PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 1

     hời gian chết, nếu nó cứ qua đi theo tiếng tích tắc của những bánh xe bé tí; chỉ khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, thời gian mới tồn tại.
WILLIAM FAULKNER
“Mất bao lâu bọn chúng mới chết nhỉ?”
Gã đàn ông được hỏi câu đó có vẻ như không nghe thấy câu hoi. Gã lại nhìn gương chiếu hậu và tập trung lái xe. Vừa qua nửa đêm, các con phố khu Hạ Manhattan đã đóng băng. Một frông[1] khí lạnh lẽo quét quang đãng bầu trời, thổi cho những bông tuyết rơi lúc trước kết thành một lớp bóng láng trên mặt đường nhựa. Hai gã đàn ông đang ngồi trong chiếc Band-Aid-di động[2] chạy rất tít – đó là cách Vincent Láu gọi chiếc SUV màu nâu vàng. Nó chạy đã mấy năm, đã đến lúc cần kiểm tra phanh và thay lốp. Nhưng mang một chiếc xe ăn cắp đi bảo dưỡng đâu phải ý tưởng không ngoan, nhất là khi hai hành khách mới đây của nó lại là hai nạn nhân của một vụ án mạng.
Tay tài xế - vóc dáng rắn chắc ở tuổi năm mươi, với mái tóc cắt gọn gàng – cẩn thận rẽ vào một con phố phụ và tiếp xúc cuộc hành trình, không tăng tốc, thực hiện những lần cua xe chính xác, giữ cho xe chạy chính giữa làn đường của mình. Gã sẽ lái xe y như thế, dù cho các con phố có khô khao hay trơn trượt, dù cho chiếc xe có vừa dính dáng đến án mạng hay chẳng hề gì.
Cẩn thận, tỉ mỉ.
Mất bao lâu?
Vincent Bự – Vincent với những ngón tay dài, mập mạp, lúc nào cũng ướt át, và chiếc thắt lưng màu nâu kéo ra đến nấc cuối cùng vẫn chật căng quanh bụng – run lập cập. Gã đã phải đứng đợi nơi góc phố sau ca làm ban đêm của mình – một nhân viên xử lý văn bản. Trời lạnh thấu xương, nhưng Vincent không thích dãy hành lang nơi gã làm việc. Ánh đèn thì xanh nhợt nhạt và các bức tường gắn những tấm gương lớn khiến gã có thể tự soi lấy tấm thân hình chum từ mọi góc độ. Vì thế mà gã đã bước ra bầu không khí tháng Mười hai giá lạnh, thoáng đãng, đi tới đi lui, chén một thanh kẹo. Chà, chén luôn hai thanh.
Khi Vincent đang liếc nhìn lên mặt trăng tròn vành vạnh – chiếc đĩa trắng toát hiện ra chốc lát giữa hai tòa nhà – Thợ Đồng Hồ nói to ý nghĩ của mình: “Mất bao lâu bọn chúng mới chết nhỉ? Thật thú vị”.
Vincent chỉ vừa quen Thợ Đồng Hồ – tên thật là Gerald Duncan – nhưng gã đã biết rằng người nào đặt ra cho Duncan một câu hỏi là người ấy phải gánh lấy mọi bất trắc. Thậm chí một câu hỏi đơn giản cũng có thể mở cánh cửa vào một mạch độc thoại dài dằng dặc. Và gã trả lời lúc nào cũng đâu ra đấy, hệt như một vị giáo sư đại học. Vincent biết rằng mấy phút im lặng nãy giờ là do Duncan đang cân nhắc câu trả lời.
Vincent bật nắp một lon Pepsi. Gã thấy lạnh nhưng muốn thứ gì đó ngòn ngọt. Gã uống ừng ực rồi đút cái vỏ lon vào túi áo khoác. Gã chén một gói bích quy bơ lạc. Duncan nhìn sang để chắc chắn rằng Vincent đang đeo găng tay. Bọn gã luôn luôn đeo găng tay trong chiếc Band-Aid-di động.
Thận trọng, tỉ mỉ…
“Theo tao thì câu hỏi ấy có vài câu trả lời”, Duncan nói với giọng thờ ơ, nhẹ nhàng. “Giả dụ, kẻ thứ nhất tao giết hai mươi tư tuổi, vậy mày có thể bảo là y mất hai mươi tư năm trên đời này mới chết.”
Giả dụ, ôi dào… Vincent Láu nghĩ với sự mỉa mai của một gã thiếu niên, mặc dù gã phải thừa nhận câu trả lời hiển nhiên này đã chẳng xuất hiện trong đầu óc mình.
