và cứ lượn mãi không ngừng cho đến khi đàn ngỗng không thể nào trông thấy nó nữa.
Ba ngày sau, nó lại xuất hiện giữa đàn ngỗng trời. Nó nói với Akka:
"Bây giờ tôi biết tôi là ai rồi. Bởi vì tôi là một con đại bàng, nên tôi phải sống như những con đại bàng chứ, nhưng đối với tôi thì dù có thế đi nữa, chúng ta cũng không thể kém thân thiện. Không bao giờ tôi tấn công Akka cũng như bất cứ kẻ nào trong dòng giống Akka." Akka tự cho rằng nuôi dạy một con đại bàng thành con chim hiền lành và vô hại là một điểm danh dự nên không muốn chấp nhận cho Gorgo sống theo ý mình được. Ngỗng nói: "Thế ra anh tưởng là ta sẽ là bạn của một kẻ ăn thịt các loài chim à? Hãy sống như ta đã dạy cho anh, và ta sẽ cho phép anh đi theo đàn".
Cả hai bên đều tự hào và bất khuất, cả hai bên đều không thể nhượng bộ. Sau cùng, Akka phải cấm không cho con đại bàng đến trước mặt mình; và cơn phẫn nộ của Akka dữ dội đến nỗi chẳng một ai dám nói đến tên Gorgo nữa.
Từ ngày ấy, Gorgo lang thang trong xứ, làm tên côn đồ đáng sợ, cô độc và bị mọi người ghét.
Lắm lúc nó buồn rầu ảm đạm, và có lẽ lắm lúc nó tiếc nhớ cái thời mà nó tưởng mình là một con ngỗng trời và vui chơi với các ngỗng con. Giữa các loài vật, nó đã nổi danh dũng cảm. Người ta nói là trong thế gian nó chỉ sợ có một kẻ: Akka, mẹ nuôi của nó. Người ta lại còn kể rằng nó không bao giờ tấn công một con ngỗng.

Cảnh giam cầm

Gorgo mới có ba tuổi; nó chưa hề nghĩ đến việc kiếm một bạn đời và ở yên một nơi nào đó, thì bị một người thợ săn bắt và bán cho vườn Skansen. Ở đó đã có mấy con đại bàng rồi. Chúng bị giam trong một cái chuồng có chấn song sắt và dây thép bao vây, dựng cao ngoài trời và khá rộng để có thể chứa một đống đá khá to với hai cái cây. Tuy vậy, ở đấy mấy con chim vẫn cứ đau khổ mà mòn mỏi dần. Suốt ngày, chúng cứ đứng một chỗ, bất động. Bộ lông đẹp của chúng mất hết vẻ bóng nhoáng, và thành sù sì, lởm chởm. Đôi mắt chúng dõi sâu vào không gian, đăm đăm một cách tuyệt vọng.
Trong tuần giam cầm đầu tiên, Gorgo còn nhanh nhẹn, linh lợi, nhưng dần dần một nỗi tê liệt trầm trọng làm cho nó cứ thiếp đi. Cũng như các bạn, nó bắt đầu đứng im không nhúc nhích hằng giờ liền, chẳng kể ngày tháng gì hết.
Một buổi sáng nó đang thiu thiu ngủ, theo thói quen thì nghe tiếng gọi từ bên dưới. Khó khăn lắm nó mới giũ được nỗi tê liệt nặng nề, để cúi nhìn xuống đất và hỏi:
-   Ai gọi ta đấy?
-   A Gorgo, cậu không nhận ra mình nữa à? Tí Hon đi với đàn ngỗng trời đây mà.
-   Cả Akka cũng bị cầm tù à? Gorgo vừa hỏi vừa cố gắng tập trung ý nghĩ lại, như sau một giấc ngủ dài.
-   Không, Akka và ngỗng đực trắng và các ngỗng khác giờ này có lẽ đang ở Lapland cả, chỉ có mình mình bị giam ở đây thôi, chú bé đáp lại.
