Dịch giả: Nguyễn Phan Quế , Luyện Xuân Thiều, Luyện Xuân Thu
CHƯƠNG 4 (B)

LỰA CHỌN NHÀ TRẺ TỐT, TỪ BIỆT TRƯỜNG NỘI TRÚ
Hằng ngày phải mang theo Đình Nhi đến cơ quan làm việc, thật vô cùng bận rộn. Sáng sớm, khi tiếng chuông đồng hồ báo thức vang lên, là bắt đầu một cuộc chiến mới, cho đến tận lúc Đình Nhi lên giường ngủ mới tạm coi là kết thúc. Lúc đó tôi mới có thời gian dồn tâm sức vào tập giáo trình đại học. Tiểu Viên, cô bạn hàng xóm, thấy cảnh ngộ của tôi quá vất vả, chị chủ động nhờ cô giáo của nhà trẻ nội trú, nể tình riêng cho Đình Nhi vào lớp học của cô buổi ban ngày. Tôi đang mừng vì từ nay ban ngày hoàn toàn được giải phóng, thì bất ngờ, khoảng gần trưa ngày thứ ba, Đình Nhi gào khóc nằng nặc đòi về nhà. Cô giáo sợ lãnh đạo nhà trẻ phát hiện ra, vội vã bảo Tiểu Viên mang cháu về. Thích đến nỗi đã có lần sơ ý làm “mất lòng” một người hàng xóm. Lần ấy Đình Nhi còn đang ở nhà bà ngoại, cháu đã ngây thơ nói với ông hàng xóm rằng: “Ông Đình ơi! Cháu không thích ông đâu, cháu chỉ thích cô giáo ở nhà trẻ thôi!”.
Nhờ Tiểu Viên xin lỗi cô giáo giúp tôi, và nhắc nhở Đình Nhi kàm như thế là không được. Cháu thẳng thắn nói: “Ở nhà trẻ, cô giáo không dạy hát, không dạy múa, không kể chuyện gì, ngay cả đồ chơi cô cũng không cho chơi, con không đi nhà trẻ ấy đâu!”. Tiểu Viên nói: “Lớp tuổi nhỏ là phải như thế chứ!”. Cô khuyên tôi nên nhờ Hội Văn nghệ liên hệ cho Đình Nhi được chính thức vào nhà trẻ đó. Phòng Tổ chức của Hội Văn nghệ tỉnh cũng đồng ý cho tôi một chỉ tiêu được cho con vào nhà trẻ nội trú, họ đang chờ tôi trả lời.
Thái độ bất bình thường của Đình Nhi làm tôi nhận ra cái nhà trẻ đó chỉ là loại nhà trẻ kiểu cũ, “đơn thuần là bảo mẫu và giữ trẻ”. Trẻ con ở đó chẳng được học cái gì. Nó không giống như nhà trẻ số 3 mà một đồng nghiệp của tôi đã giới thiệu. Ở đó họ thực hiện một chế độ giáo dục đổi mới, các loại đồ chơi nhằm phát triển trí lực của trẻ con được bày sẵn trên bàn, cháu nào thích chơi thứ gì, tự do lựa chọn, chỉ có điều chơi xong phải trả lại nguyên chỗ cũ.
Tôi cũng đã một vài lần đưa Đình Nhi đến Nhà trẻ số 3 đó tham quan, cháu rất thích. Song muốn vào được nhà trẻ kiểu mẫu đó, còn phải chờ đợi thêm mấy tháng nữa. Chọn được nhà trẻ ưng ý rồi, dù có chờ đến ba năm nữa vẫn cứ chờ.
Tôi nghĩ rằng, đừng nói đến loại nhà trẻ không coi trọng phát triển trí lực cho trẻ con, ngay cả các nhà trẻ rất coi trọng điều đó, thì tất cả các loại nhà trẻ nội trú không bao giờ tôi gửi con vào. Bởi vì, trẻ con dưới 6 tuổi rất cần sự giáo dục riêng lẻ của gia đình. Ở chúng, sự chú ý rất hay bị phân tán, tình cảm không ổn định, ý chí rất mỏng manh, không thích hợp với việc lấy giáo dục tập thể làm chính. Chúng không thể tách rời sự gần gũi âu yếm của cha mẹ, chúng rất cần tình cảm gia đình; sự bắt chước lời nói, sự phát triển hành động, sự hình thành tính cách của trẻ … không thể tách rời sự giáo dục riêng lẻ của cha mẹ. Nếu hằng ngày không có được sự giáo dục riêng lẻ của gia đình, thì đã làm mất đi môi trường và động lực chủ yếu để thúc đẩy sự phát triển cả tâm, sinh lý cho trẻ con. Để cho Đình Nhi hằng ngày đều được thưởng thức “món ăn tinh thần” của gia đình, tôi không gửi Đình Nhi vào Nhà trẻ nội trú.