“Kẻ kia ba mươi hai, tao cho là thế.”
Một chiếc xe cảnh sát phóng qua, theo hướng ngược lại. Mạch máu ở thái dương Vincent đập thình thịch nhưng Duncan không phản ứng gì. Toán cảnh sát không tỏ ra chú ý đến chiếc Explorer ăn cắp.
Duncan tiếp tục. “Một cách khác để trả lời câu hỏi ấy là xem xét khoảng thời gian kể từ lúc tao bắt đầu hành động tới lúc tim bọn chúng ngừng đập. Có lẽ mày nghĩ về điều này. Thấy không, người ta cứ muốn đặt thời gian vào cái khung quy chiếu dễ hiểu. Nó hợp lý chừng nào nó ích lợi. Ích lợi khi biết rằng người vận động viên chạy mỗi dặm mất ba phút năm mươi tám giây, và thế là anh ta chiến thắng. Cụ thể thì đêm nay mất bao lâu bọn chúng mới chết… ờ, việc ấy không quan trọng, miễn nó đừng diễn ra nhanh chóng”. Một cái liếc nhìn sang Vincent. “Tao không định phê phán câu hỏi của mày.”
“Có sao đâu”, Vincent đáp, chẳng bận tâm mình bị phê phán hay không. Vincent Reynolds ít bạn và chịu đựng được Gerald Duncan. “Tôi chỉ tò mò thôi.”
“Tao hiểu. Có điều tao đã quên bấm giờ. Nhưng kẻ tiếp theo, tao sẽ nhớ.”
“Cô gái ấy à? Ngày mai à?” Trái tim Vincent đập gấp gáp hơn một chút.
Duncan gật đầu. “Mày muốn nói là hôm nay đấy.”
Đã qua nửa đêm. Đối với Gerald Duncan, người ta phải thật chính xác, đặc biệt khi đề cập tới thời gian.
“Ừ.”
Vincent Đói Khát bấy giờ đã đánh hơi thấy Vincent Láu đang nghĩ về Joanne, cô gái sẽ là người kế tiếp kết thúc mạng sống.
Hôm nay…
Sát thủ lái xe đi theo một tuyến phức tạp để trở về chỗ ở tạm thời của hai gã tại quận Chelsea, khu Manhattan, phía nam Midtown[3], gần sông. Ngoài đường vắng tanh. Trời lạnh chừng mười mấy độ[4] và dọc các con phố hẹp gió thổi miệt mài.
Duncan đỗ xe vào lề đường, tắt máy, cài phanh. Hai gã bước ra khỏi xe, đi bộ chừng nửa khối phố trong gió lạnh băng. Duncan liếc nhìn bóng mình đổ xuống vỉa hè, dưới ánh trăng. “Tao vừa có một câu trả lời khác. Về chuyện mất bao lâu bọn chúng mới chết.”
Vincent lại rùng mình – chủ yếu vì lạnh, nhưng không hẳn vì thế.
“Nếu mày xem xét vấn đề theo quan điểm của bọn chúng”, tên sát thủ nói, “mày có thể bảo là cực kỳ lâu”.
Ghi chú
[1] Front: khoảng không gian hay bề mặt ngăn cách hai khối khí có thuộc tính nhiệt - ẩm khác nhau. (Các chú thích là của người dịch.)
[2] Band-Aid là nhãn hiệu băng dính y tế của hãng dược phẩm và thiết bị y tế Johnson & Johnson, Mỹ, một mặt có màu nâu vàng (ám chỉ màu của chiếc SUV, dạng viết tắt của Sport Utility Vehicle – dòng xe đa dụng).
[3] Midtown (trung), cùng với Uptown (thượng) và Downtown (hạ), là một trong ba phân khu chính của Manhattan, New York.
[4] oF, khoảng 10oC.

Truyện TRĂNG LẠNH .................. CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 !!!15547_22.htm!!! Đã xem 24215 lần. --!!tach_noi_dung!!--

PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 21

--!!tach_noi_dung!!--
     hỉ còn Kathryn Dance cùng Rhyme trong căn phòng của anh. Ờ, cả Jackson, chú chó giống Havanese, nữa. Dance đang ôm chú chó.
“Thật tuyệt vời”, cô bảo Thom. Ba người vừa ăn bữa tối do anh chàng phụ tá chuẩn bị với bò Bourguignon[59], cơm, sa lát, và một chai Caymus Cabernet. “Tôi sẽ hỏi anh công thức nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ nấu ngon bằng.”
“A, một khán giả biết tán thưởng”, Thom nói, liếc nhìn Rhyme.
“Tôi cũng biết tán thưởng. Chỉ không quá mức thôi.”
