Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Chương 13
Hai thành phố

Thành phố chìm dưới biển

     hứ bảy, 9 tháng tư 
 
Đêm sau yên tĩnh và quang đãng. Đàn ngỗng không mất công đi tìm một nơi trú trong các hang đá, mà ngủ ngay trên mặt cao nguyên. Nils nằm trên cỏ bên cạnh đàn.
Đêm trăng rất đẹp, đến nỗi Nils khó mà ngủ được. Chú tự hỏi là đã ở với đàn ngỗng bao lâu rồi, và tính ra là từ nhà ra đi đã ba tuần rồi. Chợt chú nhớ ra rằng ngày mai là lễ Phục sinh.
"Chính đêm nay, các mụ phù thủy từ Blâkulla về"[1] chú nghĩ thầm và cười; vì chú có hơi sợ ông thần sông và các gia thần.
một chút, nhưng chú không tin là có các mụ phụ thủy chút nào cả.
Giá có các mụ ấy ngoài trời tối nay, thì người ta đã trông thấy rồi.
Tất cả không gian được chiếu sáng đến mức có thể trông thấy một chấm đen bé nhất trên bầu trời.
Trong khi hếch mũi lên không mà nghĩ thế, thì chú bỗng thấy một cái gì đấy rất đẹp. Khuôn mặt trăng tròn trịa và đầy đặn đang ở rất cao trên trời, và ở trước khuôn trăng đang bay một con chim lớn. Nó không vượt khỏi khuôn trăng chút nào; có thể nói là nó từ trăng bay ra. Con chim trông toàn đen trên cái nền sáng, đôi cánh dang ra từ bên này sang bên kia khuôn trăng. Nó bay thành đường thẳng tắp đến nỗi trông như nó được vẽ lên trên cái hình tròn sáng kia. Thân hình nó nhỏ, cổ dài và mảnh; đôi chân thõng xuống, cũng rất dài và rất mành. Đó chỉ có thể là một con sếu.
Đó là ông Ermenrich. Sếu hạ xuống cạnh Nils và lấy mỏ đẩy chú để đánh thức chú. Nils nhổm dậy ngay. Chú nói:
"Tôi có ngủ đâu, ông Ermenrich. Làm sao mà ông lại ở ngoài trời đêm hôm khuya khoắt thế này? Ở Glimminge nay thế nào? Ông muốn nói chuyện với mẹ Akka chứ?"
"Đêm nay sáng quá, ngủ làm sao được," sếu trả lời. "Vì vậy ta đi một chuyến đến thăm cậu, bạn Tí Hon ạ. Một con chim âu bảo cho ta biết chỗ cậu ở. Ta chưa dọn về lại Glimminge. Chúng ta còn ở bên xứ Pommern."
Nils rất sung sướng được gặp lại ông Ermenrich. Họ nói chuyện với nhau như những bạn cố tri. Sau cùng ông Ermenrich đề nghị Nils bay một chuyến chơi trong cái đêm đẹp này.
Nils chẳng đời hỏi gì hơn, miễn là được trở về với đàn ngỗng vào lúc mặt trời mọc. Sếu hứa là sẽ đưa chú về kịp. Họ liền khởi hành. Ông Ermenrich bay thẳng về phía mặt trăng. Họ lên cao, lên cao, mặt biển trông như hạ xuống, nhưng bay nhẹ lạ thường đến nỗi người ta có cảm giác như đứng im mà nổi bềnh bồng trong không khí.
Đối với Nils, hình như họ mới chỉ bay có một chốc thôi, nhưng sếu đã hạ xuống đất rồi. Họ đổ bộ trên một bãi biển hoang vắng, phủ cát mịn và phẳng. Dọc bờ biển trải dài một dãy cồn cát di động, chóp phủ những túm cỏ mạch.[2]  Cồn không cao, nhưng đã ngăn không cho Nils nhìn thấy gì cả trong phía đất liền.
Ông Ermenrich đậu lên một ngọn cồn, co lại một chân, ngả cổ ra đằng sau để đút mỏ xuống dưới cánh và bảo Tí Hon: "Cậu có thể dạo chơi quanh đây một tí trong khi ta nghỉ, nhưng đừng đi xa quá để có thể dễ tìm lại ta."
