Chương 1
VƯƠNG GIA VÀ NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG

Tác phẩm này đã xuất hiện lần đầu tiên trên website TALAWAS ngày 28.10.2008, được đăng tải trên website DAMÀU ngày 19.12.2008 và in thành sách tại HOA KỲ ngày 06.12.2008.

*

Hôm đó tôi gặp may. Vì có một phu nhân sang trọng, đẹp đẽ, lái xe hơi đến mời tôi đi ăn trưa tại một nhà hàng sân vườn.
Lý lịch của phu nhân ấy có thể tóm tắt như sau: “Họ tên: Huỳnh Thị Thu, bốn mươi tuổi, đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, giám đốc Sở thương nghiệp, có chồng và một con trai.”
Đứa con trai ấy tên Huy, sau này sẽ là một trong những nhân vật chính của câu chuyện này.
Hiện gia đình họ đang có vài rắc rối. Tôi từng nghe đồn về những rắc rối này, nhưng câu chuyện Thu sắp kể với tôi sau đây sẽ phô bày thêm nhiều tình tiết, dự báo cho một bi kịch xã hội vượt ra khỏi khuôn khổ một gia đình nhỏ hẹp.
-Tại sao phải ly hôn?
-Vì quá khứ. Và cũng vì mặc cảm. Anh ấy không nói, không cười và cũng không thèm nhìn em.
-Nhưng nó có thương thằng Huy không?
-Có. Nhưng với em thì im lặng. Suốt ngày im lặng.
-Nó có biết thằng Huy là con của lão vương gia không?
-Biết.
&
Và đó là nghiệp chướng. Đạo Phật hiểu nghiệp chướng như là một món nợ phải trả cho kiếp trước.
Kiếp trước tôi đã nợ gì lão vương gia ấy? Kiếp trước ông ta là ai? Một quan lại, một bá hộ hay chỉ là một kẻ phong tình?
Kiếp trước ông ta là ai mà kiếp này quyền lực bao trùm thiên hạ? Ông không lộ diện nhưng có mặt khắp nơi, nhắc tới tên ông thì mọi người đều run sợ. Nhắc tới tên ông, những người lớn tuổi phải nhắm mắt, xua đuổi những hình ảnh man rợ trong các vụ đấu tố, tra tấn, chôn sống người trong thời cải cách ruộng đất, những trí thức thì cúi mặt, cụp đuôi như con chó bị thiến, bị cắt tai, thảy ra giữa đám gia nô mặt trắng, xỉa xói, lăng mạ, cướp sổ gạo, bỏ đói, bắt đi cày, bắt đi làm chỉ điểm, đi bán danh dự, bán ngòi bút, bán cả bạn bè để kiếm một bát cơm nguội của thời Nhân văn Giai phẩm.
Nhắc tới ông, những người lính già ôm mặt khóc cho đồng đội của mình đã bị đem thí quân trong trận Mậu Thân, trong chiến dịch càn quét sang Campuchia khốc liệt. Một tướng về hưu kể rằng số sĩ quan cấp tướng, cấp tá cấp úy…đã chết trong chiến dịch này bằng cả cuộc chiến tranh chống Mỹ gộp lại. Tất cả đều xuất phát từ cơn điên của ông ta. Ông ta đã quyết định hai chiến dịch lớn ấy vì muốn “tài năng hơn ông Giáp, nổi tiếng hơn ông Hồ” và sai lầm nghiêm trọng trong chiến lược đã hủy diệt hàng triệu sinh mạng, phá nát hàng trăm ngàn gia đình, gieo rắc đau thương đến từng làng quê, từng góc phố.
Theo tin đồn thì ông thuộc dòng dõi hoàng tộc triều Nguyễn, một trong những đứa cháu của vua Đồng Khánh. Nhưng về sau này, khi đất nước thống nhất, trong tư dinh của ông lại treo ảnh vua Hàm Nghi, em ruột Đồng Khánh, vì Hàm Nghi chống Pháp còn Đồng Khánh thì thân Pháp.
Chính vì chuyện đồn đại ấy mà khi còn ở trong rừng mọi người đều gọi ông là “vương gia”.
