Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Chương 16
Bà lão nông dân

     hứ năm, 14 tháng tư 
Trời đã khuya mà ba kẻ lữ khách mệt mỏi đang ở ngoài trời, đi tìm một chỗ trú đêm. Họ đi qua một vùng nghèo khổ và hoang vắng của miền bắc tỉnh Smâland.
Và tất nhiên là họ phải tìm được một nơi nghỉ thích hợp, vì họ không phải là những kẻ sống ẻo lả trong nhung lụa, đời phải có những chiếc giường êm ấm và những buồng ngủ kín đáo.
Một kẻ nói: "Giá trong số các sống núi dài kia mà có một đỉnh nhọn đủ cao để cho một con cáo không thể leo lên được, thì ở đấy chúng ta sẽ yên ổn mà ngủ đêm".
-  Giá chỉ một trong các đầm lầy rộng kia mà đã tan băng đủ để cho một con cáo không dám liều thân ra đấy, thì đó sẽ là một nơi trú ẩn rất tốt - kẻ thứ hai nói.
-  Giá băng trên mặt một trong các chiếc hồ mà chúng ta đi qua mà đã rời ra khỏi bờ để cho một con cáo không thể với tới được, thì chúng ta sẽ tìm được cái mà ta cần - kẻ thứ ba nói.
Lại không may hơn nữa là mặt trời vừa lặn là hai trong các lữ khách đã hết sức khó mà chống lại được buồn ngủ, đến nỗi cứ mỗi lúc một suýt ngã xuống đất. Kẻ thứ ba có thể thức thì đêm càng khuya càng lo rằng: "Nguy quá, vì mình đến một miền mà hồ và đầm lầy đều còn đóng băng, và con cáo có thể đi qua khắp nơi. Ở những nơi khác băng đã tan, nhưng đây chúng mình lại ở miền cao tỉnh Smâland và mùa xuân chưa đến. Làm sao tìm được một chỗ ẩn chắc chắn? Mình mà chẳng tìm được chỗ nào thì trước khi trời sáng Smirre đã nhảy lên cổ mình rồi".
Kẻ ấy cố nhìn suốt qua bóng đêm, nhưng chẳng một chỗ nào thấy có chốn trú ngụ để đỗ xuống. Trời tối và buồn, có gió và mưa nhỏ hạt. Mỗi một lúc các lữ khách càng cảm thấy mỏi mệt thêm và càng hoảng sợ thêm.
Cuối cùng, đã muộn rồi khi không còn một vệt ánh sáng nào dưới gầm trời nữa thì họ đến một cái trại trơ trọi, rất xa tất cả các trại khác. Không những hẻo lánh, mà hình như hoang vắng nữa; chẳng chút khói nào từ lò sưởi bốc lên, các cửa sổ đều chẳng có ánh sáng và trong sân chẳng một ai nhúc nhích. Khi trông thấy cái nhà thì kẻ trong ba lữ khách có thể thức đêm kia nghĩ rằng: "Gì thì gì. Chúng mình phải xuống đây thôi. Chẳng kiếm ra chỗ nào hơn nữa đâu".
Chỉ lát sau là họ đã ở trong sân. Hai trong ba lữ khách, vừa có thể dừng lại là đã ngủ ngay, nhưng kẻ thứ ba đưa mắt tìm một chỗ trú. Cái trại này không nhỏ. Ngoài khu nhà ở, chuồng ngựa và chuồng bò, còn có những vựa thóc rộng, những sân phơi, những nhà xe và những kho đồ vật. Nhưng mà mọi thứ đều có vẻ khổ sở và đổ nát. Các tường nhà xám xịt, địa y gậm nát, ngả nghiêng như sắp đổ. Các mái nhà để lộ những lỗ thủng toang hoác, và các cánh cửa nằm tréo ngang lủng lẳng ở những bản lề gãy. Rõ ràng là đã nhiều năm rồi chẳng ai còn đóng một cái đinh vào tường để giữ cho những nhà cửa kia khỏi xiêu vẹo.
