Dịch giả: Nguyễn Phan Quế , Luyện Xuân Thiều, Luyện Xuân Thu
CHƯƠNG 3 (tt)

MẸ CON HỘI NGỘ “NGHIỆM THU” RẤT MÃN NGUYỆN
Thời gian trôi nhanh, Đình Nhi đã sống ở nhà bà được hơn một năm. Cháu bắt đầu tỏ ra chán ghét những tri thức vốn đã thuộc làu làu trong lòng. Bà biết được rằng sự giáo dục của mình không thể theo kịp sự phát triển trí lực của Đình Nhi, hy vọng tôi sẽ trực tiếp giáo dục ở bước tiếp theo. Vì Đình Nhi và cũng vì để cho bà vất vả đã lâu nay có thể đến trường của ông để đoàn tụ, tôi quyết định lợi dụng kỳ nghỉ thăm nhà trong dịp tết năm 1984 đưa Đình Nhi trở về Thành Đô.
Để tránh thời gian cao điểm chạy tàu, tôi quyết định đi vào hôm tất niên. Buổi tối hôm trước trên tàu còn đông như nêm cối,, vậy mà giờ lặng ngắt không một bóng người. Trong toa chỉ có tôi ngồi. Tuy có thể nằm xuống chỗ ngồi của ba người nhưng lại lạnh đến nỗi không thể chợp mắt. Qua một đêm, cuối cùng vào ngày mồng 1 Tết, tôi đã nhìn thấy đứa con gái mong mỏi bấy lâu được gặp mặt.
Nỗi niềm vui mừng của cảnh đoàn tụ kể sao cho hết, tình hình về Đình Nhi cũng khiến tôi hết sức hài lòng.
Tính cách của cháu phát triển rất lý tưởng, nhiệt tình, chủ động, ý thức tham dự rất mạnh. Ngày Tết, những người đến chúc Tết bà ngoại rất nhiều. Mỗi khi có khách, Đình Nhi lại ra giúp tiếp đãi khách, lại còn chủ động biểu diễn tiết mục, khách vỗ tay tán thưởng khiến Đình Nhi càng phấn khởi, cháu thường kéo tay khách khi ra về: “Các bà đừng đi, cháu còn chưa biểu diễn hết cơ mà …”. Bà ngoại vội vàng nói giúp khách rằng, mọi người còn phải đi chúc tết những nơi khác. Nếu muốn để Đình Nhi biểu diễn hết thì phải mất một tiếng đồng hồ, vì ngoài biểu diễn ca múa, đọc thơ, cháu còn thích tự biên tự diễn, những bài ca múa do cháu hứng khởi sáng tác phải đến khi bản thân thấy mệt cháu mới kết thúc.
Khả năng lý giải và khả năng tự kiềm chế của Đình Nhi vẫn phát triển tốt, phàm là những việc không cho phép cháu làm, chỉ cần giảng giải kỹ đạo lý cho cháu, cháu sẽ nỗ lực tự kiềm chế không làm. Thí dụ: cậu Vệ Trung nhờ bạn cùng học mua ở Thẩm Quyến về một chiếc raido cassete âm thanh nổi, cậu thường ghi những lời bài hát, lời đọc thơ, lời nói của Đình Nhi vào trong băng, sau đó mở ra cho cháu nghe, để cổ vũ cháu học tập. Đình Nhi rất muốn chơi đùa với chiếc radio cassete, nhưng cậu Vệ Trung không cho Đình Nhi động đến đài, nói để đến khi lớn lên sẽ dạy cháu cách dùng, cháu bèn nhẫn nại không động đến.