Ít ai được thấy mặt vương gia. Ông như cái bóng chập chờn sau tấm vách nylon mờ đục. Rừng thì đen kịt, ngửa bàn tay không thấy, nhưng trong căn lều của ông, ngọn đèn dầu vẫn in rõ cái bóng lên vách. Ông đi lại. Ông nghe đài. Ông đọc báo cáo. Ông uống trà. Và ông chờ tôi.
Lúc ấy tôi đang ở mé rừng. Trời mới chạng vạng. Giao liên bàn giao tôi cho người dẫn đường.
Đó là một người đàn ông lạnh lùng, Một chiếc quần kaki sờn rách. Áo bà ba đen và một cái khăn rằn quấn quanh cổ. Khẩu AK mang sau lưng, mũi súng chĩa xuống đất. Anh ta ngồi đợi trên doi đất nhỏ cạnh mé nước.
-Chào đồng chí, tôi nói. Nhưng anh ta làm thinh, ra hiệu cho tôi đi theo. Hai người băng qua những vườn xoài thấp. Trong bóng tối, lối mòn châu thổ vẫn ánh lên một màu trắng đục vì thế chúng tôi đi khá nhanh. Tới một cái chốt kiểm soát, người dẫn đường nói mật khẩu rồi đi qua cây cầu khỉ.
Thấy người đàn ông lầm lí quá, tôi bắt chuyện:
-Đồng chí là người ở đây?
-Không. Tôi là bắc kỳ.
-A, bộ đội?
-Không phải bộ đội. Bắc kỳ di cư.
Câu trả lời lạ quá làm tôi không dám hỏi nữa. Đột nhiên có tiếng động cơ rất lớn từ sông cái tràn vô. Người dẫn đường ra hiệu dừng lại, nghe ngóng. Tiếp theo là tiếng loa phóng thanh vang trên mặt sông:
-Hỡi các cán binh cộng sản. Các anh đã bị bao vây. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sắp tấn công càn quét khu căn cứ này. Hãy ra hàng, nếu không các anh sẽ bị tiêu diệt.
Lập tức trực thăng quần đảo ngay trên đầu. Người dẫn đường nắm tay tôi chạy nhanh đến một chốt vũ trang.
-Cho cô này xuống HBM.
Tổ trưởng vũ trang nói:
-Còn một cái cuối cùng. Hai đồng chí xuống đi.
Anh ta đỡ tôi xuống rồi nhảy theo. Kéo nắp hầm đậy lại. Hơi đất ẩm và bóng tối làm tôi ngộp thở. Người dẫn đường nói:
-Bây giờ không phải lúc ngại ngùng đâu. Đừng đứng sát vách đất. Hãy nép vào tôi đi. Sẽ thấy dễ thở hơn.
Đó là kinh nghiệm chiến trường. Bao giờ một nam một nữ ở chung hầm bí mật cũng có nhiều hy vọng sống sót hơn là hai người đồng giới tính. Quả nhiên hơi ấm của tấm lưng người đàn ông làm tôi thấy dễ chiu hơn. Trên mặt đất súng nổ lẻ tẻ. Chỉ một lúc sau đại liên từ trên trực thăng bắn xuống áp đảo. Cành xoài gãy răng rắc. Tiếng chân chạy nặng nề ngang qua miệng hầm. Cũng may căn cứ này đóng trên một địa hình sông nước nên xe tăng không vào được.
Có tiếng chân nhiều người khuấy động mặt đất bên trên. Người dẫn đường rút chốt lựu đạn cầm ngay trước ngực. Anh nói nhỏ vào tai tôi:
-Nếu tụi nó “xăm” trúng miệng hầm thì tôi sẽ bung nắp hầm lên, ném lựu đạn và dzọt lẹ ra bờ sông nhé. Cô biết bơi không?
Nhưng những bàn chân mang giày “xô” đã đi xa dần. Một đợt trực thăng nữa đảo tới. Đạn M60 lại trút xuống như sấm sét. Nắp hầm rung chuyển. Tôi co rúm lại.
Không biết trận càn kéo dài bao lâu vì sự gầm thét của bom đạn đã làm lu mờ mọi khả năng phán đoán. Khi chiến trường im tiếng súng, người dẫn đường hé nắp hầm nhìn lên thì thấy trời đã sáng.
Chúng tôi lại lên đường. Người đàn ông lấy lương khô đưa cho tôi. Lúc hai người đối mặt nhau tôi ngạc nhiên khi nhận ra một chàng trai đẹp đẽ, nho nhã. Tôi hỏi:
-Anh tên gì?
-Trần Vũ.
-Sao buồn quá vậy?
-Không.
Lại cắt rừng mà đi. Rừng sáng. Thưa thớt.
 