Nhưng mà kẻ lữ khách không ngủ đã ước xem chuồng bò ở đâu. Nó lay các bạn dậy và dẫn họ đến đấy. Cửa chỉ cài then, dùng một cái gậy là mở ra được. Nó đã thở dài một cái như trút được gánh nặng. Nhưng đúng lúc cánh cửa quay, với một tiếng rít ken két, thì một con bò cái kêu lên từ cuối chuồng. Bò nói: "Giờ bà mới đến đấy à, bà chủ? Tôi tưởng là bà định không cho tôi ăn tối nay".
Ba kẻ lữ khách đứng khựng lại khi thấy không phải là chuồng bò bỏ trống, nhưng lúc nhận ra rằng ở đấy chỉ có mỗi một con bò cái và ba hay bốn con gà, thì họ bạo dạn trở lại. Một trong ba lữ khách nói:
-   Chúng tôi là ba lữ khách tội nghiệp muốn tìm một chỗ trú đêm, mà ở đó con cáo không thể tấn công chúng tôi, và loài người không bắt lấy chúng tôi. Ở đây chúng tôi không được như thế à?
-   Tôi nghĩ là được đấy, bò cái trả lời. Các bức tường đều hỏng cả, nhưng dầu sao, thì cũng không phải là con cáo đã có thể đi xuyên qua được, và trại này thì chỉ có một bà già thôi, mà bà ta thì chẳng có thể bắt bất cứ một ai được. Nhưng mà các bạn là ai? Bò nói tiếp và quay lại để cố nhìn xem các vị khách.
-   Tôi là Nils Holgersson ở Vemmenhưg, đã bị biến thành gia thần, kẻ đi vào đầu tiên trả lời. Tôi đem theo một con ngỗng nhà để cưỡi và một ngỗng xám.
-   Đây là lần đầu tiên tôi được tiếp những khách danh tiếng như thế này, bò cái nói. Tôi xin chúc mừng các vị, dù có lẽ là tôi đã mong bà chủ tôi đến mang cho tôi cái ăn bữa tối hơn.
Chú bé đẩy các con ngỗng vào chuồng bò và đặt nằm trong một cái máng ăn bỏ không. Ở đó chúng lại ngủ ngay tức khắc. Rồi thì chú vun cho mình một ổ rơm nhỏ và sửa soạn làm theo các bạn.
Nhưng chú chẳng làm thế được, vì con bò cái đáng thương chưa được ăn bữa tối, đâu có chịu đứng yên lấy một lát. Nó lắc lắc cái dây xích, giậm chân trong cái khoang của nó và kêu là đói. Nils không thể chợp mắt được, hồi tưởng lại tất cả những gì đã xảy ra cho chú trong mấy ngày qua.
Chú nghĩ đến Âsa, cô bé chăn ngỗng, và đến bé Mats, mà chú đã gặp một cách bất ngờ đến thế. Chú hiểu rằng chiếc nhà nhỏ mà chú đã làm cháy chính là nhà cũ của chúng nó ở Smâland. Chú nhớ là đã nghe chúng nó nói đến một chiếc nhà nhỏ ở ven một cái truông. Âsa và Mats đã đến thăm nhà cũ của chúng và vừa đến là chúng đã thấy nhà cháy. Chắc chắn là Nils đã làm cho chúng buồn lắm. Chú ngao ngán quá, và quyết tâm nếu may mắn chú trở lại làm người, thì sẽ cố gắng đền bù lại cho chúng hết sức mình.
Rồi chú lại nghĩ đến lũ quạ và đến Fumle-Drumle đã cứu chú, nhưng bị giết chết ngay sau khi vừa được bầu làm thủ lĩnh. Nghĩ mà ứa nước mắt.
