Chương 9

    
áng hôm sau trời mưa và tôi không thể đi dạo như thường ngày. Nhưng sau đó, trong ngày, tia nắng mặt trời đã chọc thủng những đám mây. Khoác áo măng tô vào người, tôi báo cho Matty biết ý định đi ra ngoài của tôi.
John cùng với viên quản lý Langđon, đã dẫn ngựa đi thị sát các nông trại. Do đó, Joan phụ trách đẩy xe cho tôi.
Thật ra thì tôi muốn nghiên cứu cấu trúc của cột chống - như tôi đã nói - cao đến tận mái nhà. Bề dày của cột hơn một mét rưỡi và nếu bên trong trống rỗng thì nó dễ dàng chứa đựng một cầu thang. Tôi yêu cầu Joan đưa tôi đến tận chân cột, viện cớ muốn tận tay sờ mó lớp rêu bám bên ngoài, nhưng thật ra là muốn thăm dò độ dày của nó. Nếu giả thuyết của tôi đúng, bên trong phải có một cái thang xuống sâu dưới nền nhà và một đường ngầm, trổ ra ở nơi nào đó.
Rời khỏi sân, chúng tôi đi ngang qua các chuồng thỏ và theo đường mòn dẫn tới nhà người quản lý. Cánh cửa đang mở và bà Langdon xuất hiện, hết lời mời chúng tôi vào uống một ly sữa. Lúc bà ấy bước ra, chúng tôi đưa mắt nhìn chung quanh. Joan vừa cười vừa chỉ cho thấy mọi chùm chìa khóa treo trên đinh, đằng sau cánh cửa.
- Ông Langđon chẳng khác gì người cai ngục - Joan nói - Hầu như ông ta không bao giờ rời khỏi xâu chìa khóa lúc nào cũng nhảy nhót bên thắt lưng. Anh John nói với cháu rằng ông ta có tất cả chìa khóa phụ của lâu đài.
- Ông Langdon ở đây lâu chưa? - tôi hỏi.
- Dạ,lâu rồi. Từ cái hồi nhà này mới bắt đầu được xây. Ở Menabilỉy này, không có góc nào mà ông ấy không biết.
Trong trường hợp này - tôi nghĩ - chắc chắn viên quản lý biết được bí mật của đường hầm.
Joan, cũng tò mò như tôi, ghé mắt nhìn xâu chìa khóa, đọc những tấm phiếu nhỏ.
- Nhà nghỉ mát - Joan đọc, vừa mỉm cười tinh quái; vừa rút chìa khóa ra khỏi xâu và ve vẩy nó trước mặt tôi.
- Dì rất thích tham quan căn phòng nghỉ mát trên đỉnh đồi phải không?
Ngay lúc ấy, bà Langdon trở vào và Joan vội vã dấu chiếc chìa khoá đó vào túi áo. Chúng tôi trò chuyện một hồi, tôi uống sữa hơi vội vã còn Joan đưa mắt nhìn lên trần nhà bằng dáng điệu ngây thơ. Sau đó, chúng tôi cám ơn người đàn bà tốt bụng và hướng về hoa viên.
Thế là cháu đã chơi trò phóng lao phải theo lao rồi đấy nhé - tôi nói - Làm thế nào trả lại chìa khóa cho họ?
- Cháu sẽ nhờ anh John trả giùm - Joan cười nói – Chồng cháu sẽ bịa ra một câu chuyện nào đấy để làm vui lòng ông Langdon. Nhưng, bởi vì chúng ta đã có chìa khóa, thật là thiếu sót nếu không sử dụng đến nó.
Chúng tôi đã băng qua hoa viên. Sau khi lên dốc một hồi, chúng tôi mới có thể thấy biển. Chúng tôi hướng về ngôi nhà nghỉ mát. Nhìn quanh không thấy ai. Joan rút chìa khóa ra khỏi túi và đút vào ổ khóa.
- Thú thật với dì rằng - Joan nói - căn phòng này cũng chẳng có gì đáng xem. Cháu đã đến đây một, hai lần với cha chồng. Chỉ là một căn phòng mốc meo với những kệ đựng sách và giấy tờ. Tuy nhiên, từ cửa sổ phòng nhìn ra biển rất đẹp.
Joan đẩy ghế lăn của tôi ra khỏi ngưỡng cửa. Tôi đưa mắt nhìn khắp phòng. Tất cả đều có vẻ ngăn nắp, trên tường đầy sách. Các cửa sổ lớn hướng ra toàn vịnh Gribbes đến còn đường ven hai dẫn đến Forwey. Bất cứ ai từ hướng đông tôi Menabilly sẽ bị nhìn thấy từ đây, kể cả tàu bè.