Có lúc, bạn cùng học của cậu cho Đình Nhi nghịch cassete, Đình Nhi liền nói: “Đợi đến khi cháu đi học, cậu sẽ dạy cháu, cậu yêu cầu cháu bây giờ không được động đến”. Quan niệm phải trái của cháu rất rõ, có lần cháu làm việc trái, bèn chủ động thỉnh cầu trừng phạt: “Bà đánh cháu đi!”. Nếu như có đạt thật một hai roi cháu cũng không khóc. Năng lực tư duy trừu tượng của Đình Nhi phát triển rất nhanh, đã có thể suy diễn lô-gíc theo chuẩn mực. Trong hơn 10 ngày đợi tôi đến đón, Đình Nhi nói: “Cháu muốn có mẹ!”. Cậu ruột đùa nói: “Cậu muốn coóchị, cháu đòi được chị cậu đến, cháu sẽ có mẹ!”. Đình Nhi suy nghĩ một lát liền nói: “Cậu yêu cầu mẹ cháu tới, cậu sẽ có chị!”. Nhiệt tình học tập của Đình Nhi rất cao, bà ngoại dạy cháu học câu thơ: “Gà cất gáy, trời hửng sáng, mọi người thức dậy mở cửa…”. Trên đường từ phía nam đến phía bắc nhà máy, cháu nhìn thấy một con gà trống liền đọc lại câu thơ trên. Nửa năm trước khi tôi trở về thăm nhà, cháu đã nhận biết hơn 20 cuốn sách tranh thiếu nhi, lần này cháu còn có thể vừa lật sách vừa giảng cho tôi những nội dung cháu đã đọc thuộc như “Bướm đến nhà hoa” và “Câu chuyện bốn mùa …”. Cháu còn rất thích trò chơi chữ, một loại là từ phản nghĩa, một loại là từ đồng âm.
Đối với từ phản nghĩa, cháu bắt đầu biết từ khi 2 năm 3 tháng tuổi. Bắt đầu cũng rất ngẫu nhiên. Hôm đó, bà ngoại và Đình Nhi đứng trên sân thượng nhà bốn tầng, bà ngoại tự nhiên nói một câu: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”. Khi trở về phòng bếp, Đình Nhi tự nhiên nói: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”, bà ngoại nghe vậy rất mừng bèn giảng giải cho Đình Nhi: “Bà nói đứng thật cao, cháu phải đối lại là nhìn thật xa” và luyện vài lần cho Đình Nhi. Bữa cơm trưa ngày hôm sau, cậu Vệ Trung nói: “Đứng thật cao”, Đình Nhi bèn mở to mồm đối lại: “Nhìn thật xa”; cậu nói: “Nhìn thật xa, Đình Nhi đối lại: “Đứng thật cao”. Khi tôi biết được sự việc này từ trong thư, tôi lập tức thỉnh cầu mẹ bắt đầu cho Đình Nhi học từ phản nghĩa. Khi tôi về thăm nhà vào dịp hè, tôi lại dạy cho Đình Nhi một số từ phản nghĩa, có lẽ những trò chơi này đã không ngừng thức tỉnh cháu chú ý phân biệt sự vật, chơi mấy tháng mà vẫn không thấy chán.
Đối với những từ đồng âm thì là do trước Tết cháu học được từ một bài hát như sau:
Hoa đo đỏ, cỏ xanh xanh
Hát bài ca, cười yên ngựa
Ngựa gì? – Ngựa to
Gì to? – Núi to
Núi gì? – Núi cao
Gì cao? – Tháp cao
Tháp gì? - Bảo tháp
Gì bảo? - Quốc bảo
Gì quốc? – Trung Quốc
Tôi cảm thấy hình thức hỏi đáơ của bài này rất thú vị. Chỉ cần đổi câu sau thành: Gì quốc? Trung Quốc. Gì trung? Miền trung, hoặc Lòng trung, Gia trung … sẽ có thể biến thành một phương pháp huấn luyện từ vựng lớn vô hạn. Vậy là, trước tiên tôi dạy Đình Nhi chơi trò đếm số, người thua hỏi, người thắng trả lời, khi không trả lời được sẽ mất tư cách trả lời, biến thành người hỏi. Để Đình Nhi học được nhiều từ mới trong trò chơi, tôi thường “mượn” một từ cho cháu khi cháu không trả lời đư vì chất lượng băng quá tồi, khi xem đến đoạn “Kim Ngọc lương duyên” thì chuyển sang xem một màn trình diễn vũ balê của Nga, Đình Nhi bỗng khóc oà lên, cứ nằng nặc đòi xem “Hồng lâu mộng”. Tôi dỗ thế nào cũng không nín, cuối cùng đành để Tiểu Lý dẫn cháu về trước.
Tôi cũng rất thích “Hồng lâu mộng”, khi mang thai Đình Nhi, tôi đã đọc lại “Hồng lâu mộng” lần thứ hai. Phải chăng cháu đã được di truyền từ đấy? Bà ngoại cũng thích “Hồng lâu mộng”, bà đã từng dẫn cháu đi xem bở Việt kịch “Hồng lâu mộng” chiếu trên tivi. Chưa đầy 3 tuổi mà Đình Nhi đã bập bẹ kể: “Giả Bảo Ngọc có một cô em gái họ Lâm. Sau đó Giả Bảo Ngọc lấy Tiết Bảo Thoa, cô Lâm buồn rồi chết”. Đây là câu chuyện bà ngoại dạy cháu. Hơn thế nữa, lúc ấy Đình Nhi đã biết yêu Lâm Đại Ngọc và ghét Tiết Bảo Thoa. Khả năng tiếp nhận và hiểu biết của cháu thật hơn hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa.