Đúng, chú đã đau khổ mấy ngày vừa qua. Và may mà ngỗng đực và Lông Tơ Mịn đã tìm được chú. Ngỗng đực đã kể lại là vừa thấy Tí Hon biến mất, đàn ngỗng trời liền đi hỏi các vật nhỏ trong rừng về số phận của chú. Như vậy họ biết được rằng một lũ quạ tỉnh Smâland đã bắt cóc chú. Nhưng chẳng ai biết lũ quạ đã đi về phía nào. Akka liền lệnh cho đàn ngỗng phân tán ra, cứ từng đôi một đi tìm chú, Akka lại hẹn là sau hai ngày tìm tòi, dù có thấy hay không, cũng phải đến gặp nhau ở mạn tây bắc tỉnh Smâland, trên đỉnh một ngọn núi nom giống như cái tháp bị phá, ngọn Taberg. Sau khi chỉ dẫn cho họ tường tận cách tìm đến ngọn núi ấy, Akka chúc may mắn, và họ chia tay nhau.
Ngỗng đực đã chọn Lông Tơ Mịn làm bạn đồng hành và lên đường, lòng rất lo ngại. Đi lang thang không có cái gì làm đích, chúng nghe một con sáo, đậu trên chóp một cái cây, kêu và rủa kẻ nào đó xưng tên là Bị-quạ-bắt-trộm, đã chế giễu nó quá đáng. Ngỗng đực và Lông Tơ Mịn đã bắt chuyện với con sáo, và được biết là kẻ Bị-quạ-bắt-trộm đó đã đi về phía nào. Xa ít nữa, chúng đã gặp một con chim gáy, một con sẻ đá, và sau hết một con vịt trời, tất cả đều phàn nàn về một kẻ bất lương đã ngắt bài hát của chúng và làm chúng hoảng sợ tên là Bị-quạ-bắt, Bị-quạ-cướp-đi, Tù-nhân- của-lũ-quạ, cứ thế, chúng đã lần theo dấu vết của Tí Hon đến tận cái truông trong xã Sonnerbo.
Ngỗng đực và Lông Tơ Mịn tìm lại được Tí Hon, là tức khắc lên đường đi Taberg để đến với đàn ngỗng trời. Đường bay xa lắm, và gặp phải đêm tối. "Nhưng mà ngày mai, về với đàn ngỗng là phiền muộn sẽ tiêu tan hết", Nils vừa chui vào ổ rơm cho ấm vừa nghĩ vậy.
Con bò cái đã thôi vùng vẫy.
Bỗng nó cất tiếng nói vớt chú bé.
-   Hình như một trong các vị, khi vào đây, có nói với tôi rằng mình là gia thần. Nếu có thế thì chắc là vị ấy phải biết săn sóc một con bò cái.
-   Thế bò thiếu cái gì? Nils hỏi.
-   Tôi thiếu đủ mọi thứ, bò cái đáp. Người ta không vắt sữa, cũng không chải lông cho tôi. Rơm cũng không trải cho tôi nằm, và người ta cũng không đem cỏ cho tôi ăn bữa tối. Bà chủ tôi có đến một lát lúc hoàng hôn săn sóc tôi, nhưng bà thấy mình ốm quá và lại đi ra, sau đó bà không trở lại nữa.
- Tôi lấy làm tiếc là mình bé nhỏ và yếu đuối như thế này. Tôi không tin là có thể giúp được bò, chú bé nói.
-   Thần không làm cho tôi tin được là thần yếu đuối, dù thần có bé nhỏ, bò cái đáp lại. Tất cả các gia thần mà tôi đã nghe nói đều khỏe đến mức một mình kéo cả một xe cỏ khô, và đâm một cái là chết một con bò đực.
Nils không thể không cười được. Chú nói:
-   Đó là những yêu lùn thuộc một loài khác tôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là tháo xích và mở cửa chuồng cho bò. Như thế bò có thể ra sân uống nước. Trước đó, tôi sẽ leo lên chỗ để cỏ khô và cố ném một ít xuống máng cho bò ăn.