Nils đang nói thì đã thấy luồng mắt của đại bàng như tắt đi, và trở lại đăm chiêu như trước.
"Này, đại bàng chúa ơi!’ Mình có thể giúp cậu việc gì không, nói đi", chú bé kêu lên như thế.
Gorgo hầu như không nhìn chú nữa. Nó nói:
-   Đừng quấy rầy mình, Tí Hon! Mình đang mơ màng. Mình đang bay cao tít trên không kia. Mình không muốn bị đánh thức dậy.
-   Phải cử động lên chứ, và quan tâm đến những gì xảy ra chung quanh. Nếu không, chẳng mấy chốc cậu cũng sẽ có vẻ thảm hại như các con đại bàng kia vậy thôi. Nils khích lệ nó như vậy.
-   Mình muốn được như chúng nó. Chúng đã đi sâu vào mộng tưởng, đến mức chẳng còn cái gì có thể làm chúng động lòng được nữa, Gorgo đáp lại thế.
Đêm đến, trong khi các con đại bàng ngủ thì nghe có một tiếng động nhẹ trên mái chuồng. Hai con đại bàng già chẳng chút quan tâm, nhưng Gorgo liền tỉnh dậy. Nó hỏi:
-   Ai trên mái ấy?
 -  Tí Hon đây mà, Gorgo à. Mình đang giũa mấy sợi dây thép để cho cậu có thể bay đi.
Đại bàng [5] ngẩng đầu lên, và trong ánh đêm sáng trông thấy chú bé. Nó nảy ra chút hi vọng, nhưng tức khắc lại rã rời, tuyệt vọng như trước.
[5]  Đại bàng chúa là dòng giống đại bàng to lớn nhất trong tất cả các loài đại bàng.
-   Mình to lớn thế này, Tí Hon à, nó nói, cậu làm sao mà có thể giũa đủ dây thép cho mình ra lọt được? Tốt hơn là đừng nhọc sức, và cứ để mình ở đây thôi.
-   Ngủ đi! Đừng lo cho mình! Chú bé nói, không chịu ngã lòng. Mình sẽ giải phóng cậu trước khi cậu hoàn toàn là kẻ bị bỏ đi.
Gorgo lại đắm mình vào giấc ngủ; đến khi thức dậy thì thấy nhiều sợi dây đã bị giũa xong. Ngày hôm đó nó ít lịm đi hơn những hôm trước. Nó tập dượt đôi cánh một chút, bay bay giữa các cành cây để cho tứ chi đỡ cứng nhắc.
Một buổi sáng, đúng lúc ánh đầu tiên của bình minh vừa sáng lên dưới bầu trời, thì Tí Hon đánh thức nó dậy.
"Giờ hãy chui thử ra xem, Gorgo!"
Con đại bàng ngẩng đầu lên. Chú bé đã cắt được một lỗ to giữa lưới dây thép. Gorgo cử động đôi cánh, rồi ngã xuống trong chuồng, nhưng cuối cùng cũng gỡ mình ra được, và chui lên.
Hùng dũng, nó bay vút đến tận tầng mây. Chú bé Tí Hon nhìn theo, buồn man mác, những mong có ai đến trả lại tự do cả cho mình nữa. Chú nghĩ:
 -  Mình mà không bị ràng buộc vì lời hứa, thì mình tìm được ngay một con chim nào đó, để đưa mình về với đàn ngỗng quá đi chứ.
