Dịch giả: Phạm Văn Vinh
Phần Thứ Năm

Họ được một ngày thật sự mùa xuân. Nhưng đến tối thấy lạnh trời, có cảm giác như mùa đông, họ phải quay về nhà, đốt lửa suởi và ăn tối.
Đây là bữa tối cuối cùng họ ăn với nhau. Nhưng còn được một đêm nữa trong vòng tay nhau nên họ chưa cảm thấy buồn.
Ăn xong họ lại dạo chơi ngoài đường xóm Pors- Even để tận hưởng không khí ấm áp và chút ánh chiều còn tỏa xuống đồng quê.
Họ đến chào tạm biệt bố mẹ Yann rồi về ngủ ngay để sáng hôm sau dậy sớm.
...
Sáng hôm sau, cảng Paimpol đông nghịt người. Nhiều tàu thuyền đã ra đi từ hôm trước nữa. Cứ mỗi triều nước lại có một đoàn ra khơi, sáng hôm ấy mười năm, trong đó có tàu Léopoldime nhổ leo. Các bà vợ, bà mẹ của thủy thủ đều có  mặt. Gaud thấy ngỡ ngàng, mình cũng có ở trong số này, bỗng dưng trở thành vợ của một dân chài, cũng đến đây tham dự cuộc tiễn đưa. Chỉ sau mấy ngày, cuộc đời của cô bỗng có một bước ngoặt, một bước ngoặt đưa cô sang một chặng đường mới, một bước ngoặt không thể cưỡng lại, và bây giờ cô đang đứng cùng với những người vợ của các thủy thủ khác tiễn đưa chồng mình theo đoàn thủy thủ ra khơi. Sự có mặt của cô hôm nay tại cảng này, đứng cùng các bà vợ, bà mẹ kia là một định mệnh.
Cô chưa bao giờ tham dự một cảnh tượng như thế này. Đối với cô đây là một chuyện mới lạ. Cô cũng không giống các bà phụ nữ khác nên cảm thấy lẻ loi, khác biệt; quá khứ của cô là một tiểu thư đã đặt cô riêng ra.
Thời tiết hôm nay vẫn còn đẹp. Chỉ mãi ngoài khơi có sóng cồn từ phía tây lái, biết là ngoài ấy có gió to đang đợi đoàn tàu.
.... Chung quanh Gaud cũng có nhiều cô gái trẻ đẹp, đang sụt sịt khóc trông rất thương; lại cũng có những cô vui vẻ, tươi cười, vô tư. Họ chưa có ngừơi yêu hoặc chưa có ai trong số thủy thủ ấy. Có những bà già thấy mình gần đất xa trời nên thương nhớ đứa con đi xa. Thủy thủ có người nghêu ngao hát cho đỡ buồn, cũng có những người ủ rũ bước xuống thuyền như một tử tù.
Có nhiều cảnh buồn lòng. Có người lúc say rượu đã kí hợp đồng nay phải bị cưỡng bức lội xuống tàu, cảnh sát xúm lại đẩy đi. Lại có người phải nhốt vào cũi khiêng xuống tàu vì sợ bỏ chạy.
Gaud thấy vậy mà sợ. Chả biết rồi đây, ở dưới tàu, Yann có phải sống với người ấy không? Và cái nghề đi biển ghê gớm thế nào mà làm cho người ta sợ hãi thế?..
Tuy vậy vẫn có những người vẫn vui vẻ, chắc hẳn họ cũng thích cuộc sống ngoài biển khơi và nghề chài lưới như Yann. Họ là những người tốt. Nét mặt họ rạng rỡ, tươi cười, nhìn các cô gái lần cuối rồi lên đường, nếu là người có gia đình, họ ôm hôn vợ con với lòng nhớ thương kín đáo, hy vọng sẽ trở về.
Gaud yên tâm thấy đoàn thủy thủ của tàu Léopoldine, mọi người đều vui vẻ. Họ đều là những người được chọn lọc.
Đoàn tàu cứ hai chiếc một, nhổ neo, có tàu kéo ra khơi. Tàu quay mũi ra thì thấy râm ran nổi lên bản thánh ca kinh Đức bà. Trên bến các bà vợ vẫy tay tiễn biệt lần cuối, người nào cũng nước mắt thánh thót xuống ngực áo.