Nền lát gạch được phủ lên trên bằng một lớp thảm, chỉ trừ ở một góc phòng, nơi bàn giấy của anh rể tôi, có một cái chiếu rất dày. Tất cả phản ánh tinh thần ngăn nắp của họ Rashleigh. Giấy tờ được sắp xếp kỷ lưỡng, rõ ràng. Trong khi tôi lục sách trên kệ, Joan ra ngoài đứng gác trên đường đắp đất. Những cuốn sách luật, khô khan, bụi bặm, những sách về kế toán. Ở một cái kệ thấp hơn gần bàn giấy, có những cuốn mang tên “Ngôi nhà thành thị của tôi”, “Menabiliy”, “Quy ước về hôn nhân” và “Di chúc”, Tất cả đều được sắp xếp có phương pháp và thứ tự. Cuốn “Di chúc” ở dưới ngay tầm tay của tôi và hấp dẫn tôi lạ thường. Tôi quay nhìn ra ngoài. Joan vừa hát nho nhỏ vừa hái trái phúc bồn tử để mang về cho con. Tôi lấy sách mở ra đọc: “Cha tôi, John Rashleigh sinh năm 1554, chết ngày 6-5-1624. Tôi lật sang trang khác có đoạn ghi “Nick Sawíc cũng như họ Sparke, được hưởng năm mươi liu, hai mươi liu dành cho những kẻ nghèo khó ở Fowey”
Tôi thật không phải khi tò mò đọc những điều không liên hệ gì đến tôi. Nhưng tôi cũng ráng liếc thêm một đoạn sau: “Tất cả những đất đai ở Cornouailỉes, ngôi nhà ở Fowey. Ngôi nhà ở Menabilly và mọi di sản đều thuộc về con trai thứ của tôi là Jonathan. Người thừa hành di chúc? Cuối cùng có đoạn bổ sung: “Ba mươi liu mồi năm để nuôi dưỡng John, con trai cả của tôi và Jonathan con trai thứ của tôi suốt đời phải bảo bọc Jọhn, phải lo cho nó phòng ở, thức ăn, thức uống và quần áo”
Tôi vội vàng đặt cuốn sách lại chỗ cũ, vì Joan đang trở lại. Tôi lùi bánh xe ra khỏi bàn giấy thì bánh bên phải bị khựng lại vì cán nhằm vật gì đó, một vật cũng dưới tấm chiếu dày. Tôi cúi xuống nhấc tấm chiếu lên thì thấy một cái khoen sắt dính vào một tấm đan (dalle).
Tay nắm chặt khoen sắt, tôi cố nhấc tấm đan lên thì kịp thấy bậc thứ nhất của một cái thang xuống sâu hút trong bống tối. Tôi vừa đậy lại tấm chiếu thì đúng lúc Joan, con gái đỡ đầu của tôi, bước vào.
- Thế nào? Dì đã tham quan căn phòng chưa?
- Xong rồi.
Một lúc sau cánh cửa được khóa trở lại như cũ. Trên đường trở về. Joan nói nhiều nhưng tôi lắng nghe không bao nhiêu. Đầu óc tôi đang bị ám ảnh bởi điều vừa mới khám phá. Chắc chắn là có một lối đi hay một đường hầm bên dưới căn nhà nghỉ mát, và vị trí cái bàn làm việc, tấm chiếu dày, chứng tỏ rằng người ta cố ý che dấu đường hầm bí mật này. Cái khoen sắt không bị rỉ sét. Tấm đan được nhắc lên dễ dàng và không bị rít, hay bị che phủ bởi màng nhện, chứng tỏ nó thường được mở ra..
- Sao dì im lặng thế? Dì nghĩ gì vậy? - Joan hỏi tôi.
- Dì nghĩ rằng dì hơi vội vã bỏ Lanrest đề về Menabilly này, nơi có quá nhiều điều bất ngờ.
- Cháu cũng muốn đồng quan điểm với dì - Joan nói
- Đối với cháu, cuộc sống ở đây đơn điệu quá. Họ Sawie thì bất hòa với họ Sparke. Con nít làm ồn, còn anh John, chồng cháu thì luôn than thở vì không được theo Peter ra trận.
Chúng tôi đã đi hết con đường đắp cao, và sắp đi ngang qua rào cản để vào hoa viên thì con của một đứa trẻ khoảng ba tuổi, chạy đón chúng tôi vừa loan tin:
- Mẹ ơi! Chú Peter đã về, cùng với những ông lính khác. Tụi con đã được vuốt ve ngựa.
Tôi mỉm cười với Joan:
- Dì nói có đúng không? ở Menabiilỵ này, không ngày nào mà không có điều gì mới mẻ.