Có lẽ người ta sẽ ngạc nhiên vì Klement Larsson đã không trả lại tự do cho gia thần, nhưng phải nhớ rằng người nhạc công nhỏ nhắn kia, đầu óc đã rối loạn như thế nào, lúc rời bỏ vườn Skansen. Tuy vậy, sáng hôm ra đi, ông ta đã nghĩ đến gia thần; nhưng không may, ông ta không kiếm được một cái bát màu xanh. Và tất cả những ai ở Skansen: những người Lapps, những cô gái tỉnh lẻ, những người làm vườn và những người làm thợ, tất cả đều đến từ biệt ông ta. Lúc ra đi, vẫn chưa kiếm được một cái bát màu xanh, ông liền nhờ một người Lapps già giúp mình. Ông ta thổ lộ rằng: "Ở Skansen này có một gia thần. Sáng nào tôi cũng cho thần ăn. Bác cầm lấy mấy xu, mua hộ một cái bát màu xanh. Sáng mai bác xúc ít thức ăn vào, đem để dưới tam cấp cái nhà Bollnäs". Người Lapps có vẻ rất ngạc nhiên, nhưng Klement không đủ thì giờ giải thích dài, vì đã đến lúc phải ra ga.
Thế là người Lapps, quả có xuống dưới phố để thực hiện lời hứa với Klement, nhưng mà không kiếm ra một cái bát màu xanh; cho được việc, ông ta bèn mua một cái màu trắng, và sau đó cứ sáng sáng, chẳng sót buổi nào, xúc thức ăn vào, đem để ở chỗ Klement đã chỉ.
Làm sao Klement đã ra đi mà Nils còn bị giữ lại ở Skansen vì lời hứa của mình, việc như thế đấy.
Đêm hôm trước, chú bé khát khao tự do hơn bao giờ hết, vì mùa xuân và mùa hè đã đến thực sự rồi. Mặt đất đã xanh um, các cây dương, cây phong đã giương lên những tán lá mượt mà, các cây xori và nhiều cây khác đều nở hoa, các cây sồi cẩn thận mở ra những chiếc lá nho nhỏ, các thứ đậu và bắp cải mọc lên ở các luống trong vườn Skansen.
"Được ngao du trong bầu không khí ấm áp, trên lưng ngỗng đực, một ngày đẹp trời, và nhìn xuống mặt đất trang hoàng, tô điểm cỏ xanh với hoa thắm thì thích biết mấy!"
Ngồi trên nóc chuồng chim, chú nghĩ đến những điều đó thì bỗng đâu con đại bàng hạ xuống như một mũi tên, và đậu bên cạnh chú.
Nó nói rõ ý nó:
 -  Mình chỉ muốn thử xem đôi cánh còn sức nữa không. Cậu không tin là mình bỏ cậu lại trong cảnh giam cầm đấy chứ? Mình mong thế lắm. Leo lên lưng mình, và mình đưa cậu đến với các bạn đồng hành của cậu.
-   Không thể được, Nils thở dài nói. Mình đã hứa ở lại đây, cho đến khi người ta trả tự do cho mình.
-   Cậu nói gì vậy? Gorgo thốt lên. Người ta đã đưa cậu đến đây bằng vũ lực, rồi người ta ép buộc cậu phải hứa hẹn, thế mà cậu lại cho là phải buộc mình vào một lời hứa cưỡng bức như thế ư?
-   Mình cám ơn lòng tốt của cậu, nhưng mà lời hứa này mình phải giữ chứ. Cậu chẳng thể làm gì cho mình được đâu.
-   Mình không thể làm gì được à? Rồi ta sẽ thấy, Gorgo nói:
Đúng lúc ấy, nó tóm lấy Nils Holgersson với những cái móng khỏe mạnh của nó, mang chú bay vút lên tận tầng mây, và biến mất về phía bắc.
Chú thích :
[1] Miên liễu là một giống liễu ở xứ lạnh, mà cành non dùng để đan sọt và bện dây.
[2] Gà ở núi cao và lạnh thường có tuyết, nên chân cũng mọc đầy lông để chống rét, thịt rất ngon.
[3] Lemming là một con thú gặm nhấm ở xứ lạnh, rất nhiều ở Bắc Âu, gần giống con chuột đồng.
[4] Cá hương mình dài có lấm chấm, ở các sông hồ và vùng nước mặn của châu Au được xem là một món ăn quý.