Con tàu Léopoldine đi rồi, Gaud vội rảo bước về nhà ông Gaos, sau một tiếng rưỡi đi bộ dọc bờ biển, qua những con đường quen thuộc ở xóm Ploubazlance, cô về gia đình mới.
Tàu Léopoldine đậu ở vũng tàu ngoài khơi Pors- Even và mãi buổi chiều mới đi hẳn. Yann và Gaud hẹn gặp nhau lần cuối tại đấy để chia tay nhau. Anh xuống xuồng chèo vào và ở lại đấy với vợ ba giờ.
Trên đất liền, xa sóng biển, vẫn là tiết xuân tươi đẹp, vẫn là bầu trời êm ả. Họ đi ngoài đường, khoác tay nhau như cuộc dạo chơi hôm trước, chỉ khác là buổi chiều Yann đã phải ra đi. Họ lững thững trên đường Paimpol và về đến nhà, họ bước vào, bà già Yvone xúc động khi thấy hai người lại xuất hiện.
Yann dặn dò Gaud mọi việc ở nhà, anh lưu ý Gaud đến bộ quần áo cưới, anh để ở tủ, thỉnh thoảng trời nắng phải bỏ ra phơi. Thủy thủ có thói quen này. Gaud mỉm cười khi nghe Yann căn dặn. Anh cứ yên tâm Yann ạ, mọi cái của anh ở nhà sẽ được chăm nom chu đáo.
Nhưng Yann nói cũng là để cho có chuyện để nói với nhau thôi.
Yann kể cho Gaud biết ngoài tàu vừa rút thăm phân phối chỗ cắm cần câu, anh được một chỗ rất thích.
“ Như thế là thế nào, anh Yann?”
“ Trên mạn tàu có cho mỗi thủy thủ một lỗ cắm cần câu. Ai gắp được lỗ nào cứ đấy mà cắm cần câu mình trong suốt đợt đánh bắt, không được thay đổi”,- Yann giải thích và nói thêm chỗ anh gắp câu được nhiều cá hơn cả; bên trên lại có chỗ căng bạt che mưa gió.
... Họ nói khẽ với nhau như có ý sợ nói to thì thời gian trôi nhanh; họ cũng muốn chỉ nói riêng cho nhau nghe thôi. Chuyện nhỏ đến mấy với họ cũng là bí mật và quan trọng trong ngày hôm ấy.
Đã đến lúc phải ra đi rồi. Yann bế bổng Gaud lên, ghì chặt vào người mình, lặng lẽ ôm hôn...
Tàu của anh kéo buồm. Những cánh buồm no gió căng phồng. Yann đứng trên tàu cầm mũ vẫy; bóng anh in trên mặt biển xa dần. Cái bóng đen cứ mỗi lúc một mờ đi, mắt thường không thể nhìn thấy nữa...
... Gaud như có nam châm hút, bước theo bờ biển về phía con tàu.
Nhưng rồi hết đường cô ngồi xuống trên chân cây thánh giá cuối cùng trồng giữa mô đá và những cây kim tước. Ngồi đây, Gaud trông thấy như con tàu lướt trên cao.
Gaud vẫn nhìn theo, cố ghi lại hình dáng con tàu Léopoldime và màu sắc những cánh buồm, để khi tàu về dễ nhận ra.
Cô lại đến đúng chỗ ấy để đợi.
Sóng biển dâng cao, những con sóng đuổi nhau không ngừng, không nghỉ, liên tục xô vào những mỏm núi ấy, tràn lên bờ cát ấy, nhấn chìm những dải đá ấy. Những con sóng hết đợt nọ đến đợt kia lao lên bờ cát như muốn nhấn chìm mọi vật trên đó.
Con tàu Léopoldime đi đã xa, nhỏ dần, mờ dần. Chiều nay không nhiều gió, vậy mà con tàu đi nhanh. Chắc hẳn do các dòng hải lưu cuốn đi. Gaud không còn nhìn thấy bóng dáng con tàu nữa.
Trời lại tối dần. Cô đứng lên đi về nhà. Trong lòng có phần yên ổn hơn tuy nước mắt vẫn ròng ròng.