Tôi không thích diễu hành ngang qua trước những cửa sổ của hành lang, nơi đó có thể mọi người đang tụ tập. Tôi yêu cầu Joan đưa tôi đi ngay vào cửa chính diện, thường là vắng vẻ vào giờ này, khi không có ai trong phòng ăn. Một khi đã vào bên trong nhà, người ta sẽ đưa tôi lên phòng. Sau đó tôi sẽ sai người gọi Peter lên để dò hỏi tin tức anh Robin.
“Hãy gọi một người hầu đưa dì lên phòng - tôi nói với Joan.
Nhưng trễ rồi. Lúc ấy Peter đang choàng tay qua vai Alice, bước sang tiền sảnh, theo sau là vài viên Sĩ quan, bạn của nó.
- Ô kìa! Dì Honor! - Nó kêu lớn - Cháu rất mừng gặp dì ở đây! Cháu biết tính dì mà. Cháu cứ sợ phải nghe tin dì trốn trong phòng còn Matty thì canh cửa. Giới thiệu với quý ông, đấy là dì Honor Harris của tôi, dì ta - hoàn toàn không thích làm quen với quý ông đâu.
Tôi chỉ muốn đánh cho nó một cái về cái tội ăn nói cẩu thả, nhưng tôi biết Peter thuộc lớp người vui tính, chỉ thích tếu. Các bạn của Peter xúm xít quanh ghế tôi. vừa cúi đầu chào vừa tự giới thiệu từng người một. Peter vẫn vừa cười vừa nói năng huyên thuyên, đẩy ghế lăn của lối vào hành lang, Nơi đó khá đông người, vì ba gia đình Sawle, Sparke và Rashleigh hợp lại, người nào cùng nói lớn. Ở đầu hành lang, gần cửa sổ, tôi thấy Mary đang nói chuyện với một người đàn ông nào đó cao lên, đôi vai rộng mà tôi cảm thấy quen thuộc vô cùng. Chợi Mary thấy tôi, chị nhíu mày và có vẻ hoảng hốt. Chị có vẻ mất bình tĩnh.. “Đã mười lăm năm rồi - tôi tự nhủ - Mình không thể ngất xỉu vì cuộc hôi ngộ bất ngờ này được.
Peter, hoàn toàn không biết gì, vẫn thong thả đẩy tôi về phía cửa sổ. Tôi thấy chị Mary làm điều mà nếu ở địa vị của chị ấy, tôi cũng phải làm. đó là nói vài lời cáo lỗi người khách, rồi lấy cớ đi lo điều hành công việc trong nhà, ười ta gọi anh là con chồn khát máu, còn phụ nữ dùng tên anh để dọa con nít khóc nhè:
“Nín đi! Grenvile sắp đến! Con chồn khát máu sẽ bắt mày đi đấy!”
- Không phải bằng cách đó - tôi dịu dàng nói - mà anh Bevil của anh nổi tiếng khắp miền tây.
- Không - chàng nói - Và anh cũng không có vợ như Bevil, không có một ngôi nhà mà anh thích, không có một đàn con vui vẻ như anh ta.
Giọng Richard đột ngột trở nên cứng rắn và cay đắng. Tôi quay mặt đi, ngửa người trên gối
- Con trai của anh có ở Buckland không? - tôi hỏi.
- Có. Nó ở gần đấy với người giám hộ.
- Nó giống ai?
- Dick à? Ồ! Thằng bé với cặp mắt buồn. Nó chẳng giống bên nội Grenvile chút nào. Nó là hình ảnh đáng ghét của mẹ nó!
Tôi rất buồn khi thấy Richard nhún vai với vẻ khinh bỉ.
- Anh không có ý định sống một cuộc đời hạnh phúc hơn sao?
- Không có vấn đề hạnh phúc nữa - chàng đáp - từ khi anh xa em.
- Em rất tiếc.
- Anh cũng vậy.
Trời bắt đầu tối. Matty tới thắp sáng các ngọn đèn.
- Trước đây khi em từ chối gặp anh một lần cuối - chàng nói - anh đã hiểu không có gì quan trọng hơn là phải sống. Và em đã nghe nói anh lấy vợ, đám cưới rất lớn, phải không? đúng! Sự thật là thế.
- Anh không hề thương vợ anh sao?
- Hoàn toàn không. Anh chỉ thương tài sản của bà ấy, thế thôi.
- Tài sản mà anh không được hưởng.
- Phải, không được hưởng lúc ấy. Nhưng bây giờ anh đang nắm trong tay tài sản đó.
- Richard, bây giờ anh thay đổi nhiều. Anh không còn hình ảnh của người em đã yêu.
- Nhưng em biết nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Mặt trời không còn soi sáng căn phòng đang có vẻ trống trải và buồn. Bất chợt, chàng cầm lấy bàn tay tôi, đưa lên môi.
- Lạy Chúa! Tại sao chúng ta phải sống trong tâm trạng này? - Chàng vừa hỏi vừa đứng dậy.