Cuối tháng 7, Đình Nhi bị sốt cao 40 độ C, phải nằm viện. Trong thời gian nằm viện, khi cắt cơn sốt Đình Nhi lại giết thời giờ bằng cách nghe kể hoặc xem lại bộ tranh liên hoàn “Hồng lâu mộng”. Sự say mê của Đình Nhi khiến mọi người trong viện đều phải ngạc nhiên. Tôi đã phải cất bộ sách ấy đi, để sau này lớn lên cháu còn có cái mà xem lại. Tháng 9 năm ấy, có lần tôi dẫn cháu đi xem bộ phim “Hồng lâu mộng”, kết quả thật bất ngờ, cháu nhớ truyện tốt gấp nhềi lần so với nghe kể truyện tranh liên hoàn.
Còn nhỏ tuổi như vậy đã cho tiếp xúc với “Hồng lâu mộng” có tốt không? Tôi cho rằng khôngc so gì là không tốt cả. “Hồng lâu mộng” là tác phẩm văn học cổ điển ưu tú nhất của dân tộc Trung Hoa, ảnh hươởn của nó không chỉ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật mà còn thấm sâu cả trong cuộc sống xã hội và truyền thống lịch sử. Đó là một bộ phận của nền văn minh Trung Hoa. Sớm tiếp xúc với nó, lại có một chút hiểu biết về thơ ca cổ điển (lúc bấy giờ Đình Nhi đã có thể đọc thuộc lòng hơn chục bài thơ cổ), có thể sớm làm cho trẻ con cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học cổ điển, nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình hình thành năng khiếu thẩm mỹ của trẻ em. Cái đẹp của văn chương cổ điển, cái đẹp của nghệ thuật dân gian, cái đẹp của thế giới tự nhiên, cộng với cái đẹp về chuẩn mực đạo đức, về quan niệm giá trị và về nhân sinh quan mà tôi đã dày công dạy cháu bằng cả lời nói và việc làm của chính bản thân mình. Tất cả những thứ đó đã tạo ra cho Đình Nhi một thế giới nội tâm vô cùng phong phú và bồi dưỡng cho Đình Nhi một khả năng hiểu biết khá chuẩn xác. Nếu biết kiên trì dạy dỗ, nếu biết rèn luyện cháy một cách nghiêm khắc và khoa học, thì chắc chắn rằng một ngày không xa sẽ có được một kết quả không ngờ. Nếu các cháu không được tiếp nhận một giáo dục từ sớm các cháu sẽ không bao giờ có được kết quả đó. Đình Nhi đang thực hiện điều mơ ước của mình.
Tương lai xa vời còn chưa biết thế nào. Trước mắt, có điều này đã củng cố vững chắc lòng tin của tôi đối với cháu. Lần ấy tôi dẫn Đình Nhi đến rạp xem một vở kịch nhi đồng. Tại đây sự phản ứng của Đình Nhi, một đứa trẻ mới 3 năm 3 tháng tuổi, đã chứng tỏ cháu có một khiếu thẩm mỹ hơn người.
Ngày mồng 2 tháng 7, xem vở kịch “Nguyệt Cầm và chú hổ con”, Đình Nhi rất cảm động. Sự phản ứng của Đình Nhi không chỉ rất mạnh mẽ, mà còn chính xác và đúng đắn nữa. Đối với các nhân vật, Đình Nhi không chỉ có thái độ yêu ghét rõ ràng, mà còn tỏ ra khá hiểu tâm lý và hoàn cảnh của nhân vật. Đơn cử một ví dụ, La Ca, nhân vật chính của câu chuyện, sau khi không may sa vào hầm bẫy của tên phú ông đã khẩn thiết giục bạn mình, một chú hổ con, còn đang ngơ ngác đứng trên miệng hố, hãy mau chóng rời xa chốn nguy hiểm này. Không nỡ bỏ bạn trong cơn hoạn nạn, chú hổ con không chịu chạy đi. Lúc đó dưới chỗ khán giả, các trẻ nhỏ cũng sốt sắng giục hổ chạy đi, co cháu còn đứng dậy hét lên” “Hổ ơi! Chạy đi, chạy mau đi!”. Đình Nhi quay sang tôi nói nhỏ: “Mẹ ơi! Chú hổ con không nên chạy đi, mẹ nhỉ?”. Tôi hỏi tại sao. Đình Nhi nói: “La Ca vẫn còn đang ở dưới hố kia, hổ con phải canh giữ cho bạn mình chứ, chạy đi làm sao được”. Tôi rất vui mừng là cháu đã hiểu được ý nghĩa sâu sắc của tình tiết này trong vở kịch: tình bạn còn quý hơn cả sinh mệnh của mình. Điều này nhiều khán giả nhỏ, ở đó phần lớn là các cháu học sinh tiểu học, đều chưa hiểu được ý nghĩa của tình tiết trên.