-   Thế cũng được, bò cái nói.
Nils làm như đã nói, và khi mà bò đã được yên vị trước máng ăn đầy cỏ, thì chú nghĩ là có thể ngủ được rồi. Nhưng chú vừa chui xuống ổ rơm là bò lại nói:
-   Tôi chắc làm phiền thần, nếu tôi xin thần một điều nữa.
-   Không phiền gì, nếu tôi có thể làm bò vui lòng.
-   Tôi muốn nhờ thần vào cái nhà trước mặt, xem bà chủ ốm thế nào. Tôi sợ có điều bất hạnh xảy đến cho bà.
-   Không thể được. Tôi không dám ra mắt loài người, chú bé đáp.
-   Nhưng mà thần sợ gì một bà lão ốm đau? Bò nói. Vả lại, cũng chẳng cần vào nhà, thần chỉ việc nhìn qua khe cửa.
-   Nếu chỉ có thế thì tôi không thể từ chối không giúp bò, sau cùng chú bé bằng lòng như vậy.
Chú dậy và ra sân. Đêm tối thật khủng khiếp, không trăng, không sao, gió rít và gầm, và mưa rơi tầm tã. Ghê gớm nhất là tám con cú xếp thành hàng, đứng cạnh nhau trên nóc nhà. Tiếng rúc của chúng, tiếng chúng than phiền về thời tiết nghe thật hung gở, và Nils tự nhủ rằng một con trong bọn chúng mà trông thấy chú thì thế là chú đi đời.
"Khốn khổ cho ai bé bỏng!". Chú bé vừa than thở vừa liều mình đi ra ngoài. Chú nói thật không sai. Hai lần gió quật chú ngã, trước khi chú đến được ngôi nhà, và chú bị xô nhào xuống một vũng nước sâu đến nỗi thiếu tí nữa thì chết đuối. Tuy vậy chú vẫn đến đích.
Chú leo lên mấy bậc thềm, khó nhọc trèo qua ngưỡng cửa và bước vào phòng áo.[1]Cửa gian bếp đóng kín, nhưng một góc phía dưới có khoét một lỗ cho con mèo nhà chui qua, chui lại. Thế là Nils chẳng khó nhọc gì mà không nhìn vào gian phòng được.
Vừa ghé mắt nhìn vào, chú giật mình và vội rụt đầu lại. Một bà lão tóc bạc nằm sóng soài dưới đất. Bà không nhúc nhích, cũng không rên siết. Mặt bà sáng lên, trắng một cách dị thường. Có thể nói là được ánh sáng bàng bạc của một mảnh trăng vô hình chiếu vào.
Nils nhớ rằng ông mình khi chết cũng có khuôn mặt trắng cái màu lạ thường ấy. Và chú hiểu rằng bà lão nằm dưới sàn kia đã chết rồi. Cái chết chắc đã đến bất ngờ làm bà không kịp nằm xuống giường.
Chú sợ quá khi nghĩ đến cái cảnh phải ở một mình trong đêm tối với một người chết. Chú lao vội xuống thềm nhà và chạy cuống cuồng về chuồng bò.
Chú kể cho bò cái nghe những gì chú trông thấy trong nhà. Bò ngừng lại không ăn cỏ nữa. Thở dài bò nói:
-   À! Bà chủ, bà mất rồi. Thế là chẳng bao lâu lại đến lượt tôi.
-   Thế nào cũng có ai đó chăm sóc bò chứ. Nils nói để cố an ủi bò
 -   Thần không biết rằng tuổi tôi đã gấp đôi tuổi những bò cái mà người ta thường đem làm thịt, bò đáp lại. Vả lại bây giờ bà chủ tôi không còn đến săn sóc tôi nữa thì tôi cũng chẳng thiết sống làm gì.