&
 
Sau bữa cơm chiều, nhà văn Đức Hải đến gặp tôi:
-Sao? Ở luôn đây được không?
-Mọi người ở được thì em ở được.
-Vậy mà có người muốn chiêu hồi đấy. Cô phải cẩn thận chớ nên tiếp xúc nhiều.
-Ai vậy?
Ông nhà văn liếc nhìn về phía Trần Vũ lúc đó đang nằm trên võng hút thuốc lá. Tôi nói:
-Đồng chí ấy có vẻ bí ẩn.
Đức Hải cười khô một tiếng rồi quay lưng đi. Mười Thảo tiến lại chỗ tôi.
-Em cho chị cây đèn dầu. Ở trong rừng phải có 3 chữ Đ. Đó là Đèn, Đài và Đùng.
-Đùng là gì?
-Là súng. Rồi chị cũng sẽ có một khẩu.
Tôi hỏi:
-Anh Trần Vũ là nhà văn hả?
-Ảnh là trung úy ngụy đấy. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt nhưng ghét Mỹ ngụy nên bỏ vô đây. Ban đầu ảnh viết văn, viết báo hăng lắm. Rất phong độ.
-Sao thấy ảnh buồn?
-Người ta không tin ảnh. Bị theo dõi. Bị kiểm điểm. Bị ông Đức Hải bắt khai lý lịch hoài.
-Tại sao?
-Vì nghe đài BBC. Ảnh nói với em là lúc đầu ảnh rất tự hào về sự chọn lựa. Bây giờ thì tấn thoái lưỡng nan. Em thấy ảnh như bị thất chí, bị trầm cảm. Em nghĩ tại sao người ta lại đối xử với ảnh như vậy? Người bình thường theo cách mạng thì “tốt” có một lần. Người bên kia chiến tuyến mà theo cách mạng thì phải “tốt đến hai lần”. Chị có đồng ý với em không?
-Chị chưa hiểu nhiều về ảnh.
 