Như vậy, Đình Nhi chỉ còn cách ngày ngày theo mẹ đi “chỉnh Đảng” mà thôi.
Ít lâu sau tôi đọc được hai mẩu tin quan trọng trên báo chí. Một là, Nhà hát kịch Thượng Hải có chiêu sinh một lớp chuyên tu về lý luận hý kịch, tháng 5 này sẽ tổ chức thi, thời gian học 2 năm, chủ nhiệm lớp là ông Dư Thu Vũ. Tin thứ hai: có một phụ nữ chờ việc ở Thành Đô, thành lập một nhà trẻ tư nhân, điều kiện ở đó tuy còn thô sơ, cô giáo lại chỉ có một mình là bà chủ đó, thế nhưng lại gần 10 đứa trẻ ở đó lại đang vui đùa rất vui vẻ, học phí lại không đắt lắm. Và điều quan trọng hơn là ngay ngày mai có thể cho con nhập học. Thế là tôi liền nộp học phí cho Đình Nhi. Về đến cơ quan tôi vội vã tìm gặp Tổng biên tập Lý Luỹ, hy vọng lãnh đạo sẽ cho phép tôi nghỉ công tác, có thời gian ôn luyện văn hoá để thi vào lớp đại học chuyên tu do thầy Dư Thu Vũ làm chủ nhiệm.
Tổng biên tập Lý Luỹ là một người luôn coi trọng việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, ông không chỉ đồng ý cho Ban biên tập chi khoản chi phí cho tôi đi học, mà còn làm công văn báo cáo với Đảng uỷ cơ quan phê chuẩn kế hoạch học tập của tôi. Tôi đã không phụ công lao của đồng nghiệp, trong cuộc đua tranh kịch liệt giữa các cán bộ chuyên ngành trong toàn quốc, tôi đã vượt qua được tất cả các cuộc thi văn hoá, thì chuyên ngành và thi năng khiếu. Tôi tự cảm thấy cũng không đến nỗi nào. Ngoài ra, tôi còn làm việc với Nhà hát kịch Thượng Hải và Xưởng phim Thượng Hải, chuẩn bị một số đề tài cho Ban biên tập chúng tôi. Xong xuôi công việc tôi mới trở về Thành Đô chờ kết quả.
Trong thời gian lên Thượng Hải dự thi, tôi gửi Đình Nhi tại nhà trẻ tư nhân mà tôi vừa kể. Để Đình Nhi được quan tâm chăm sóc tốt hơn trong 20 ngày tôi xa nhà lên Thượng Hải, tôi đã nộp lệ phí luôn cả tháng. Vợ chồng bà chủ động viên tôi cứ yên tâm đi công tác. Khi tôi trở về đến đón Đình Nhi, thấy cháu gầy rộc đi, không còn nhận ra cháu nữa. Chiếc khăn mặt mới tinh giờ bẩn thỉu như giẻ lau nhà. Những điều tồi tệ ấy tôi cũng đã lường trước, nhưng khi Đình Nhi cúi nhặt những hột cơm vãi ở dưới nền nhà cho vào miệng, và nhất là khi tắm cho cháu, thây gân cốt lộ ra. Tôi thương cháu như đứt từng khúc ruột.