Bò lặng yên một lát, nhưng Nils thấy là bò không ngủ cũng không ăn. Rồi bò lại tiếp tục câu chuyện.
-   Thần bảo là bà nằm trên sàn nhà không chăn đệm gì à?
- Vâng, Nils đáp.
-  Bà có thói quen thường đến đây, trong chuồng này, nói với tôi về những sự đã làm bà buồn phiền. Tôi hiểu rõ những điều bà nói, dù tôi không thể nào trả lời bà được.[2] Mấy hôm nay bà nói là bà sợ phải nằm một mình khi bà mất. Bà sợ không có ai đến vuốt mắt cho bà, và để hai tay bà khoanh lại trước ngực sau khi bà mất. Hay là thần có muốn làm giúp không?
Nils do dự: chú nhớ rằng khi ông chú chết, mẹ chú đã hết sức thận trọng đặt ông nằm theo đúng lễ thức. Chú biết rằng đó là một việc phải làm. Nhưng mà chú lại tự thấy là không thể nào lại vào bên cạnh người chết được. Chú không vâng cũng không không, nhưng không bước lấy một bước ra phía cửa.
Bò cái già lặng thinh một lúc, như chờ một câu trả lời. Chẳng nghe thấy gì, bò không nhắc lại lời cầu xin, nhưng bắt đầu nói chuyện bà chủ mình.
Bò có nhiều chuyện để nói lắm. Trước hết nói đến tất cả các đứa con mà người chết đã nuôi nấng. Ngày nào họ cũng vào chuồng bò và mùa hè đưa bò đi ăn trên các bãi lầy và đồng cỏ, cho nên bò cái giờ này rất quen họ. Tất cả họ đều rất tốt, vui vẻ, và chăm làm. Một con bò cái hiểu những người chăn nó giá trị như thế nào lắm.
Bò lại còn có bao nhiêu chuyện để kể về cái trại. Dinh cơ này xưa đâu có nghèo như giờ đây. Đất rộng lắm. Phần lớn là đầm lầy, rừng cây và bãi cỏ lẫn đá. Không nhiều cánh đồng để trồng lúa mì, nhưng khắp nơi là những bãi cỏ tốt. Đã có thời mà không một máng ăn nào bỏ trống, và chuồng bò giờ đây bỏ hoang, đã chật những con vật rất đẹp. Chỗ nào cũng vui vẻ và năng nổ. Khi bà chủ đến chuồng bò, bà khe khẽ hát, rồi hát to, và tất cả các bò cái kêu lên vì vui mừng khi nghe tiếng chân bà đến.
Nhưng ông chủ chết, lúc các con đều còn nhỏ và chưa thể làm gì hết, thế là bà chủ đảm đang phải gánh vác cái trại, gánh vác tất cả công việc, và tất cả những mối lo âu. Bà khỏe như đàn ông, và bà đi cày, đi gặt. Buổi tối, đến vắt sữa các bò cái, lắm khi mệt quá bà khóc. Nhưng chỉ nghĩ đến đàn con là đủ để cho bà can đảm trở lại. Bỗng nhiên, quên hết lo phiền, bà lau nước mắt, lắc mình cho hết buồn ngủ và lẩm bẩm: "Thôi kệ. Đến lúc đám trẻ lớn lên thì cả mình nữa, mình cũng được thảnh thơi. À, đến lúc chúng lớn lên..."
Nhưng mà khi các con bà đã lớn, thì thế là một nỗi buồn nhớ lạ lùng xâm chiếm lấy tâm hồn họ. Họ không muốn ở nhà, họ muốn đi ra nước ngoài. Mẹ họ chẳng bao giờ được họ giúp đỡ chút gì. Vài người trong bọn họ lấy vợ lấy chồng rồi mới ra đi, họ để con họ lại nhà. Lại đến lượt những đứa trẻ ấy theo bà chủ chúng tôi vào chuồng bò như chính những đứa con bà trước kia. Chúng đưa bò đi ăn và cũng trở nên những kẻ trung hậu và giỏi giang. Và buổi tối, trong khi vắt sữa các bò cái, gần như ngủ thiếp đi vì mệt, bà chủ chúng tôi lấy lại sức bằng cách nghĩ đến chúng nó: "Mình nữa, mình cũng sẽ được thảnh thơi. Khi chúng nó lớn lên", bà vừa nói vừa lắc lắc mình.