Thật là khác xa so với hai năm trước, hai năm buồn phiền, sầu tủi, chẳng hỏi han, thăm viếng, lúc ra đi cũng chẳng có một lời chia tay. Còn giờ đây Yann đã hoàn toàn là của cô, được cô yêu thương, được mong nhớ. Ý nghĩ đó đã an ủi cô, cho cô thêm nghị lực để chờ anh về thu sau.
Mùa hè đi qua chậm chạp, buồn tẻ, nóng bức. Gaud từng ngày mong chờ đợt lá vàng đầu tiên rụng xuống, mong đàn chim én đầu tiên bay về, mong những mầm non hoa cúc bắt đầu nở.
Cô cũng đã nhiều lần gửi thư cho Yann nhờ tàu Reykjavik chuyển nhưng chẳng biết thư có đến tay anh không.
Mãi cuối tháng bảy cô mới nhận được một thư trả lời. Trong thư anh nói vẫn khỏe, mùa cá thu hoạch tốt, mình anh đã được một nghìn năm trăm con. Lá thư rập y nguyên khuôn thư các thủy thủ gửi về cho gia đình; Họ không biết kể những chuyện họ thấy, họ nghĩ, họ ước mơ, lá thư của Yann cũng vậy, rất mộc mạc, rất chất phác. Gaud có hiểu biết hơn, nên cô có thể qua những câu nói hồn nhiên trong thư mà biết được tình cảm thắm thiết, nồng đượm của anh. Trong thư nhiều lần gọi Gaud bằng vợ. Điều đó làm cho Gaud sung sướng và chắc rằng Yann cũng sung sướng không kém khi xưng hô như thế. Ngay tên đề ngoài phong thư: “ Gửi bà Gaos Marguerite ở Plobazlance” cũng đã làm cho Gaud vui thích, đọc đi đọc lại nhiều lần.
Gaud đã phải làm nhiều việc trong mùa hè này. Phụ nữ ở Paimpol lúc đầu không tin vào khả năng của Gaud và cho rằng bàn tay óng ả của cô không thể làm gì được, ấy vậy mà chỉ sau một thời gian cô được bà con tín nhiệm, nhờ may những chiếc áo dài mà họ lấy làm vui thích khi mặc vào để đi dự các hội hè đình đám. Đến nay cô đã trở thành một người thợ khâu nổi tiếng.
Nhờ có thu nhập, cô đã tu sửa chỗ ở cho đẹp thêm để đón anh về. Giường, tủ được sửa chữa, đánh bóng lại, những tay cầm và khóa sáng choang. Cô cũng trổ một cửa sổ nhỏ trên tường quay ra biển, lắp cả kính và che rèm, cũng mua một bộ chăn mới cho mùa đông và sắm một bộ bàn ghế.
Tất cả tiền mua sắm là của riêng cô làm ra, còn tiền của Yann để lại nhà, cô không đụng đến, cất kĩ vào trong một cái hộp nhỏ, khi nào Yann về sẽ đưa ra cho anh xem.
Trong những buổi chiều mùa hè, ngồi chơi trước cửa với  bà Yvone, Gaud đã đan cho anh một áo len xanh, cổ và cổ tay rua kiểu thật đẹp. Bà Yvone trước đây cũng là một người đan len giỏi, đã nhân lúc ngồi chơi dạy cho Gaud các kiểu. Đan một cái áo cho Yann cũng hết nhiều len, vì anh to người. Ngày đã bắt đầu ngắn lại, trời mau tối. Nhiêu cây ra lá ngày tháng bảy đã bắt đầu vàng úa; nhiều cây hoa, hoa đã nhỏ dần, lơ thơ trên cành. Một con tàu đánh cá, đầu tiên đã từ Islande về. Lễ hội đón tiếp người đi biển về đã bắt đầu.
Người trong xóm kéo nhau ra cảng.
“ Tàu nào về đây?” Họ hỏi nhau.
“ Tàu Samuel Zénide. Vẫn là con tàu này về trước tiên như mọi năm.”
“ Chắc tàu Léopoldime cũng sắp về,” Ông Gaos nói, “ Đã một tàu về thì các tàu khác cũng không ở lại lâu.”
Họ đã về thật. Ngày thứ hai thêm hai tàu nữa về; hôm sau lại bốn chiếc. Cả làng biển vui mừng nhất là các bà vợ và các bà mẹ. Thật là một ngày hội ở các quán rượu, các cô gái đến chuốc rượu cho các chàng chai thủy thủ đi xa về.