&
 
Đèn trong căn nhà lợp lá trung quân ấy được thắp sáng đầu tiên. Vương gia đang ngồi uống trà. Hình như trên tay có cầm một cuốn sách. Theo lịch làm việc, tối nay tám giờ tôi phải đi gặp ông.
Tôi nghĩ nếu mình bước vô căn phòng ấy thì mình cũng sẽ là một cái bóng. Những người đứng bên ngoài cũng sẽ nhìn thấy bóng tôi in trên bức vách làm bằng tấm nylon xám đục. Tuy nhiên khi tôi bước vô thì ngọn đèn dầu đã được dịch ra sát của sổ, vì thế ở ngoài nhìn vào chỉ thấy có vùng sáng của ngọn đèn.
Vương gia ngồi trên cái ghế tre, ra hiệu cho tôi ngồi đối diện. Ông hỏi tôi về công tác thanh niên ở đô thị, và đặc biệt chú ý đến những cán bộ Đoàn đang hoạt động dưới danh nghĩa Phật giáo. Tuyệt nhiên ông không đả động gì đến chồng tôi hiện bị tù Côn Đảo. Ông chỉ nói:
-Rất tiếc là cháu đã bị lộ. Chú đã bố trí một đồng chí khác về thay chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn. Còn bây giờ đã đến đây thì mọi việc có chú lo. Chú coi cháu như con nuôi vậy.
Ông đứng lên, đưa tay ra. Tôi bắt tay ông, và trong động tác ấy tôi cảm thấy có một lực kéo rất nhẹ, nó giống như một sự khuyến khích hơn là cưỡng ép.
Ông vuốt tóc tôi bằng những ngón tay dịu dàng. Tôi không dám cưỡng lại. Tôi để yên một lúc rồi gỡ nhẹ tay ông và bước ra ngoài đêm.
Lúc ấy ngoài mé rừng nhà văn Đức Hải xách đèn pin đi rảo một vòng khu lán trại. Bao giờ ông ta cũng dừng lại chỗ gốc cây bằng lăng cách võng của Trần Vũ chừng bốn mét. Và lắng nghe.
Mọi tối, giờ này, Trần Vũ thường nghe đài BBC nhưng bữa nay hắn nghe cái đài quái gì lạ hoắc. Đức Hải nhích tới mấy bước, cũng không nghe được, bèn tới sát võng.
-Ông nghe cái gì vậy?
Im lặng.
-Nghe bằng tiếng Mỹ thì ai mà hiểu. Có chửi Đảng cũng chẳng ai biết.
Trần Vũ chẳng buồn ngoái lại. Anh chỉ nói:
-Không phải tiếng Mỹ. Tiếng Pháp.
-Tiếng Pháp lại càng phức tạp.
Nói xong thì bỏ đi.
Ngang qua căn nhà của lãnh đạo, thấy cái bóng của vương gia đi qua đi lại, Đức Hải vội vàng tắt đèn pin và bước lẩn vào trong bóng tối.
Tôi thả bộ, đi về phía Trần Vũ.
-Em có món quà nhỏ cho anh.
-Cô nên về ngủ đi. Tôi muốn nằm một mình.
Nhưng tôi đã sấn tới mấy bước và thảy gói thuốc lá lên ngực anh.
 
&
 
Trong buổi họp, Đức Hải nói:
-Nhân danh bí thư tôi đề nghị đồng chí Vũ nộp lại cái đài cho cơ quan. Nhiều đồng chí cần đài mà không có.
Trần Vũ mở thắt lưng lấy cái radio, đặt ngay trước mặt mình.
-Còn khẩu súng và cây đèn dầu, anh có muốn tịch thu nốt không?
Đức Hải nói:
-Khi nào cần, tôi sẽ thông báo.
Cuối buổi họp Trần Vũ ra gốc cây ở sau bếp ngồi hút thuốc. Đó là gói thuốc tôi cho anh tối hôm qua. Tôi thấy ái ngại cho anh. Tôi đến gần và nói:
-Anh không nên sống đơn độc như thế.
-Tôi không sống đơn độc. Tôi bị cô lập. Thu không biết rằng tôi đã vào rừng bằng một tâm tình rất đẹp, và bằng hào khí của một chàng tráng sĩ sao? Thu không biết rằng một sĩ quan tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt tương lại sẽ có thể trở thành tướng lãnh sao? Vào đây tôi chỉ muốn làm một anh du kích mà còn bị nghi ngờ. Còn gì bẽ bàng hơn thế không?
Lúc ấy có tiếng Đức Hải gọi:
-Đồng chí Thu. Vương gia cần gặp.
 