Nhưng, thế là những đứa trẻ ấy, một khi khôn lớn, lại đi theo bố mẹ chúng ở đất khách quê người. Chẳng một ai trở lại, chẳng một ai ở lại. Chỉ bà chủ nhà ở lại trại một mình.
Bà chẳng bao giờ yêu cầu một ai trong bọn họ ở lại nhà. "Thế nào, con Lông Hung à, mày nghĩ rằng ta lại bảo chúng nó ở với ta, trong khi chúng có thể tiến thủ ở bên đó hay sao? Ở đây, ở tỉnh Smâland này, chúng chỉ có thể hy vọng cảnh nghèo khổ mà thôi", bà nói với bò cái già như vậy.
Nhưng mà khi đứa cháu cuối cùng của bà đã ra đi, là bà chủ chúng tôi liền quỵ xuống. Trông bà bỗng nhiên còng lưng và bạc đầu, bà lảo đảo tưởng chừng không thể bước đi được nữa, và bà thôi làm lụng. Bà không trông nom cái trại nữa, bà để nhà cửa tả tơi, bà bán gia súc đi, chỉ giữ lại có con bò cái già nhất. Bà để cho nó sống, bởi vì tất cả các con bà đều đã lần lượt chăn dắt nó.
Bà có thể thuê đàn ông, đàn bà đến làm, nhưng mà trông thấy những người lạ quanh bà, trong khi con cháu bà đã bỏ bà mà đi, điều đó bà không chịu nổi. Cái trại có hoang phế đi thì cũng cần gì, bởi vì hết đời bà còn có một đứa con nào của bà sẽ nhận lấy nữa đâu.
Các con bà thường viết thư khẩn khoản mời bà đến với họ, nhưng bà không chịu. Bà không muốn trông thấy cái nước đã cướp các con của bà.
Bà chỉ nghĩ đến đám con, và nghĩ rằng họ phải ra đi để kiếm miếng ăn. Mùa hè đến, bà dắt bò cái ra bãi cỏ trong đầm lầy lớn. Chính bà ngồi suốt ngày bên bờ đầm, hai tay khoanh trên đầu gối, và chiều về bà nhắc lại những ý nghĩ của bà như sau:
-  Thấy không, Lông Hung, giá ỏ đây mà có những cánh đồng màu mỡ chỗ cái bãi lầy rộng lớn mà người ta không thể trồng trọt được ấy, thì chúng đã không cần gì mà phải ra đi.
Bà tức giận cái đầm lầy vì nó lan ra xa đến thế, và không dùng được vào một việc gì hết cả. Bà lẩm bẩm rủa nó, buộc tội nó đã là nguyên nhân làm cho các con bà bỏ nhà ra đi.
Buổi tối cuối cùng này, bà hình như yếu đuối và lẩy bẩy hơn bao giờ hết. Bà không thể vắt xong sữa cho con Lông Hung nữa. Bà đã đứng tựa vào cái máng ăn một hồi, và đã nói chuyện với hai người nông dân đến gặp bà để hỏi mua cái đầm lầy. Họ tính tiêu nước cho nó, gieo hạt vào đó, và gặt hái được mùa màng ở đó. "Mày nghe chưa, Lông Hung, mày nghe chưa, họ nói là lõa mạch có thể mọc lên trên đầm lầy. Ta sẽ viết thư ngay lập tức cho con cháu ta để chúng nó trở về. Chúng chẳng cần ở lại nước ngoài làm gì nữa. Chúng sẽ kiếm được miếng ăn ở đây, tại nhà này".