Đến nay tôi vẫn chưa hiểu nổi trong 20 ngày xa mẹ, cháu bị đày đoạ như thế nào, tôi cũng không muốn trực tiếp hỏi cái người đã xử tệ với cháu. Tôi không bao giờ bước chân đến cái gọi là trẻ kinh khủng đó một lần nữa. Trong cuốn “Nhật ký dạy con”, ngay sau ngày từ Hồ Bắc trở về, tôi đã viết:
Sau 20 ngày xa cách, trí nhớ của Đình Nhi đã suy giảm quá nhiều, hầu như con không còn nhớ gì về bà ngoại và các cậu của nó, những bài thơ Đường trước đây con thường đọc thuộc lòng nay đều không nhớ nữa, những thói quen tốt đẹp mà tôi đã dày công rèn dũa tạo nên nay đều mất hết, như thói quen giữ vệ sinh, thói quen khi ăn uống. Về tính cách cũng có nhiều thay đổi, không còn ngây thơ hoạt bát như trước đây; tính hồ nghi, bụng dạ hẹp hòi ngày càng thể hiện rõ hơn. Giờ đây con hay chấp nhặt, hay cáu bẳn, hay gào khóc, khát khao được âu yếm nuông chiều. Khuôi mặt gầy tọp đi, những vết muỗi cắn đỏ hằn từng mảng. Tôi đã mất nhiều công sức để uốn nắn lại tính tình và thói quen của con, cốt sao cho tâm hồn và cả thể xác của con được lành mạnh như trước đây. Tôi đã phải thuê cả một cô giúp việc chăm sóc con. Một tháng sau, Đình Nhi trở lại bình thường. Lúc bấy giờ tôi rất lo, những gì đã xảy ra trong 20 ngày qua sẽ để lại những ảnh hưởng không tốt đối với cháu sau này, tôi luôn để tâm theo dõi, Giờ đây (2 tháng đã trôi qua), tôi thấy hầu như hậu quả không có gì ghê gớm lắm.
Thời gian đó, cha mẹ tôi mỗi tháng đã cố dành dụm lấy 10 đồng giúp đỡ tôi một nửa tiên công thuê người trông nom cháu. Khoản trợ cấp đó kéo dài cho đến lúc Đình Nhi chính thức được nhận vào Nhà trẻ số 3.
BỎ LỠ THỜI CƠ ĐƯỢC THEO HỌC THẦY DƯ THU VŨ, TÔI HỐI TIẾC VÔ CÙNG
Tháng 7 năm 1984, tôi được nhận vào học lớp chuyên tu về lý luận của Nhà hát kịch Thượng Hải với điểm thi cao nhất, hơn nữa lại là một nữ sinh duy nhất trong số hơn 40 người được may mắn nhận vào. Tay cầm tờ giấy gọi nhập học tôi vừa mừng vừa lo: mừng vì tôi đã thi vào một lớp đại học nổi tiếng với chuyên ngành mình yêu thích, tôi sẽ được theo học một nhà giáo mà tôi hằng ngưỡng mộ - thầy Dư Thu Vũ. Khi đó thầy Dư Thu Vũ cũng chưa có tiếng tăm nổi trội, nhưng tôi yêu quý thầy là vì qua những tác phẩm chuyên luận về hý kịch, thầy đã có cách nhìn độc đáo, một tư duy mới mẻ. Trái lại tôi rất lo, nếu tôi đi học ở Thượng Hải, thì Đình Nhi sẽ ra sao?
Trong thời gian học thi ở Thượng Hải, tôi đã cố ý đi dò hỏi những nhà trẻ ở gần nơi tôi theo học. Với điều kiện như Đình Nhi, cháu sẽ không thể được nhận vào bất kỳ một nhà trẻ nào ở Thượng Hải. Tôi cũng thăm dò về lệ phí khi gửi một cháu nhỏ, một nhà trẻ loại xoàng nhất, cả tiền ăn lẫn tiền công trông trẻ, một tháng ít nhất cũng phải nộp 60 đồng nhân dân tệ. Có nghĩa là, sau khi nộp tiền cho cháu xong, thì toàn bộ thu nhập của tôi trong một tháng cũng chỉ còn lại 10 đồng. Mặc dù toàn bộ tiền học phí đơn vị đã bao cho, song với 10 đồng bạc lo chi phí cho cả tháng, tôi làm sao sống nổi.
Trong lúc đang khó khăn bộn bề như vậy, mẹ tôi đã chìa bàn tay cứu giúp, mẹ bảo tôi cứ để Đìn Nhi lại theo mẹ về Hồ Bắc. Thế nhưng lần này tôi không thể tiếp nhận lòng tốt đó của mẹ được. Bởi vì em dâu sắp sinh cháu nhỏ, nếu trong lúc này tôi lại đẩy Đình Nhi cho mẹ, mẹ tôi cùng một lúc phải chăm sóc cả hai cháu nhỏ! Tôi không thể ích kỷ như vậy được.