SỰ LỰA CHỌN ĐẦY ĐAU KHỔ, NHƯNG CHÍNH XÁC: KHÔNG LÀM “THẦN ĐỒNG”
Mới 3 tuổi mà Đình Nhi đã tỏ ra có nhiều ham muốn: muốn học tiếng Anh, muốn tập đọc, lại còn muốn cả học toán, học hội hoạ, đánh đàn cũng rất ham. Tôi chỉ có thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của cháu, vì không có thời gian, không có tiền và không đủ khả năng. Ví dụ như về tiếng Anh, lúc này cháu đã có thể nói được từ mới tiếng Anh khá thuần thục, tự cháu còn đặt ra một số câu rất ngộ nghĩnh và buồn cười, cũng giống như những bài thơ “thất ngôn cổ phong”, cháu tự làm ra trước đây mà đọc lên không ai hiểu nổi. Chỉ tiếc là, lúc đó không kiếm đâu ra những băng ghi bài học tiếng Anh, khả năng của tôi cũng không thể đủ dạy cháu. Môn đó đành phải gác lại. Theo nguyên tắc “tiềm năng đệ giảm”, Đình Nhi đã mất đi cơ hội trở thành thần đồng.
Tôi hiểu rất rõ, mỗi phút của trẻ thơ đều vô cùng quý báu, thế nhưng tôi vừa bận công tác lại vừa bận học tập, trước kỳ thi tốt nghiệp chương trình tự học đại học cuối năm 1985, tôi quả thật không còn thời gian và cả tiền bạc nữa để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng”, do tôi tự vạch ra.
Làm thế nào đây? Chẳng lẽ tôi lại phải hy sinh một lần nữa cho Đình Nhi, ngay cả tự học đại học cũng phải bỏ hay sao? Theo dòng suy nghĩ ấy: Nếu tôio từ bỏ công việc tự học đại học theo Đài truyền hình, tôi có thể bắt tay vào dạy cho Đình Nhi chương trình tiểu học. Tôi dự tính chỉ mất khoảng 3 năm Đình Nhi sẽ học xong chương trình này. Cứ cho là mất 6 năm nữa Đình Nhi học xong chương trình trung học, thế thì chỉ khoảng 12 tuổi, Đình Nhi sẽ thi vào đại học được rồi. “Thời gian biểu” này hấp dẫn biết bao! Còn tôi, nếu bỏ dở việc tự học đại học có thể tôi bị mất đi công tác biên tập, một công việc mà tôi luôn yêu thích. Và như vậy, nguồn sống của mẹ con tôi sẽ mất đi chỗ dựa vững chắc. Trước khi thi đỗ đại học, có thể tôi vẫn phải gác lại kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng” vì lý do kinh tế. Hơn nữa, nếu ĐÌnh Nhi theo học hết chương trình từ tiểu học đến hết trung học tại nhà, tôi làm gì có đủ thời gian để dạy cháu, và nhất là các môn toán, lý, hoá bậc cao trung tôi hoàn toàn không có khả năng, cũng không đủ tiền để mời gia sư cho cháu.
Làm thế nào đây? Tôi đau khổ tự hỏi mình: Lẽ nào lại phải bỏ dở kế hoạch bồi dưỡng “thần đồng” tại đây? Để thuyết phục mình, tôi quyết định tạm gác vấn đề kinh tế sang một bên, hãy suy nghĩ về những ảnh hươởn mặt trái đối với Đình Nhi khi thực thi kế hoạch “thần đồng”.