&
 
Đó là đêm định mệnh. Về sau này tôi đã tự vấn lương tâm tại sao đêm ấy tôi lại không chống cự quyết liệt để cuối cùng chịu thua trước lão già ấy? Hình như tôi đã bị sự tác động của cái câu lão hứa hẹn vào đêm đầu tiên tôi gặp lão: “Chú đã bố trí một đồng chí khác về chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn.”
Trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ có thể thay chỗ của chồng, làm bí thư thành đoàn Cần Thơ… nên sau cú đẩy yếu xìu lên ngực lão, tôi đã nằm bất động trên cái chõng tre lót nệm gòn rộng chừng một mét.
Trong nhiều năm, tôi vẫn tự biện hộ rằng đêm đó mình không làm rùm beng chỉ vì muốn bảo vệ uy tín cho lãnh đạo, vì điều đó rất cần cho kháng chiến. Nào ngờ, sau ngày thống nhất, gặp lại các nạn nhân của lão, tôi mới biết rằng họ cũng dùng cái lý do cũ rích ấy để tự biện hộ cho mình.
Sáng hôm sau, có tin Trần Vũ mất tích. Người ta túa ra đi tìm. Còn nhà văn Đức Hải thì ngồi viết báo cáo là Vũ đã chiêu hồi. Báo cáo viết chưa xong thì có người phát hiện anh nằm ngoài bờ suối trong tình trạng sốt cao. Tôi nấu cho anh một nồi cháo cá và cùng với Mười Thảo thay phiên nhau chăm sóc.
Vài bữa sau, Vũ đã khá hơn. Đức Hải đem trả lại cho anh cái radio.
Khi ông ta đi rồi tôi bảo Vũ:
-Thấy mất anh, người ta nói anh đi chiêu hồi.
-Cô có tin không?
-Tin một nửa.
-Vậy tôi kể cho cô nghe một giai thoại trong truyện Tam Quốc nhé: Tào Tháo có tội, phải đi trốn, tráng sĩ Trần Cung theo giúp. Hai người đến nhà một người bạn tên Bá Xa, được ông này mời nghỉ lại, rồi đi mua rượu về thếch đãi. Hai người nằm trốn trong phòng, chợt nghe bên ngoài có tiếng gia nhân nói: “Bắt trói nó lại và giết đi.” Tức thì xông ra, gặp ai chém nấy. Khi ra nhà sau, thấy con heo bị trói đang nằm dưới đất thì biết mình đã giết lầm người. Bèn lên ngựa bỏ chạy. Giựa đường gặp Bá Xa đi mua rượu về Tào Tháo bèn chém chết luôn. Trần Cung nói:”Lúc nãy ta đã giết lầm bao nhiêu người, sao bây giờ lại còn giết nữa?” Tào Tháo nói: Thà mình phụ người chớ đừng để người phụ mình. Nếu không giết, nó về thấy người nhà chết hết nó sẽ đi tố cáo. Ta thoát sao được? Trần Cung thấy Tào tháo là kẻ bất nhân nên bỏ Tào Tháo mà theo Lữ Bố. Em có hiểu ý nghĩa câu chuyện đó không?
-Ý anh muốn ra chiêu hồi chứ gì?
-Em hiểu sai rồi. Trần Cung thấy Tào Tháo bất nhân nên theo Lữ Bố. Còn anh thấy Mỹ bất nhân nên theo Việt cộng. Bây giờ lại thấy Việt cộng vừa bất nhân vừa bất nghĩa, chẳng lẽ anh trở lại với Mỹ sao? Trần Cung còn có con đường để đi. Còn anh thì đã cùng đường. Đã mạt lộ rồi. Chỉ còn cái chết thôi.
Tôi đưa ngón tay lên môi anh:
-Vũ ơi! Đừng nói những lời ấy. Anh gắng ăn thêm một chén cháo.
Trong khi chăm sóc anh, tôi tìm thấy trong cái balô con cóc một tập truyện ngắn mà anh là tác giả. Tôi hỏi mượn đọc nhưng anh nói:
-Em đọc làm gì. Đó là những câu chuyện ấu trĩ của một thời hoang tưởng.
-Sao lại hoang tưởng?
-Vì chung quanh anh toàn là xu nịnh, đố kỵ và hèn nhát, những thứ ấy không hề có trong cuốn sách ấy.