Nếu cứ gửi con ở lại Thành Đô, để mình được rảnh rang đi Thượng Hải theo học. Đó cũng là một việc làm ích kỷ. Trong 20 ngày tôi học thi ở Thượng Hải vừa qua, Đình Nhi đã khổ sở như thế nào trong cái nhà trẻ tư nhân đó, khó khăn lắm mới giải quyết được hậu quả tồi tệ đó. Tôi thật không dám đi theo vết xe đổ đó.
Thế thì đành bỏ phí một cơ hội hiếm hoi là được lên Thượng Hải theo học hay sao? Tôi chưa cam tâm chấp nhận, đánh liều tìm đến cha đẻ của Đình Nhi, hy vọng sẽ cho cháu ở tạm với cha đẻ 2 năm. Nhưng anh ấy có nhưữn khó khăn riêng, Đình Nhi không thể ở đó được. Thật hết cách. Tôi đành phải viết thư cho thầy Dư Thu Vũ, nói rõ hoàn cảnh của mình, xin ý kiến thầy, cho phép tôi được tự học ở Thành Đô, đến kỳ thi tôi xin đến tham dự đầy đủ. Thật không ngờ thầy Dư đã thuyết phục được Ban lãnh đạo nhà hát chấp nhận lời đề nghị đó của tôi. Thế nhưng, càng nghĩ tôi càng thấy không ổn, học một lớp lý luận chuyên ngành như vậy theo phương thức hàm thụ thật là khó, chi bằng cứ ở lại Thành Đô tự học đại hcọ theo chương trình Đài truyền hình hướng dẫn, như vậy vẫn giữ lại một cơ hội sau này được nghỉ công tác theo học một lớp chuyên tu của một trường nào khác hơn không.
Như vậy, tôi đã bỏ mất một dịp may hiếm có được theo theo học thầy Dư. Chừng nửa năm sau, thầy Dư có dịp đi qua Thành Đô, rất muốn gặp tôi, thầy đã nhờ một nhà viết kịch nữ nhắn cho tôi biết, thế nhưng không hiểu vì sao bà ấy lại quên. Hai năm sau, thầy Dư Thu Vũ lại viết thư cho tôi, khuyên tôi nên thi nghiên cứu sinh do thầy hướng dẫn. Tôi tự biết rằng, tôi sẽ không thể nào vượt được môn thi Anh văn. Vì vậy, tôi đã viết thư “xin tạ lỗi” thầy. Cũng thật lạ, cái tình cảnh hữu duyên vô phận giữa tôi và thầy Dư ấy, lại được lặp lại trong câu chuyện giữa cha tôi và thầy Dư. Sau đó vài năm, tôi vô cùng kinh ngạc gặp lại bóng dáng của cha tôi trong vài lời “Tái bút” viết sau quyển “Bắc đường chìm nổi của một nền văn hoá” của thầy Dư. Hồi đó, tiếng tăm của thầy đã vang trong cả nước, bạn bè trong nước và thế giới đều đánh giá cao tác phẩm của thầy. Trong lời “Tái bút” của cuốn sách nổi tiếng ấy, thầy đã viết: “Trong tất cả những lời bình luận vừa qua, tôi thấy, nghiêm túc hơn và có kiến giải độc đáo hơn chính là bài viết của năm nhà giáo thuộc khoa Trung văn Trường Đại học Hồ Bắc, bài viết này đã được đăng trong mục Bàn về cuốn “Bước đường chìm nổi của một nền văn hoá” thuộc tờ Học Báo của nhà trường. Tôi rất ngạc nhiên trước những suy nghĩ sâu sắc và độc đáo của Trường Đại học Hồ Bắc về lịch sử văn hoá Trung Hoa và nghệ thuật văn xuôi đương đại”. Thầy Dư Thu Vũ đương nhiên không thể biết được rằng, trong những nhà bình luận đó có cha tôi và cái chuyên mục bàn về cuốn sách của thầy trong tờ Học Báo của nhà trường lại chính do cha tôi đề xướng. Tuy rằng, mục đích chính của cha tôi lúc đó chỉ là kích thích hứng thú của học sinh đối với bộ môn Tập làm văn mà cha tôi đang giảng dạy. Thế nhưng, đọc tác ph!!!13129_7.htm!!! Đã xem 92679 lần.

Đánh máy: venus4t.vns_hnu, me khoai
Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN – HÀ NỘI 2004
Được bạn: Ct.ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 5 năm 2011