Trước hết, nếu theo học tại nhà, Đình Nhi sẽ bị đánh mất đi một cơ hội vô cùng quý báu, đó là được sôốn những năm tháng tuổi thơ với những người bạn cùng trang lứa với mình. Như vậy sẽ hạn chế rất nhiều đến sự phát triển khả năng giao tiếp của cháu. Nếu những tri thức của tôi thực sự có ảnh hưởng đến sự phát triển của Đình Nhi, thì cháu rất khó có khả năng trở thành một nhân tài về khoa học tự nhiên. Nếu là một nhân tài về khoa học xã hôi, thì khả năng giao tiếp, khả năng hoà đồng với cuộc sống xã hội phải là một nhân tố vô cùng quan trọng, mà nhưữn khả năng đó chỉ có thể hình thành trong cuộc sống tập thể. Vì vậy, phương án tự học tại nhà thực tế sẽ trở ngại rất lớn đến sự phát triển sau này của Đình Nhi.
Hơn nữa, những việc làm của mẹ bao giờ cũng là một tấm gương có ảnh hươởn nhất đối với con gái, nếu tôi dứt khoát bỏ dở kế hoạch tự học, thì làm sao có thể giáo dục được con có được phẩm chất đạp bằng mọi khó khăn, quyết đạt được mục đích của mình?
Còn điều này nữa, nghĩ cùng buồn cười nhưng nó là sự thực, xưa nay những người con gái có tài thường rất khó kiếm được chồng. Nếu Đình Nhi sau này may mắn trở thành “nữ thần đồng”, liệu cháu có thể lấy được ai?
Qua mấy ngày đêm suy nghĩ dằn vặt, tôi nhận ra rằng: có lẽ từ bỏ ý nghĩ trờ thành “thần đồng” là sáng suốt hơn cả. Thứ nhất là cứ tuần tự như tiến theo học từ mẫu giáo đến đại học cùng với các bạn cùng tuổi, như vậy về mặt tuổi trẻ sẽ không mâu thuẫn gì với chế độ giáo dục hiện hành. Thứ hai là sau khi từ bỏ sách lược “đơn thương độc mã” trong việc học hành, vẫn có thể tập trung sức lực vào những phần trọng điểm trên cơ sở phát triển toàn diện, như vậy càng có lợi cho sự phát triển trí lực và hình thành nhân cách cho Đình Nhi, chuẩn bị đầy đủ cơ sở để Đình Nhi tiếp tục phát triển trong tương lai. Thứ ba là, việc tự học đại học đối với tôi có tác dụng bổ sung và điều chỉnh kiến thức, để xứng đáng hơn với tư cách cô giáo tại nhà đối với Đình Nhi. Ngoài ra về mặt kinh tế, đây là kế hoạch duy nhất có thể thực hiện được. Xét cho cùng, tự học đại học có quan hệ rất lớn đến việc giành lấy một chức danh chuyên nghiệp trong làng biên tập, để cải thiện điều kiện sống của gia đình, tôi buộc phải đầu tư một thời gian tối thiểu để hoàn thành việc tự học.
Nghĩ ra được những điều như vậy, những dằn vặt làm tôi mất ăn mất nghủ những ngày qua, dường như tiêu tan hết. Sau này, qua báo chí, tôi đọc được mấy bài viết về những con đường quanh co của các bậc “thần đồng”, tôi cảm thấy mình là may mắn khi lựa chọn con đường này.
Cuối năm 1999, trên tờ “Báo thanh nhiên đặc khu”, có bài về “vị thần đồng”, tuổi trạc Đình Nhi, năm 14 tuổi đã được Trường Đại học Nam Khai nhận miễn thi vào học lớp chuyên toán của trường tại cơ sở Hắc Long Giang, ba năm sau nhà trường “quyết định đuổi học”. Không phải cháu đó không đủ thông minh, mà là từ năm thứ nhất đến năm thứ ba không chịu học hành, thường trốn học đi chơi trò điện tử, hoặc say sưa đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đến nỗi các bộ môn chính mà nhiều lần thi vẫn không đủ điểm. Những thành công xuất sắc trước đây đã tạo nên ở cháu một tính cách cực kỳ kiêu ngạo, không bao giờ chịu nghe lời khuyên bảo của người khác. Mãi đến khi anh trai đến đón về quê, cuối năm 1998, cháu mới chợt nhận ra rằng, 18 tuổi mà không được đi học, thì chỉ còn cách đi cày ruộng. Lúc đó cậu bé mới hiểu được mối quan hệ giữa học và cuộc sống, cậu lại quyết tâm lao đầu vào học tập, nửa năm sau lại thi đỗ vào Trường Nam Khai.