-Vậy tác phẩm này là dối trá sao?
-Không dối trá nhưng ngây thơ, hời hợt. Em đem ra ngoài đốt giùm anh đi.
-Sao lại đốt.
-Nếu em không đốt thì anh sẽ đốt.
Và trong đêm ấy, khi mọi người đang ngủ say thì Trần Vũ đã ra ngồi nơi cái gốc cây quen thuộc của mình. Anh lôi cuốn sách ra, xé từng tờ. Và đốt. Ngọn lửa cháy đơn độc trong cái xó rừng ẩm mốc, khuất tịch và câm lặng. Ngọn lửa vừa nhóm lên một chút đã tàn lụi. Những trang giấy ngã vàng hấp hối đang được hóa kiếp.
Giữa trưa hôm sau Trần Vũ gọi Mười Thảo đến. Hỏi:
-Em có thương anh không?
-Sao anh lại hỏi vậy?
-Vì anh muốn nhờ em chuyển giúp anh một bức thư về gia đình.
-Sao anh không nhờ giao liên?
-Thư của anh luôn bị kiểm duyệt. Hãy nhận lời đi. Vì đây là bức thư cuối cùng.
Mười Thảo giật mình:
-Anh nói gì vậy?
-Anh sẽ tự sát.
-Không được. Anh nói mê rồi.
Cô gái nhỏ sờ trán Trần Vũ, thấy lạnh tanh. Tay cô run lên. Vũ lại nói:
-Gia tài của anh còn 3 thứ có thể dùng được. Cái đèn dầu, anh cho em. Cái đài thì em có rồi, anh tặng cho Thu.
Trần Vũ cầm khẩu AK47 lên, mỉm cười với cô bé đang run rẩy:
-Sau khi anh tự sát. Người ta sẽ lấy khẩu súng. Anh chỉ còn một chiếc đồng hồ. Em giúp anh gởi tặng cho thằng Hay. Nó đi giao liên chưa về phải không? Nó thường trầm trồ cái đồng hồ này lắm đó.
Tiếng gà rừng gáy vang trong buổi trưa oi bức. Trần Vũ lột cái đồng hồ đang đeo trên cổ tay rồi bỏ chung các thứ vào cái bao nylon đã chuẩn bị sẵn và đưa cho Mười Thảo. Anh đứng lên, xăm xăm đi ra bờ suối.
Mười Thảo kêu lên:
-Anh Vũ! Em lạy anh!
Lúc đó tôi đang đứng trong trạm xá nghe tiếng kêu, vội bước ra. Mười Thảo kéo tay tôi chạy ra suối. Khi chúng tôi đến nơi thì Trần Vũ đã lội sang bên kia bờ và đang đứng trên một mô đất.
Mười Thảo lôi tôi xuống suối. Tôi vấp ngã, ướt hết quần áo. Thảo gào lên:
-Em lạy anh! Anh Vũ ơi!
Con bé khóc hu hu. Trần Vũ mở chốt an toàn, kéo quy-lát. Tôi la lên:
-Đừng! Em xin anh! Anh Vũ!
Và tôi nhào tới nhưng Vũ lạnh lùng nói:
-Đứng im! Bước tới thêm một bước là tôi bắn liền.
Nhưng chúng tôi bất chấp. Chúng tôi nhảy lên bờ. Lập tức một loạt đạn tung đất đá ngay trước mặt, làm chúng tôi khựng lại.
Hai đứa quỳ xuống. sụp lạy và khóc nức nở.
Nhưng Trần Vũ rất bình tĩnh, anh cũng quỳ xuống, đưa nòng súng ngay cổ họng mình và bóp cò. Tiếng nổ như một tiếng hú khô và lạnh của rừng.
Trần Vũ ngã chúi xuống phía trước.
Khẩu súng chuồi theo triền dốc.
 
&
 
Giám đốc Thu hỏi:
-Anh có một người bạn tên Trần Quỳnh phải không?
-Phải. Đại úy chế độ cũ.
-Ông ta là anh ruột của Trần Vũ.
Thu mở ví lấy ra một cái hộp nhỏ. Đó là bức thư Trần Vũ viết trước khi tự sát. Giấy đã vàng ố nhưng những dòng chữ vẫn còn rõ nét.
Hồi ở trong rừng tôi chỉ nghe phong phanh về cái chết của Trần Vũ vì những loại tin tức như vậy thường bị bưng bít rất kỹ, và rất dễ bị lãng quên trong giai đoạn chiến tranh ác liệt. Nào hay anh ta lại là em của bạn tôi và có vẻ như mối liên hệ này sẽ dẫn đến nhiều tình huống bất ngờ.