Như vậy còn thiếu mười tàu, trong đó có tàu Léopoldime. Chắc cũng không lâu, Gaud cho rằng chỉ tám ngày nữa là cùng họ sẽ về đủ. Cô không có một chút lo ngại nào vẫn chuẩn bị nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ cho ngày hội ngộ.
Tất cả đã sắp xếp xong, vả lại cũng không còn đầu óc đâu để làm gì to tát lúc này.
Lại thêm ba chiếc tàu nữa về, rồi lại năm chiếc nữa. Như vậy chỉ còn thiếu hai chiếc.
Người ta nói vui: “ Năm nào tàu Léopoldime cũng về bét.”
Gaud cười, vẫn vui cười, vẫn xinh đẹp trong sự chờ đợi.
...
Nhiều ngày nữa trôi qua.
Gaud vẫn lo sửa quần áo, giữ nét vui tươi, vẫn trò chuyện với xung quanh. Cô nói về chậm là thường, năm nào chả vậy. Hai tàu này lại là hai tàu vững chãi, thủy thủ toàn những người có kinh nghiệm.
Nói vậy nhưng về nhà cô cũng bắt đầu thấy lo ngại.

*

Hôm ấy đã là ngày 10 tháng Chín. Thời gian đi qua nhanh quá.
Một buổi sáng, sương mù còn đương bao phủ mặt đất, mặt trời chỉ vừa lóe lên, người ta thấy Gaud ra ngồi cầu kinh trước cửa nhà thờ, nơi vẫn cầu kinh cho người bị nạn trong các vụ đắm tàu.
Đã mấy hôm nay sáng nào sương mù cũng dày đặc gây cho Gaud cảm giác giá lạnh, buồn phiền. Cô trằn trọc lo nghĩ, rồi dậy sớm hơn mọi ngày đi ra nhà thờ.
Đây là lần đầu tiên cô ngồi trước cửa nhà thờ, đọc trên tường danh sách những người quá cố. Cô lần lượt đọc.
Gaos Yvon, chết ở ngoài biển gần khu vực Norden Fiord.
...
Một luồng gió từ biển vào, cùng lúc trên mái vòm có tiếng lào rào như mưa. Đó là lá khô từ các cây cối xung quanh rụng xuống theo gió bay vào tận cửa nhà thờ. Mùa đông đã đến...
Gaud đọc tiếp:
... Chết ở ngoài biển khu vực Norden Fiord trong trận bão từ ngày 4 đến ngày 5 tháng Tám năm 1880.
...
Gaud đọc và đưa mắt nhìn ra ngoài khơi, sáng nay trời nhiều sương, mặt biển u ám như treo rèm tang.
Lại một cơn gió nữa. Lá khô lại xào xạc rơi. Cơn gió mạnh trước đây đã nhấn chìm nhiều người, nay vẫn truy đuổi họ đến tận nơi ghi tên tuổi trong danh sách những người đã chết.
Gaud bất giác nhìn trên tường thấy một chỗ chống còn để sẵn. Cô thấy hoảng sợ và nghĩ không lâu nữa sẽ có một cái biển mới gắn vào đấy.
Gaud thấy lạnh; cô vẫn ngồi đây, gục đầu xuống tấm đá.
... Chết ngoài biển ở gần khu vực Norden Fiord trong trận bão từ ngày 4 đến ngày 5 tháng tám năm 1880 ở tuổi 23.
Gaud thấy Islande hiện ra với cái nghĩ địa nhỏ, Islande xa xôi sáng lợt dưới mặt trời lúc nửa đêm... Rồi bỗng cô nhìn lên tường, chỗ trống để dành cho một tấm bia mới, tấm biển trên đó có đề cái tên rất thân thương Gaos Yann! Cô đứng phắt dậy, thốt kêu ú ớ trong cổ họng như một người điên...
Bên ngoài gió vẫn gào, mặt biển vẫn dầy đặc sương sớm; lá khô vẫn lả tả rơi.
Ngoài đường có tiếng bước chân người. Ai đến đây?
Gaud đứng bật dậy, sửa lại quần áo, đầu tóc, chỉnh đốn lại nét mặt. Cô không muốn ai nhìn thấy cô với nét mặt vợ của một người chết đuối.