Ngoài ra, có một lớp cơ sở thuộc khoa Toán trường Đại học Sư phạm Hoa Đông ở Thượng Hải, năm 1987 đã tiếp nhận một sinh viên mới 12 tuổi. Kỳ thi cuối học kỳ của ngay năm học đầu tiên đã có mấy môn không đủ điểm, nhà trường đã nghĩ đến cách khuyên cháu nên thôi học (chưa biết kết quả ra sao!). Có một lớp khác một học kỳ đã phải đuổi đến 3 học sinh, một cháu vì tội yêu đương quá sớm không chịu học hành, còn hai cháu kia cũng lại vì quá say mê chơi trò điện tử và đọc truyện kiếm hiệp.
Các chuyên gia của ngành giáo dục cho rằng, các cháu thiếu niên vốn có một trí lực siêu phàm ấy, sở dĩ không theo được tiến trình đại học, không phải vì các cháu kém thông minh. Các cháu tuổi còn quá nhỏ, tố chất tâm lý, khả năng phân biệt đúng sai, khả năng tự kiềm chế, thậm chí cả khả năng biết khắc phục khó khăn để vươn lên sau mỗi lần thất bại … đều chưa chín chắn, đạt tới trình độ mà một sinh viên đại học cần có. Ngoài ra, các sinh viên tuổi còn niên thiếu, thông thường chỉ giỏi về các môn toán, lý, hoá, còn các môn văn, sử, triết thì lại rất mỏng manh. Nhìn chung, các bộ môn về khoa học tự nhiên dễ “mau chóng đạt được thành công”, còn các bộ môn về khoa học xã hội, thì thường phải dựa vào vốn sống và sự chín chắn về tâm lý. Mà phiền một nỗi, nếu văn mà không giỏi, thì khi phân tích, suy luận trong một bài toán, lý, chắc sẽ gặp khó khăn. Một giáo viên chủ nhiệm của một lớp sinh viên ở Thượng Hải – ông Trần đã nhận định: chính cơ cấu kiến thức của những sinh viên non trẻ đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của họ.
Đối chiếu lại, thực trạng hiện nay của Đình Nhi đã chứng tỏ sự lựa chọn trước đây của tôi là hoàn toàn chính xác, dù rằng cháu đang học ở một trường nổi tiếng nhất thế giới: Trường Đại học Harvard. Cháu vẫn không có khả năng giành được những thành tích mà mọi người đều kinh ngạc. Khi tôi đang viết mấy dòng hồi ký này, cũng là lúc Đình Nhi vừa hoàn thành kỳ thi giữa học kỳ của năm học đầu tiên tại Trường Đại học Harvard. Điểm số của cháu là 3 điểm A, một điểm B, trong đó có những môn, điểm số của cháu cao hơn cả những người được xếp loại A.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, tôi không phản đối việc bồi dưỡng “thần đồng” và việc tiếp nhận những sinh viên tuổi còn niên thiếu. Trái lại, tôi nghĩ rằng nên có kế hoạch và bồi dươỡn nhiều hơn nữa những tài năng như vậy. Chỉ có điều trong hoàn cảnh “không bắt đợc cả cò lẫn trai”, như tôi. Tôi đã lựa chọn con đường ưu tiên giáo dục tố chất. Đình Nhi của tôi tuy không trở thành “thần đồng” ngay từ thời niên thiếu để mọi người ngưỡng mộ, nhưng cháu vẫn đang trở thành một con người phát triển toàn diện, có đầy đủ tiềm năng để phát triển tiếp theo.
TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN TRÍ LỰC – ĐÃ CHƠI PHẢI CHƠI RA TRÒ
Đối với tôi từ bỏ kế hoạch bồi dưỡng “thần đồng”, chỉ là việc từ bỏ việc học chương trình tiểu học trước tuổi, chứ không từ bỏ việc giáo dục từ sớm tại nhà cho Đình Nhi. Trái lại tôi sẽ dồn hết thời gian và công sức, tiếp tục bồi dưỡng Đình Nhi phát triển toàn diện.
Thời gian đứa trẻ từ 3 đến 6 tuổi, quan trọng nhất vẫn là phải ưu tiên phát triển trí lực. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, cấu tạo đại não con người, đến 6 tuổi đã cơ bản hoàn thành. Mặc dù các nhà khoa học Mỹ và Canada qua nghiên cứu gần đây đã phát hiện những thay đổi to lớn trong một số bộ phận then chốt trong đại não con người, còn tiếp tục phát triển cho đến tuổi thanh niên, nhưng đó chỉ là sự thay đổi được gọi là giải phẫu học “điều chỉnh”. Các nhà khoa học sự phát triển của đại não để tiến hành giáo dục. Có vậy, mới có thể đẩy nhanh sự phát rtiển cả về trí lực, rõ ràng là thời gian đứa trẻ từ 0 đến 6 tuổi. Đó là thời gian đại não phát triển nhanh nhất.