Nils liền quyết leo lên một ngọn cồn để nhìn xem phong cảnh. Vừa đi một bước, chiếc giày gỗ của chú đã chạm phải một vật cứng. Chú cúi xuống và trông thấy trong cát một đồng tiền đồng nhỏ, bị gỉ đồng ăn mòn đến mức gần như nhìn suốt qua được. Đồng tiền xấu đến nỗi chú chẳng nghĩ cả đến việc nhặt lấy nữa, mà lấy đầu ngón chân đá đi.
Lúc ngẩng dậy, chú ngạc nhiên: cách chú hai bước dựng lên một bức thành ảm đạm có một cổng lớn giữa hai ngọn tháp.
Ở chỗ lúc nãy là biển mênh mông và phản chiếu ánh sáng long lanh thì giờ đây chạy dài một bức thành có những chỗ khuyết đặt súng, có nhiều tháp lớn, tháp nhỏ trang trí đẹp. Và trước mặt chú, ở nơi lúc nãy chỉ có một dải mỏng rong biển, giờ mở ra một cái cổng lớn.
Nils hiểu rằng đã có yêu thuật trong việc biến hóa này, nhưng chú chẳng chút sợ hãi. Cổng và thành đều đẹp tuyệt, khiến chú cứ muốn xem phía bên trong có những gì.
Dưới mái vòm sâu, những vệ sĩ mặc quần áo sặc sỡ, vai và ống tay bồng lên, đang đánh súc sắc, rìu trận dài để bên cạnh. Họ mải mê đánh và không để ý đến chú bé đang đi qua nhanh.
Bên kia cổng chú thấy một quảng trường, lát những phiến đá lớn. Khắp chung quanh mọc lên những nhà cao; giữa các nhà mở ra những đường phố hẹp và dài.
Trên quảng trường, người đông như kiến. Đàn ông mặc quần áo lụa, khoác áo dài viền lông thú, đầu đội nghiêng nghiêng những cái mũ cắm lông chim; ngực đeo lòng thòng những dây chuyền bằng vàng nặng. Tất cả đều đẹp như những vua chúa. Đàn bà đội những mũ rất cao và rất nhọn, hoặc những áo dài, tay hẹp. Họ ăn mặc rất đẹp, nhưng không lộng lẫy bằng đàn ông. Tất cả như hiện ra từ cuốn truyện cổ, mà trong những trường hợp rất hiếm, mẹ Nils mới lấy từ hòm của bà ra cho con xem. Chú không thể nào tin ở mắt mình nữa.
Nhưng chính cái thành phố còn kỳ diệu hơn các cư dân nữa. Mỗi ngôi nhà đều xây để cho bức tường đầu hồi trông ra đường phố. Mà các bức tường đều trang trí đẹp đến nỗi như ganh đua với nhau về vẻ tráng lệ. Khi mà người ta bỗng nhiên phát hiện ra bao nhiêu thứ lạ lùng, thì người ta khó mà nhớ được tất cả, nhưng về sau còn nhớ là có thấy những tường đầu hồi mà đá được đục thành hình răng, có tượng Chúa Cơ đốc và các vị sứ đồ [3] ở trên các bậc. Những đầu hồi khác phủ kín những tượng đặt trong những khám đục vào tường, những đầu hồi khác nữa thì trang trí những mảnh kính nhiều màu hay những đường thẳng và đường kẻ ô bằng cẩm thạch trắng và đen họp lại.
Vừa khâm phục các thứ tốt đẹp ấy, Nils vừa thấy lòng mình tựa hồ lo ngại. Chú nghĩ: "Chưa bao giờ mắt mình được thấy những thứ như thế, và không bao giờ mình còn được thấy lại những thứ như thế nữa". Rồi chú liền chạy vào phía trong thành phố, đi lên và đi xuống phố này đến phố khác.
Những phố ấy hẹp và thắt dần lại, nhưng không trống trải và buồn bã như phố xá của các thành phố mà chú đã biết. Khắp nơi đều tấp nập. những bà già kéo sợi trên các ngưỡng cửa. Họ không cần xa quay mà chỉ dùng đơn giản có một con cúi. Những
cửa hiệu và những quán hàng của người buôn bán trông ra phố như những sạp hàng ở các chợ phiên. Tất cả thợ thủ công đều làm việc ngoài trời. Chỗ này người ta ép dầu, chỗ kia thuộc da, xa một tí thấy có chỗ bện thừng. Giá mà Nils có thì giờ thì chú đã có thể học được tất cả mọi nghề. Những thợ vũ khí nện búa dát kim loại để làm những tấm che ngực mỏng ở áo giáp, những thợ kim hoàn khảm ngọc thạch vào nhẫn và vòng, những thợ giày đóng đế cho những chiếc giày mềm mại màu đỏ, những thợ kéo vàng xe dây vàng, những thợ dệt dệt lụa, thêu những chỉ vàng vào vải. Nhưng Nils không có thì giờ dừng lại. Chú chạy nhanh qua các phố để xem cho thật nhiều thứ trước khi tất cả biến đi.
