TỰ THUẬT
Đình hưu vách mảy lại ngâm nga,
Tức cảnh câu thi Tết gọi là.
Khoe cánh tìm hương con bướm liệng,
Vui lòng rủ bạn tiếng oanh ca.
Ngành cây cổ thụ đương xây lá,
Ngọn bút tao đàn cứ trổ hoa,
Thưa rằng : Nay đã tám mươi ba.
Xuân Kỷ Hợi 1959
oOo
TIẾT TRÙNG DƯƠNG NĂM ĐINH MÃO
Ở HÀ TỊNH
Xa ngái nhau chi mấy dặm trường,
Gió mưa thêm chạnh tiết Trùng Dương.
Hoa lau trổ bạc đầu phơi tuyết,
Đoá cúc phai vàng mặt giải sương.
Trăm giận, nghìn thương câu cảm tác,
Một say, mười tỉnh chén tha hương.
Non Hồng thử dạo lên cho đến,
Bẻ nhánh thù du giữ lấy hương.
1928
ĐƯỜNG NA - BẸ
Trải khắp non sông một tỉnh nầy,
Ngả đường Na -Bẹ mới qua đây.
Trước sao cả núi, sau đều núi !
Trên những là cây, dưới cũng cây !
Năm động bảy đèo lên với xuống.
Trăm khe ngàn suối chuyển rồi xây.
Cõi Lào, đất Việt, phương Đông Á,
Mà bản phân cương viết chữ Tây !
1929
BUỔI CHIỀU ĐI DẠO BỜ SÔNG, TỨC CẢNH
Cám thương danh lợi cả hai thằng,
Kẻ chống người chèo bộ xí – xăng.
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.
Chim khôn nhát bẫy nhìn không đậu,
Cá dại ham mồi thấy phải ăn.
Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi.
Ông chài lơ lửng có nghe chăng !
1933
CẢM HỨNG
Thế giới ba ngàn vậy ở đâu ?
Họa đồ trông thấy chỉ năm Châu.
Gió mây xáo lộn tuồng thiên diễn,
Sông núi in nguy quả địa cầu.
Nước biển no lòng con chuột lúi,
Cây rừng dựa tổ cái chim sâu,
Có chi chi cũng quyền ông Tạo,
Ai dại chi mà khóc bễ dâu !
1940
DẠO CHƠI TRONG VƯỜN, TỨC CẢNH
Xởn gió sưa mưa buổi tạnh trời,
Dạo quanh vườn cũ ngắm thu chơi.
Máy thắm phù dung lụy nhỏ rơi.
Xây tổ bầy ong đương rủ bạn,
Liệng vành con bướm vẫn trêu ngươi.
Tình nầy, cảnh ấy, khi hiu quạnh,
Khói lửa xa xa nhớ cuộc đời.
1940