Gaud mở cửa, trước mặt cô là Fante Flury, vợ thuyền phó tàu Léopoldime, cả hai người đứng im, không ai nói gì, vẻ buồn bã chán nản.
“ Tất cả những thủy thủ của Tréguier và Saint- Brieuc về cả rồi.” Fante Flury nói, giọng thểu thảo.
Cô mang một cây nến để cầu nguyện.
“ Cầu nguyện à!” Gaud nói như than thở và đi theo Fante vào nhà thờ. Họ quì xuống bên nhau như hai chị em.
Họ cầu đức mẹ. Cầu một cách khẩn thiết. Rồi có tiếng nấc, nước mắt họ thánh thót nhỏ xuống đất...
Rồi Fante giúp Gaud đứng lên.
Họ lau nước mắt, sửa lại tóc, phủi bụi đầu gồi quần, bước ra về mỗi người một ngả.

*

Gần cuối tháng chìn mà trời vẫn như đương mùa hạ, chỉ hơi u uất một chút.
Nếu không có lá khô trút từ cây cối xuống mặt đường mỗi khi có gió thì quang cảnh vui như tháng Sáu vậy. Những người chồng, những người yêu nhau, những người sắp cưới đều lục đục về cả. Trong ngoài ngõ vui hẳn lên.
Một ngày có tin báo một trong hai thuyền về chậm đã đang đi vào cảng. Không biết thuyền nào đây.
Các bà vợ vội vã chạy ra bờ biển.
Gaud cũng theo bố chồng chạy ra.
“ Chắc là bọn nó rồi!” Ông già nhìn ra xa nói. “ Cứ trông cột buồm và mũi thuyền cong cong thế kia, tôi biết. Con thấy thế nào, Gaud?”
Đấy là thuyền Marie Jeane. Chắc tàu kia cũng sắp về rồi con ạ.”
Ngày lại ngày tàu Léopoldime vẫn chưa thấy bóng dáng đâu cả.
Gaud vẫn cố giữ bình tĩnh, vẫn gọn gàng đầu tóc, để khỏi có dáng vẻ tiều tụy như vợ một thủy thủ chết đuối.
Sáng nào cũng vậy, từ lúc còn mờ sương cô đã ra mỏm đất tận cùng, tìm một vách núi cao ngồi nhìn ra biển. Lúc đi cô lén ra phía sau nhà Yann để mẹ và các em gái anh không nhìn thấy. Chỗ cô ngồi có một cây rút. Cô tựa lưng vào đấy, ngồi suốt ngày, mắt chằm chằm nhìn ra ngoài khơi. Cứ thế, cứ thế, hết ngày này qua ngày khác. Mãi đến tối mịt mới ra về.

*

Đã hết tháng Chín mà chẳng thấy tăm hơi gì. Gaud không thiết ăn, bỏ cả ngủ.
Bây giờ cô không ra bờ biển ngồi đợi nữa. Cô ngồi nhà, hai tay kẹp vào đùi, đầu ngửa về đằng sau, tựa vào tường. Ngồi chán cô lại nằm vật xuống giường, để nguyên cả quần áo. Nằm chán cô lại dậy, tự nhiên thấy rét run, hai hàm răng va vào nhau lập cập, đầu nhức như búa bổ, miệng khô, má bừng bừng, người như muốn sốt. Đôi lúc cô lại rú lên từng hồi, rồi đập đầu vào tường đá.
Lại có lúc cô gọi tên anh, gọi bằng giọng rất âu yếm, trìu mến, y như có anh ở bên cạnh. Rồi cô nói với anh những lời yêu thương.
Cũng có lúc cô làm những việc chẳng có ý nghĩa gì, như cầm chiếc đèn đưa lên đưa xuống để nhìn bóng bức tường Đức bà bằng gốm dài ra hay ngắn lại in trên tường.
Rồi cô hoảng sợ, cô kêu lên rồi lại đập đầu vào tường.
Đêm năm canh, ngày sáu khắc, cô thương, cô nhớ, cô buồn, cô mong,...
Thông thường khi có vụ đắm tàu trên biển Islande, người ta thấy trôi trên mặt nước một tấm ván, một xác chết. Nhưng tàu Léopoldime, người ta chẳng thấy dấu vết gì. Những người trên tàu Marie Jeanne nói có nhìn thấy tàu Léopoldime ngày 2 tháng Tám, đi xa lên phía bắc để câu, nhưng sau đó thế nào thì không biết.