Bức lũy cao bao quanh thành phố khắp mọi phía, vây kín thành phố như một hàng rào vây kín một cánh đồng; cứ đến mỗi đầu phố lại trông thấy bức lũy có nhiều tháp và quãng trống để đặt súng. Trên mặt lũy, quân lính mặc giáp sắt bóng lộn, đội mũ sắt, đang canh gác.
Đi suốt qua hết thành phố, Nils đến một cổng thứ hai. Bên kia cổng là biển và cảng. Những chiếc tàu kiểu cổ với những ghế dài cho các tay chèo ngồi, và những công trình cao dựng lên ở đằng mũi và đằng lái, đang bốc hay dỡ hàng. Khắp nơi hoạt động náo nhiệt lạ thường.
Nhưng Nils vẫn không chịu mất thì giờ dừng chân. Chú quay trở lại và chỉ một lát là đến một quảng trường lớn. Ở đấy mọc lên ngôi nhà thờ có ba ngọn tháp rất cao và những cửa vòm sâu hoắm trang trí nhiều tượng. Những người thợ đá đã chạm trổ các tường đẹp đến nỗi chỉ còn mỗi một phiến đá nào đó không được trau chuốt. Trước mặt là một ngôi nhà, trên có một ngọn tháp thanh thanh, vươn thẳng lên trời. Đó chắc là tòa thị chính. Ở giữa nhà thờ với tòa thị chính, chung quanh quảng trường, những nhà có tường đầu hồi đều trang trí đẹp tuyệt vời.
Nils bắt đầu mệt và nóng vì chạy nhiều. Chú nghĩ là đã được xem những thứ đẹp nhất đời. Vì thế chú liền đi thong thả hơn, vào một đường phố; ở đấy có lẽ dân thành phố đến mua những quần áo đẹp của họ, vì chú thấy rất đông người tấp nập trước các quầy bày hàng; những người bán hàng giở ra trước mặt khách hàng những lụa thêu cành lá, dày và cứng; những tấm hàng nặng, dệt sợi vàng, những nhung óng ánh, những the nhẹ tênh và những đăng ten thanh như to nhện.
Chú bé mà còn chạy nhanh qua các phố thì không ai để ý đến chú. Người ta có thể cho đó là một con chuột xám. Nhưng bây giờ chú đi thong thả, thì một người bán hàng trông thấy chú và liền ra hiệu cho chú.
Thoạt tiên chú bé sợ và muốn chạy trốn, nhưng người bán hàng gọi mãi và mỉm cười không thôi, lại trải ra một tấm lụa hoa Đama  [4] tuyệt đẹp như để nhử chú.
Nils lắc đầu. Chú nghĩ: "Mình thì chẳng bao giờ đủ tiền để mua lấy chỉ một mét thứ lụa ấy".
Giờ thì người ta trông thấy chú ở tất cả mọi cửa hàng trong phố ấy. Chú nhìn tới bất kỳ đâu là một người bán hàng ra hiệu gọi chú. Họ bỏ rơi những khách hàng giàu có của họ và chỉ quan tâm đến chú. Chú thấy họ chạy bổ đến những xó xỉnh sâu kín nhất trong cửa hàng của họ, và lấy ra những hàng quý nhất. Khi họ trải hàng ra mặt quầy thì tay họ run lên vì sốt sắng và vội vàng.
Nils làm bộ tiếp tục đi thì một người trong bọn họ lao ra phố, chạy theo chú, và đặt ngay xuống chân chú một tấm vải thêu chỉ bạc, và những tấm thảm long lanh những màu rực rỡ. Nils không thể không buồn cười. Người bán hàng lại tin rằng một kẻ nghèo rớt mồng tơi như chú mà có thể mua được những thứ như thế ư? Chú dừng lại và dang hai tay không ra, để làm cho người ta hiểu rằng chú chẳng có chút gì cả, và người ta phải để cho chú yên thân.