Tiếp tục phát triển trí lực, có nghĩa là tiếp tục bồi dưỡng khả năng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ cho Đình Nhi, bao gồm khả năng quan sát, trí nhớ, khối lượng từ vựng, sức hiểu biết và khả năng giải quyết vấn đề, đồng thời cũng bồi dưỡng khả năng tư duy trừu tượng, khả năng nắm bắt vấn đề … Những khả năng đó được coi là sẽ không thay đổi sau khi đứa trẻ tròn 6 tuổi, hơn nữa nó luôn liên quan mật thiết đến kết quả thi cử của các kỳ thi lên lớp sau này. Có thể nói rẳng, mỗi một giờ phút hai mẹ con tôi được sống gần nhau, đều là những giờ phút luyện rèn để phát triển trí lực cho cháu.
Khoảng tháng 7 tháng 8 năm 1984, trí lực của Đình Nhio đã có bước nhảy vọt. Khi đó công việc bề bộn, tôi vẫn dành ra thời gian ghi lại sự kiện đáng nhớ ấy:
Đình Nhi đã biết độc lập tuỳ hứng làm thơ. Đó là một buổi chiều của một ngày trung tuần tháng 8, tôi và cô bảo mẫu dẫn Đình Nhi đến nhà ăn của toà soạn “Tứ Xuyên nhật báo” ăn tối. Dọc đường, theo yêu cầu của tôi, Đình Nhi đã xuất khẩu một bài thơ về chiếc mầm cây nhỏ:
Nhánh mầm non, nhánh mầm cây ơi!
Hãy cho ta một chút gió trời
Lau hộ ta mồ hôi đọng trên vầng trán.
Ôi hạnh phúc biết bao!
Ta yêu mầm non biết nhường nào!
Đình Nhi đã đọc một hơi bài thơ đó, âm điệu vô cùng diễn cảm. Tôi coi trọng sự kiện này, không phải vì bài thơ đó đã thật hay, mà vì nó chứng tỏ rằng Đình Nhi đã có một bước độct phá mới trong tư duy sáng tạo và khả năng biểu đạt. Tối hôm sau, chúng tôi lại đến vườn hoa trên đại lộ Nhân Dân để ngắm nhìn vòi phun nước màu vừa được sửa sang lại. Tại đây, Đình Nhi cũng xuất khẩu một bài thơ tả cảnh. Tôi luôn cố ý dìu dắt cháu thực hiện những việc làm như vậy, dù đi chơi ở bất kỳ đâu, thì các cuộc du chơi ấy luôn trở thành những dịp để Đình Nhi hứng thú rèn luyện óc quan sát và khả năng biểu đạt.
Bước nhảy vọt về trí lực ấy của Đình Nhi còn biểu hiện ở khả năng quan sát. Trước đây cháu chỉ chú ý đến ở đâu có cái gì, mà phần lớn là những cái cháu đã biết. Giờ đây, cháu đã biết phân biệt được những sự khác nhau trong số những sự vật cùng loại, như phía trước Tổng phủ, dãy đèn đường ở phía Đông ít hơn đèn đường ở phía Tây mấy chiếc. Tự cháu quan sát và đã nói với tôi điều đó.
Mấy ngày trước, tôi dẫn Đình Nhhi đi xem hai bộ phim Mỹ “Cuộc chiến tranh giữa các vì sao” và “Bước ngoặt”. Xem bộ phim trước cháu được biết rằng, trên các vì sao xa xôi kia cũng có đủ loại người, cháu đã hỏi tôi khá nhiều câu, như “Tại sao tiếng thở của Water (một nhân vật của phim) lại không giống tiếng thở của chúng ta?”, “Những mật thám kia làm thế nào có thể ẩn nấp trong bụng Ador (cũng tên nhân vật trong phim)?”, “Những người đi đánh nhau tại sao phải đeo mặt nạ màu trắng?”.