Gaud vẫn chờ, chờ đến bao giờ, cô không biết. Cũng có lúc cô nghĩ rằng cũng chẳng còn lâu nữa.
Chao ôi! Nếu thật là anh chết rồi thì cứ nói thẳng cho cô biết, cho cô biết bây giờ anh ấy ra sao. Nếu anh ấy còn sống thì Đức mẹ hãy cứu giúp anh ấy để anh ấy về, mà chết rồi thì cứ cho xác anh ấy giạt về đây. Chao ôi!
Cũng có lúc cô nhìn thấy một tấm màn đen xuất hiện phía chân trời. Cô tin đấy là con tàu Léopoldime và vội chạy ra bờ biển đợi, để xem có đúng không.
Cô ngồi bệt xuống, than thở một mình: Chẳng biết con tàu ấy đang ở đâu rồi: mất tích, chìm đắm hay vỡ nát trôi giạt vào đâu.
Hình ảnh một vật trội nổi, bập bềnh trên sóng luôn ám ảnh tâm trí cô.

*

Lúc ấy là hai giờ sáng. Có tiếng người bước gấp ở ngoài đường. Gaud đêm ấy cũng như mọi đêm khác, vẫn chưa ngủ, hai tay chắp trên ngực, mắt nhìn trong bóng tối, lắng nghe gió rì rào ngoài biển.
Tiếng bước chân mỗi bước đi gần lại. “ Vào giờ này ai đi ngoài đường nhỉ?” Gaud nghĩ bụng...
Người đi đường dừng lại trước cửa, bước lên bậc thềm...
Anh ấy! Trời ơi, anh ấy!
Rồi tiếng gõ cửa, còn ai nữa ngoài anh ấy! Gaud đứng bật dậy, lảo đảo bước đi nhẹ như bước chân mèo, giang rộng tay ra để đón người yêu. Chắc hẳn tàu Léopoldime đã về, đang đêm nên còn đợi ngoài khơi trước vịnh Pors- Even. Anh ấy chạy về trước. Gaud tưởng tượng hình dung sự việc như thế. Cô vội vàng rút then cửa, máu téo cả ra tay.
...
Ôi chao! Cô lùi lại, cô như muốn sụp đổ, đầu gục xuống ngực. Giấc mộng của cô vụt tan. Người bước vào nhà lúc này chỉ là Fantee, người hàng xóm của Gaud. Gaud như bị ngập chìm vào thất vọng đau xót.
Fantee xin lỗi, vợ anh ốm nặng, con anh sưng họng nghẹt thở. Anh sang nhờ Gaud giúp đỡ coi hộ con anh, để anh đi đến Paimpol tìm thầy thuốc.
Gaud thấy chán ngán, đang trong hoàn cảnh bi đát, cô chẳng muốn nghĩ gì đến việc cứu giúp ai; cô ngồi sụp xuống ghế, nhìn người hàng xóm không trả lời cũng chẳng muốn nghe anh nói.
Fantee đã hiểu tại sao Gaud đã mở cửa một cách vội vàng; anh ân hận và ấp úng xin lỗi.
“ Đáng lẽ tôi không nên đến phiền cô như thế này...”
“ Sao vậy, anh Fantee?” Gaud hỏi như vừa suy nghĩ lại. Cô không muốn để người khác biết rằng cô đang chán nản.
Gaud mặc áo đi theo Fantee để trông giúp đứa con.
Yann đâu cả! Chỉ có Fantee thôi!
Rồi cô lại vật đầu xuống gối.
Nhưng đã cảm thấy anh ấy ở gần mình tức là có cái gì thoát ra từ anh ấy bay lại quanh đây. Hiện tượng đó người ta gọi là linh tính; Gaud đã chú ý lắng nghe tiếng bước chân bên ngoài, cảm thấy có người đến báo tin tốt của Yann.
Đúng vậy, sáng ra bố Yann đến. Ông bỏ mũ để lộ bộ tóc bạc có những búp xoăn như con trai và lại ngồi cạnh giường Gaud.