Người bán hàng không muốn biết gì hết. Ông ta giơ một ngón tay, gật đầu và đẩy về phía Nils tất cả đống của cải ấy.
"Có thể nào họ bán tất cả những thứ ấy chỉ lấy một đồng tiền vàng", Nils tự hỏi.
Người bán hàng rút trong ví ra một đồng tiền nhỏ, nhỏ đến mức cuối cùng, mòn hết, chẳng chút giá trị nào, và giơ cho Nils xem. Và vì ham bán được hàng quá, người ấy lại thêm vào đống hàng hai cái chén uống rượu to và nặng, bằng bạc.
Sững sờ, Nils liền lục lọi các túi của mình. Chú biết rất rõ là mình không có lấy một đồng tiền, nhưng chú không thể ngăn mình không xem lại có chắc thế không.
Tất cả những người bán hàng khác đều nghểnh cổ ra xem kết quả của cuộc vận động ấy. Vừa trông thấy chú bé lục lọi các túi, là cả họ nữa, họ cũng lao qua các quầy hàng; tay nắm đầy đồ trang sức bằng vàng, bằng bạc, họ đưa ra biếu chú. Và tất cả, họ làm cho chú hiểu là họ chỉ xin một đồng xu nhỏ trả giá mà thôi.
Nhưng chú bé phải lộn hết túi áo, túi quần ra để cho họ thấy là mình chẳng có gì hết. Thế là tất cả các thương nhân giàu có ấy, họ đều ròng ròng nước mắt vì thất vọng. Nils xúc động vì cảnh sầu khổ và vẻ mặt khắc khoải của họ quá chừng, chú liền moi óc tìm xem có cách nào giúp họ không. Bỗng chú sực nhớ đến đồng tiền bị gỉ đồng gặm mòn mà chú đã trông thấy trên bãi biển. Chú liền chạy đi, và cái may giúp chú; chú tìm ra cái cổng mà chú đã đi vào. Chú ra khỏi thành phố, đến lại bãi biển và bắt đầu tìm đồng xu nhỏ bằng đồng. Quả nhiên chú tìm thấy đồng xu, nhưng khi đã nhặt lên và muốn trở vào thành phố thì chú chỉ thấy có biển cả ở trước mặt. Chẳng chút thành lũy nào, chẳng tí cổng thành nào, chẳng có lính canh, chẳng phố xá, chẳng nhà cửa, chỉ có mặt biển mà thôi.
Chú bé không cầm được nước mắt.
Đúng lúc ấy, ông Ermenrich thức giấc và đến gần chú. Nils không nghe tiếng, và sếu phải lấy mỏ đẩy chú để bắt chú lưu ý. Sếu nói: "Ta tưởng cậu ngủ như ta?"
-   A! Ông Ermenrich! Nils kêu lên. Thành phố nào ở đây lúc nãy thế?
-   Cậu có thấy một thành phố à? Sếu hỏi. Cậu đã ngủ và nằm mơ, đúng như ta đã nói.
-   Không, tôi không nằm mơ, Nils quả quyết như vậy, và chú kể lại những gì chú đã trông thấy.
Ông Ermenrich nghe chú kể, rồi nói:
- Về phần ta, Tí Hon ạ, ta tưởng là cậu đã ngủ ở đây trên bãi biển và cậu đã nằm mơ. Nhưng ta không giấu gì cậu, Bataki, con quạ, là con chim thông thái nhất, một lần đã kể cho ta nghe rằng ngày xưa chắc là có ở bên bờ nước một thành phố tên là Vineta. Thành phố đó giàu có và sung sướng đến mức chưa bao giờ có đô thị nào lộng lẫy bằng. Không may cư dân trong thành đã lao mình vào cảnh xa hoa, kiêu bạc. Bị trừng phạt, thành phố Vineta có lẽ đã gặp một đợt sóng thần dữ dội phủ lên và biển nhấn chìm mất, Batakia cho là như vậy. Nhưng mà cư dân của Vineta không thể chết, và thành phố của họ cũng không biến mãi được. Cứ một trăm năm, trong một đêm, thành phố từ sóng biển hiện lên một lần với tất cả vẻ huy hoàng, và ở trên mặt đất trong một giờ.