Để viết thư bà đã đi vào nhà...
Chú bé không nghe thêm bò cái kể nữa. Chú đã mở cửa chuồng bò, và đã lên lại nhà trên, đến với người chết. Chú đứng một hồi trên ngưỡng cửa, nhìn tất cả mọi vật một lượt. Cái nhà không nghèo như người ta tưởng. Có rất nhiều đồ đạc mà người ta thường thấy ở nhà những người có bà con ở bên Mỹ. Trong một góc có một chiếc ghế "xích đu" Mỹ; cái bàn trước cửa sổ có trải một tấm vải nhung lông dài; giường phủ một chiếc đệm thêu đẹp; trên tường treo những ảnh của các con và cháu bà lão, lồng trong những khung thép vàng đẹp. Trên cái hòm lớn bày những bình to và một đôi chân đèn cắm những cây nến màu dài.
Nils tìm diêm và thắp nến, không phải vì chẳng trông thấy gì, mà vì đối với chú hình như thế là một cách tôn trọng người chết.
Rồi chú đến gần bà lão, vuốt mắt cho bà, khoanh hai tay bà lại trước ngực, và rẽ các mớ tóc bạc thưa thớt lòa xòa trước trán bà.
Chú không hề nghĩ cả đến việc sợ bà nữa. Nghĩ đến việc bà đã sống tuổi già cô quạnh và buồn bã, lòng chú xót xa sâu sắc. ít ra là chú sẽ túc trực đêm nay bên cạnh thi hài bà.
Chú tìm tập Thánh thi [3] ngồi xuống và đọc khe khẽ. Nhưng đến giữa chừng chú ngừng lại, vì bỗng chú chợt nghĩ đến bố mẹ mình.
[3] Tập Thánh thi là sưu tập những bài thơ ở trong Kinh thánh của đạo Cơ đốc, thường đọc trong các lễ tạ của nhà thờ.
Ra bố mẹ có thể nhớ thương con cái đến thế! Ra cuộc đời đối với họ hình như đã hết khi con cái bỏ ra đi! Giá ở nhà chú, bố chú và mẹ chú nhớ chú bằng bà lão này đã tiếc nhớ con bà! Ý nghĩ ấy làm chú sung sướng, nhưng mà chú không dám nghĩ thế lâu nữa. Chú đã ăn ở phải chăng được chút nào đâu để cho bất cứ ai cũng có thể tiếc thương chú.
Chú chưa được như thế, nhưng mà rồi có lẽ chú sẽ được. Khắp chung quanh chú, chú trông thấy chân dung của những người vắng mặt. Đó là những người đàn ông cao lớn, khỏe mạnh và những người đàn bà có bộ mặt trang nghiêm. Đó là những cô dâu trùm khăn voan dài và những ông mặc áo đen dài đi phố, và đó là những trẻ con tóc uốn xoăn, mặc những áo dài trắng đẹp. Và Nils thấy hình như tất cả, họ nhìn chằm chằm trong không, với những đôi mắt người mù không muốn thấy.
"Những kẻ khốn khổ!" Nils nói với các bức chân dung. "Mẹ của các người đã chết. Các người không thể nào chuộc lại cái tội đã ra đi xa mẹ. Nhưng mẹ ta, mẹ của ta, bà đang sống!"
Chú ngừng lại, gật đầu và mỉm cưòi. Chú nhắc lại: "Mẹ ta còn sống! Bố ta và mẹ ta, cả hai đều còn sống
Chú thích:
[1] Phòng đầu tiên trước khi bước vào các phòng khác ở ngoài,
[2] Vì bà không hiểu tiếng nói của loài vật.
[3] Tập Thánh thi là sưu tập những bài thơ ở trong Kinh thánh của đạo Cơ đốc, thường đọc trong các lễ tạ của nhà thờ.