Ông cũng đau buồn lắm vì Yann là đưa con lớn nhất, quí nhất, là niềm vinh dự của ông. Tuy vậy ông không thất vọng, chưa thất vọng. Ông an ủi Gaud. Bảo những người mới đi về nói rằng sương mù dày đặc, khó đi, tàu Léopoldime có thể về muộn, ông còn nghĩ rằng tàu Léopoldime có khi nán lại ở đảo Feroe, có gửi thư về nhà cũng lâu mới nhận được. Điều đó đã xảy ra với ông cách đây mấy chục năm. Mẹ ông ở nhà tưởng ông đã chết, làm lễ cầu hồn. Tàu Léopoldime mới đóng còn khỏe, thủy thủ toàn những người giỏi...
Bà Moan loanh quanh cạnh hai người, cứ vừa đi vừa lắc đầu. Thỉnh thoảng bà liếc nhì tầm ảnh của Sylvestre treo trên tường, với những chiếc mỏ neo thủy quân và vòng hoa tang, bà chỉ cầu Đức mẹ trên đầu lưỡi thôi, bà căm thù Người đến xương tủy.
Gaud lắng nghe những lời của ông già khuyên nhủ, với lòng trìu mến sâu sắc; có ông bên cạnh thế cũng đủ là một niềm an ủi, một sự động viên. Nước mắt cô lặng lẽ rơi và trong lòng thầm cầu khấn Đức mẹ.
Có lẽ con thuyền còn nán lại ngoài ấy thật. Gaud cũng nghĩ như thế. Cô đứng lên chải đâu, chỉnh đốn lại cách ăn mặc như để chuẩn bị đón người đi xa sắp về. Và trong mấy ngày tiếp theo cô lại đợi.
Bây giờ là cuối thu. Ngày ngắn lại, trời chóng tối. Trong nhà tối, ngoài đường tối, cả xứ Brelaque tối.
Cả ngày trời lúc nào cũng như vào lúc hoàng hôn. Mây đen từng mảng chạy trên trời bỗng đang trưa mà lại tối xịt lại. Gió gào không lúc nào ngớt nghe như tiếng đàn ócc trong nhà thờ rền vang những điệu buồn thảm. Cũng có lúc gió thổi ngay sát cánh cửa như tiếng gầm của mãnh thú.
Gaud đã trở lên xanh xao, suy sụp như một bà già. Nhiều lúc cô mân mê những đồ đạc của Yann, bộ quần áo cứ gấp vào, mở ra, nhất là cái áo len mang hình dáng của Yann; trải trên bàn, chiếc áo trông mang dáng như Yann đang nằm, hai vai và ngực trông thật giống. Gaud đã đặt chiếc áo lên giá để áo để áo khỏi mất nếp, giữ được lâu hình dáng của Yann.
Chiều đến, sương mù từ dưới đất bốc lên, khói bếp từ các mái tranh bay ra; người từ miền biển đã về, họ như những con chim theo gió lạnh bay về. Những buổi tối ngồi thức chuyện trò thật đầm ấm. Tình yêu được nhen nhóm trở lại.
Tâm niệm rằng con tàu Léopoldime đang nán lại ở một hòn đảo nào đấy, Yann sớm muộn sẽ về, Gaud vẫn kiên trì chờ đợi.
Nhưng Yann đã không về. Một đêm tháng Tám ở ngoài khơi tăm tối của Islande, giữa tiếng gầm gào của sóng gió, lễ thành hôn đã được tổ chức giữa Yann và biển cả.
Biển cả đã nuôi dưỡng anh, đã bồi đắp cho anh trưởng thành. Đến nay biển cả lại lấy đi anh, cho riêng mình biển. Hôn lễ đã được cử hành dưới những cánh buồm no gió, căng phồng, vật vã, đảo điên, để che kín lễ hội, cô dâu đã lớn tiếng ra oai, làm át đi mọi tiếng kêu gào. Còn anh, nhớ đến ngừơi vợ bằng xương bằng thịt ra sức chống trả. Cho đến lúc không sao được nữa, giang tay ra đón biển, miệng đầy ắp nước, rên lên như con bò tót, chìm xuống nơi sâu thẳm của đại dương.
Dự lễ cưới có tất cả những người đã được mời đến trước đây, chỉ trừ có Sylvestre đang nằm tại mảnh đất xa xôi tận bên kia trái đất...

HẾT


Xem Tiếp: ----