-   Đúng, tất phải là đúng, Nils nói. Vì tôi đã trông thấy thành phố đó.
-   Nhưng một giờ qua rồi thì thành phố lại chìm xuống biển, trừ phi một người bán hàng ở Vineta đã bán được một vật gì cho một người sống. Giá cậu có một đồng tiền mọn nào đó để trả cho các người bán hàng, Tí Hon ạ, thì Vineta đã ở lại đây trên mặt đất, và cư dân của nó đã có thể sống và chết như tất cả mọi kẻ phù sinh khác rồi.
-  Ông Ermenrich ạ, Nils nói, giờ tôi hiểu tại sao ông đã đến tìm tôi vào nửa đêm. Là vì ông nghĩ rằng tôi có thể cứu thành phố cổ ấy. Tôi rất buồn vì dự định của ông đã không thực hiện được, ông Ermenrich ạ.
Chú lấy hai tay che mặt và bật lên khóc nức nở. Người ta không thể nói là ai có vẻ sầu khổ hơn ai, chú bé hay là ông Ermenrich.

Thành phố sống

Thứ hai, 11 tháng tư 
Ngày thứ hai lễ Phục sinh, đàn ngỗng trời và Tí Hon bay buổi tối trên đảo Gottland.
Hòn đảo lớn ở bên dưới phẳng lì, không chút mấp mô. Đất chia thành ô vuông như ở tỉnh Skâne, và cũng có nhiều nhà thờ và ấp trại. Nhưng ở đây những khu rừng nhỏ giữa các cánh đồng nhiều hơn. Tuy vậy chẳng đâu có những lâu đài với tháp cao và vườn rộng như ở Skâne.
Đàn ngỗng trời chọn con đường đi qua Gottland là vì Tí Hon. Từ hai hôm rồi, chú không còn như trước nữa, và không nói lấy một lời nào vui. Chú cứ mải nghĩ đến cái thành phố đã hiện ra trước mắt chú một cách huyền bí như thế. Chú chưa bao giờ được thấy cái gì đẹp đến thế, và chú buồn khổ vì không cứu được nó.
Akka và con ngỗng đực to cố thuyết phục Nils rằng chú đã là nạn nhân của một con mê hay một ào ảnh, nhưng không ăn thua, chú chẳng chịu nghe chút gì hết. Chú chắc chắn hết sức là đã thấy thực sự cái mà chú thấy! Không một ai có thể thuyết phục chú được. Chú cứ khăng khăng giữ nỗi buồn của mình, đến nỗi các bạn đường phải bắt đầu lo ngại.
Đúng lúc Nils buồn khổ nhất thì ngỗng mái già Kaksi trở về với đàn. Ngỗng bị bão đẩy ra Gottland và đã bay qua suốt bề rộng của đảo, cuối cùng được mấy con quạ cho biết là các bạn đang ở đảo Karl Nhỏ. Biết nguyên nhân nỗi buồn của Nils, ngỗng kêu lên:
-  Nếu Tí Hon tiếc thương một thành phố cổ thì chúng ta sẽ biết cách an ủi cậu, cứ đi và ta sẽ đưa các bạn đến một nơi mà ta đã trông thấy hôm qua. Rồi cậu ấy sẽ không buồn lâu nữa đâu.
Nói dứt lời, đàn ngỗng đã từ biệt đàn cừu và lên đường.
Thật là một buổi chiều đẹp và tĩnh. Tiết trời mùa xuân mát mẻ, cây cối nẩy những nụ to, hoa rụng phủ lên mặt đất trong rừng và ngoài nội. Những chùm hoa dài của các cây bạch dương phất phơ trước gió, và trong các khu vườn nhỏ, trước tất cả các ngôi nhà nhỏ, những cây phúc bồn đã xanh um.
Mùa xuân đến, và các nụ hoa đã nở gọi mọi người ra các sân và các đường cái, và đâu đâu người ta cũng vui chơi. Không những trẻ con mà cả người lớn cũng chơi những trò khéo tay, khéo chân. Người ta tập ném đá, người ta ném những quả bóng mạnh đến nỗi suýt trúng các con ngỗng. Xem những người lớn vui chơi thật là thích, và Nils đã rất vui thích nếu chú đã có thể quên được nỗi buồn vì chú không cứu nổi thành phố Vineta.