Thom hất đầu về phía cái bát lúc nãy đựng món chính. “Đối với anh ấy, nó đơn giản là thịt hầm. Anh ấy thậm chí chẳng cố gắng dùng tiếng Pháp. Hãy cho chị ấy biết anh nghĩ thế nào về thức ăn, Lincoln.”
Nhà hình sự học nhún vai. “Tôi không cầu kỳ về việc mình ăn gì. Thế thôi.”
“Anh ấy gọi đó là nhiên liệu”, anh chàng phụ tá nói và mang những chiếc đĩa vào bếp.
“Chị có nuôi chó không?”, Rhyme hỏi Dance, hất đầu về phía Jackson.
“Hai con. Chúng to hơn cậu này nhiều. Mỗi tuần, bọn trẻ và tôi đưa chúng ra bãi biển đôi, ba lần. Chúng đuổi theo đám mòng biển, còn chúng tôi thì đuổi theo chúng. Tất cả đều được tập thể dục. Và nếu như thế nghe có vẻ quá lành mạnh, cũng đừng lo. Sau đó chúng tôi đến ăn bánh quế tại tiệm First Watch ở Monterey và bù lại toàn bộ số ca-lo đã mất.”
Rhyme liếc nhìn vào bếp, nơi Thom đang rửa đĩa và chảo. Anh hạ giọng hỏi liệu cô có ngại một chút gian trá không.
Dance cau mày.
“Tôi thì chẳng ngại nếu một chút ấy...”, Rhyme hất đầu về phía một chai Scotch Glenmorangie lâu năm, “... dừng lại ở kia”. Cái hất đầu chuyển hướng về phía chiếc cốc của anh. “Tuy nhiên, chị có lẽ sẽ muốn kín đáo.”
“Thom ấy à?”
Một cái gật đầu. “Thi thoảng cậu ấy lại đề ra Luật cấm rượu. Việc này khá khó chịu.”
Kathryn Dance biết giá trị của sự tự cho phép mình hưởng thụ. (Chà, cô có lẽ đã tăng gần ba ki-lô ở Tijuana. Đó là một tuần rất, rất dài.) Cô đặt chú chó xuống và rót cho anh một cốc đầy. Cô lắp nó vào giá đỡ ở xe lăn, xoay chiếc ống hút đến gần miệng anh.
“Cám ơn.” Rhyme làm một hơi dài. “Dù chị có gửi hóa đơn thanh toán cho thời gian chị ở đây bao nhiêu, tôi cũng giải quyết trả gấp đôi. Và chị cứ tự nhiên nhé. Chị thì Thom không làm gì đâu.”
“Có lẽ là ít caffeine.” Dance rót một tách cà phê và tự cho phép mình thưởng thức một chiếc bích quy yến mạch mà anh chàng phụ tá đã bày ra. Chính anh ta nướng những chiếc bích quy đó.
Dance liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Ở California chậm hơn ba tiếng. “Xin lỗi một phút. Tôi gọi về nhà kiểm tra.”
“Xin mời chị.”
Dance sử dụng điện thoại di động của mình. Maggie nghe máy.
“Này, cưng.”
“Mẹ.”
Con bé vốn nói nhiều và Dance mất mười phút để nghe nó tường thuật chuyến đi mua sắm đồ mừng Giáng sinh với bà ngoại. Maggie kết luận: “Rồi bà và con về nhà và con đọc Harry Potter”.
“Cuốn mới à?”
“Vâng.”
“Bao nhiêu lần rồi?”
“Sáu.”
“Con không thích đọc cái gì đó khác sao? Mở rộng tầm hiểu biết?”
Maggie trả lời: “Ôi, mẹ, nói chung, mẹ đã nghe Bob Dylan[60] bao nhiêu lần? Album Blonde on Blonde ấy. Hay ban U2?”
Logic không thể bác bỏ. “Cưng, con bắt bẻ được mẹ, chỉ có điều đừng nóinói chung.”
“Mẹ. Khi nào mẹ về?”
“Có thể là ngày mai. Yêu con. Đưa máy cho anh nào. ”
Wes cầm điện thoại và hai mẹ con trò chuyện một lúc, cuộc trò chuyện có nhiều chỗ ngừng lại hơn và giọng điệu nghe nghiêm túc hơn. Thằng bé từ trước đã nói bóng gió về việc đi học karate và bây giờ nó hỏi thẳng thừng mẹ là nó thực hiện việc đó được không. Tuy nhiên, Dance muốn nó tập môn gì ít tính hiếu chiến hơn, nếu nó thích một m&ociau">CHƯƠNG 36 CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 LỜI TÁC GIẢ