Trên đường cùng mẹ đến cơ quan, cháu thường chỉ cho tôi những vật mà cháu chưa quen biết, đòi tôi phải cho cháu biết tên. Tôi nói cho cháu nghe tên từng thứ một, sau đó hỏi lại cháu: “Lá của cây hoa lăng tiêu giống cái gì nhỉ?”. Cháu nói: “Giống cái kim”. Tôi bảo cháu: “Giống lông chim chứ”. Nhưng khi quan sát kỹ thì thấy những chiếc lá thoạt nhìn giống lông chim kia, quả thực lại rất giống hàng ngàn chiếc kim thêu cắm dày đặc. Sự so sánh của cháu rất chính xác. Qua đó, tôi chợt nhận ra rằng, cùng một sự việc, song dưới con mắt trẻ thơ, hình ảnh của nó đã khác nhiều so với cách nhìn của người lớn.
Khi tôi đang ghi nhật ký, Đình Nhi hỏi tôi: “Mẹ đang xem sách yêu quái gì đấy?”. Tôi nói: “Mẹ đang giúp con ghi nhật ký, sau này nó sẽ trở thành câu chuyện về con”. Đình Nhi vui sướng nói: “Ôi, tốt quá, con xin cám ơn mẹ!”. Một lát sau cháu lấy những tấm thẻ kẹp sách ra chơi trò “đánh bài”, bỗng nhiên cháu nói: “Mẹ ơi, con muốn mẹ sống tròn một trăm tuổi, không được chết sớm hơn tuổi này đấy!”. Có lúc cháu cũng biết nói đùa: “A, hôm nay là ngày sinh nhật con mẹ nhỉ?” … Thật đáng yêu.
Tháng 9 năm 1984, Đình Nhi được tiếp nhận vào Nhà trẻ kiểu mẫu số 3. Với ý muốn là mong cháu hãy cố gắng, và cũng mừng vì ừ nay không phải nhờ bảo mẫu nữa, tôi đã mua tặng cháu một thứ đồ chơi mới.
Đó là một bàn cờ nhẩy. Tôi nghĩ rằng, cách đánh “nhảy cóc” của loại cờ này rất có lợi cho việc bồi dưỡng khả năng tư duy của trẻ nhỏ. Vì rằng, cách suy nghĩ để nhảy một nước cờ có tính trực quan hơn các loại cờ khác, nó giúp cho trẻ nhỏ hiểu biết và suy nghĩ về mối quan hệ lôgíc giữa “điều kiện” và “kết quả”, nó cũng rất tiện lợi cho việc giúp trẻ con phát triển khả năng tập trung chú ý và suy nghĩ về một vấn đề. Đầu tiên, tôi dạy cho Đình Nhi hiểu thế nào là “nhảy cóc”, sau đó dạy cho cháu biết thế nào để lợi dùng được quân cờ của mình và cả quân cờ của đối phương để làm những chiếc “cầu”, thực hiện những bước nhảy liên tiếp. Đình Nhi hiểu khá nhanh. Nhưng để giành được thắng lợi, cần phải tổ chức được những bước “nhảy dài”. Tôi và Đình Nhi tập đánh, cứ mỗi lần Đình Nhi có những bước “nhảy dài”,  cháu sung sướng lắm, coi đó là một thành công lớn. Dẫu rằng, cuối cùng cháu vẫn bị thua, nhưng càng chơi cháu càng thấy tự tin, càng chơi càng hứng thú. Cách chơi đầy tính thử thách của loại cờ này luôn hấp dẫn Đình Nhi. Hơn nữa, tôi coi việc ngồi đánh cờ với con là một phần thưởng cho cháu, mỗi lần cháu có những biểu hiện tốt. Cho tới tận lúc cháu tốt nghiệp tiểu học, được ngồi đánh cờ với mẹ vẫn là một điều vô cùng sung sướng đối với cháu.
Đồ chơi của Đình Nhi không nhiều, mỗi lần mua đồ chơi, tôi đều suy nghĩ, đồ chơi này có giúp ích được gì trong việc phát triển tâm trí của Đình Nhi. Từ 0 đến 1 tuổi, tôi chọn những đồ chơi nhận biết hình dạng, 1- 2 tuổi, tôi chọn những đồ chơi đòi hỏi trí tưởng tượng của trẻ, sau 3 tuổi, chọn các đồ chơi đòi hỏi trí lực nhiều hơn như cờ nhảy, cờ năm quân, mô hình kiến trúc, đàn điện tử … Ngoài ra, còn mua cả các công cụ nhỏ để sử dụng trong các trò trơi như kính phóng đại, đá nam châm, địa bàn, nhiệt kế, đồng hồ trò chơi, thước cuộn … Trong khi chơi luôn chú ý kích thích tính hiếu kỳ và lòng ham muốn tìm tòi của trẻ.