Tuy vậy, chú cũng phải công nhận rằng đây là một cuộc đi chơi rất thú. Không trung vang lừng tiếng hát. Trẻ con vừa múa vòng tròn vừa hát. Đạo quân Cứu thế [5] đã xuất hành. Nils thấy một đám đông người mặc quần áo đỏ và đen, ngồi trong một cánh rừng, đàn ghi-ta và thổi kèn đồng. Trên một con đường, những đám đông kéo đi, đó là những người Đoàn viên Giáo đường Tốt [6]trở về sau một cuộc du hành. Chú nhận ra họ nhờ lá cờ thêu chữ vàng của họ. Họ hát hết bài này đến bài khác, và chú mà còn có thể nghe thấy là họ chưa ngừng hát.
Từ ngày đó, không lúc nào nhớ đến Gottland mà đồng thời Nils không nghĩ đến những trò chơi và những bài hát ấy.
Nils nhìn xuống dưới một hồi lâu, bỗng chú ngước mắt lên. Ai mà có thể tả được nỗi ngạc nhiên của chú! Đàn ngỗng đã từ giã trung tâm hòn đảo và đang bay dọc bờ biển phía tây, mà Nils không hề biết. Biển xanh mênh mông trải ra trước mặt chú. Tuy vậy, làm chú ngạc nhiên không phải là biển một tí nào cả, mà là một thành phố ở bên bờ nước.
Nils từ phía đông bay sang và mặt trời đã bắt đầu lặn xuống bên phía tây. Khi chú đến gần thành phố ấy thì thành lũy, tháp cao, đầu hồi và nhà thờ toàn một màu đen, nổi hẳn lên trên nền trời sáng rực. Không thể nhìn thấy rõ những chi tiết, và đối với Nils thì thoạt tiên hình như đó là một thành phố giống hệt về vẻ lộng lẫy với thành phố chú đã trông thấy đêm lễ Phục sinh.
Khi đến sát, chú mới nhận thấy là thành phố này vừa giống thành phố từ biển hiện lên, lại vừa rất khác. Khác nhau như giữa một con người mà ta trông thấy một ngày nọ mặc toàn màu đỏ thắm [7] và đeo đầy đồ trang sức, rồi ngay hôm sau gặp lại thì rách mướp, trần trụi.
Tất nhiên là thành phố này phải giống thành phố mà chú đã nhớ lại. Nhưng mà những ngọn tháp của thành phố còn lại trên mặt đất này không có mái, trống không và bị bỏ phế. Các cửa không còn có cánh nữa, những người gác và quân lính đã biến đâu mất. Tất cả vẻ lộng lẫy xưa đều đã tiêu tan. Chỉ còn lại có bộ xương bằng đá trơ trụi, màu xám.
Khi Nils đến đúng trên thành phố, thì chú thấy phần lớn là những nhà thấp; giữa các nhà ấy còn lại lác đác vài hồi nhà cao và những nhà thờ cổ. Tường các đầu hồi quét vôi trắng và chẳng trang trí gì cả, nhưng Nils vừa trông thấy thành phố chìm dưới nước, tưởng như đã hiểu là những tường đó đã được trang trí như thế nào. Đối với các nhà thờ cũng thế. Phần lớn đều không có mái và trống không. Các cửa sổ toang hoác không có kính màu, cỏ mọc lên giữa các phiến đá lát và dây thường xuân leo dọc các bức tường. Nhưng mà Nils biết là các nhà thờ trước kia thế nào: đầy những tượng và tranh, gian hát kinh trang trí những bàn thờ và thánh giá mạ vàng, hai bên lăng xăng những mục sư mặc áo thêu vàng.
Chú bé cũng thấy những đường phố hẹp gần như trống trải, chiều tối ngày lễ này. Nhưng chú biết rằng bao nhiêu là người khỏe mạnh và kiêu hãnh ngày xưa đã qua lại ở đây. Chú biết rằng phố xá ấy đã như là những công xưởng to rộng, đông đúc thợ thuyền đủ mọi ngành nghề.
Nhưng cái mà Nils không thấy, ấy là thành phố ngày nay vẫn còn đẹp tuyệt. Chú không thấy cái duyên dáng của những chiếc nhà bé nhỏ đầy đủ tiện nghi ở những phố vắng, với những hoa phong lữ đỏ sau những tấm kính rực rỡ của các cửa sổ, cũng không thấy rất nhiều khu vườn có các lối đi được chăm sóc cẩn thận, cũng không thấy vẻ đẹp của các phế tích mà cây leo phủ lên từng tràng. Đôi mắt chú bị lóa vì vẻ tráng lệ của quá khứ, không thể tìm ra được chút gì tốt đẹp trong hiện tại.
Đàn ngỗng bay qua, bay lại hai ba lần trên thành phố, để cho Tí Hon có thể nhìn thỏa thích mọi thứ, rồi cuối cùng hạ xuống và thu xếp để trú đêm trên những phiến đá lát phủ kín cỏ của một ngôi nhà thờ hoang phế.
Ngỗng đã ngủ cả rồi, mà Tí Hon cứ còn nhìn mãi, qua các mái vòm đổ nát, nền trời màu hồng nhạt của buổi chiều hôm. Cuối cùng, chú tự nhủ là không nên sầu khổ vì đã không thể cứu được thành phố chìm dưới biển kia nữa.
Không, chú sẽ không sầu khổ nữa, bởi vì chú đã trông thấy thành phố này đây. Nếu thành phố kia mà không bị biển vùi lại lần nữa, thì có lẽ cuối cùng nó cũng phải suy tàn đi như thành phố này. Chắc rằng nó sẽ không thể chống lại thời gian và sự tàn phá. Chẳng bao lâu rồi cả nó nữa, nó cũng sẽ phơi bày ra những nhà thờ không mái và những nhà ở không trang hoàng và những phố xá trống rỗng, không sinh khí. Thà rằng nó cứ ở dưới vực thảm bí ẩn với tất cả vẻ huy hoàng nguyên vẹn, còn hơn.
Rất nhiều kẻ trong đám người trẻ tuổi đều nghĩ như Nils. Nhưng mà khi người ta về già, và đã quen vui lòng với cảnh đạm bạc thì người ta thích cái thành phố Visby [8] còn tồn tại hơn một thành phố Vineta xinh đẹp ở dưới đáy biển.
Chú thích :
[1] Theo một truyền thuyết rất cổ của người Thụy Điển thì đêm hôm trước lễ Phục sinh hàng năm, tất cả các mụ phù thủy khắp nước đều đến khai hội ở Blâkulla.
[2] Cỏ thuộc họ hòa thảo giống như lúa mì, mọc ở các cồn cát và giữ không cho cát bay.
[3] Sứ đồ là mười hai đồ đệ mà chúa Giê-su Co Đốc phái đi truyềnkinh Phúc âm.
[4] Lụa dệt hoa ở Đama, thủ đô nước Syria ngày nay, đã nổi tiếng đẹp từ nhiều thế kỉ, nên tiếng nhiều nước gọi hẳn lụa ấy là "Đama".
[5]Đạo quân Cứu thế là tổ chức theo kiểu quân đội của đạo Tin lành, hoạt động ở bảy mươi nước trên thế giới, đàn ông đàn bà mặc đồng phục để truyền đạo ngoài trời, thu nghĩa quyên để lập nhà đón nhận và nuôi ăn những người nghèo khổ, tìm cách hoàn lương gái giang hồ.
[6]Thành viên của một hội chống việc uống rượu.
[7] Màu đỏ thắm là màu riêng dành cho hàng vua chúa ở châu Âu ngày xưa.
[8] Visby là thủ phủ của Gottland, hòn đảo buôn bán lớn ở châu Au từ thế kỷ XII đến XV, được gọi là "vương hậu các biển phương Bắc", Visby được xây dựng từ thế kỷ XIII, tập trung những kho của cải rất lớn, ngày nay còn tìm được một phần; trong thời thịnh vượng có nhiều công trình xây dựng cực kỳ tráng lệ, nhất là những nhà thờ; đến thế kỷ XV thì bị chiến tranh và giặc cướp tàn phá, nay còn nhiều phế tích như đã tả ở đây, khiến cho Visby được gọi là "thành phố của phế tích và hoa hồng". Nổi tiếng ở Visby là bức thành đồ sộ bao quanh đô thị, dài hơn ba ki-lô-mét, cao tới mười mét, có bốn mươi tư cổng xây cao thành những ngọn tháp như được tả trong đoạn trước Thành phố dưới đáy biển, đó là bức thành cổ còn nguyên vẹn nhất ở Bắc Âu. Đoạn đó là bức tranh miêu tả Visby ngày xưa khi chưa bị tàn phá.