- Than trách thì có ích lợi gì? - tôi nói - đã lâu em không than thân trách phận nữa. Lúc đầu thì có, nhưng bây giờ thì không. Đã nhiều năm như bị đóng đinh trên giường, em đã biết đặt ra kỷ luật riêng cho chính mình.
Chàng tiến tới, đứng bên giường tôi, đôi mắt chúng tôi nhìn nhau.
- Chưa ai nói với em rằng em đẹp hơn trước nhiều hay sao? Tôi mỉm cười nghĩ đến lời của Matty.
- Thôi! Anh chuẩn bị lên đường đi! Em nghe tiếng vó ngựa trên sân. Lính của anh đang chuẩn bị.
Chàng quỳ xuống bên giường tôi, hai tay choàng qua vai tôi.
- Mỗi khi ăn thịt ngỗng rô-ti, em còn nhớ đến anh không?
Chàng lau giọt nước mắt lăn trên má tôi, mỉm cười, vuốt ve mái tóc tôi.
- Này cô bé dại dột, em có biết rằng, vì tự ái của em mà hai ta đều khổ không?
- Em biết chứ.
- Vậy tại sao em lại làm thế?
- Phải làm thế, nếu không anh sẽ ghét em, như ghét vợ anh.
- Em nói không đúng, Honor.
- Có lẽ nhưng nhắc lại chuyện xưa làm chi nữa.
- Anh đồng ý với em. Quá khứ đã xa rồi. Nhưng chúng ta còn lại tương lai. Hôn thú của anh đã được hủy bỏ, chắc em cũng biết. Bây giờ anh được tự do lấy vợ khác.
- Anh hãy lấy một người nào khác thừa kế gia tài giàu có.
- Anh không cần nữa. Bây giờ anh có thể vơ vét tất cả của cải ở Devon. Anh trở thành một viên tướng giàu sụ mà tất cả các cô gái ở miền tây này đều nhìn bằng cặp mắt thèm thuồng.
- Thì anh cứ tha hồ mà chọn lựa.
- Nhưng anh chỉ muốn có một và người đó là em.
Tôi đặt tay lên vai chàng và nhìn thẳng vào mặt chàng.
- Không, Richard.
- Tại sao?
- Tại vì em không muốn anh phải cưới một người tật nguyền như em.
- Em sẽ không bao giờ đổi ý?
- Không bao giờ.
- Nhưng nếu anh dùng vũ lực đưa em về Buckland?
- Cứ làm, nếu anh muốn, nhưng em không bớt tàn tật chút nào đâu.
Tôi gục đầu trên gối, mệt lả. Thử thách nặng nề khi gặp lại chàng. Chàng dịu dàng kéo mền đắp cho tôi. Tôi kêu khát, chàng im lặng đưa cho tôi ly nước. Cũng sắp khuya rồi. Chuông đã điểm tám giờ từ lâu. Tôi nghe tiếng vó ngựa sốt ruột dậm chân ở trên sân. - Anh phải đi Grampound - cuối cùng chàng nói.
- Vâng.
Chàng nhìn xuống sân một hồi. Các đèn trong nhà đều đã được thắp sáng. Trong hành lang, các cửa sổ phía tây đều mở rộng. Tiếng nhạc trỗi lên. Alice đánh đàn và Peter thì hát.
Richard quay lại chỗ tôi nằm và quỳ bên giường.
- Anh hiểu điều em cố gắng nói với anh. Bây giờ, giữa chúng ta không còn gì nữa,
Đúng không?
- Phải - tôi đáp.
- Anh sẽ yêu em mãi mãi - Richard nói - và em cũng sẽ yêu anh. Bây giờ đã gặp lại nhau rồi, chúng ta không thể mất nhau được nữa. Cho phép anh đến thăm em luôn nhé.
- Bất cứ khi nào anh muốn - tôi nói.
Ở bên dưới, mọi người đang vỗ tay hoan hô. Các sĩ quan và binh lính yêu cầu Alice và Peter biểu diễn thêm một bài nữa. Alice dạo một bản nhạc vui, bài hát mà các bợm nhậu ưa thích. Cứ tới điệp khúc, tất cả đồng thanh hát theo.
- Bây giờ em còn thấy đau như trước không?
- Thỉnh thoảng - tôi nói - Nhất là khi trời ẩm thấp. Lúc ấy Matty phải thoa xức hai chân và lưng cho em bằng một loại thuốc do các y sĩ kê toa. Nhưng cũng không làm giảm đau bao nhiêu. Bởi vì xương bị bể nát, không thể liền lại được.
- Hãy cho anh xem, Honor!
- Không đẹp đẽ gì đâu mà xem, Richard.
- Anh đã từng thấy những trường hợp ghê gớm hơn ở chiến trường.
Tôi lật mền ra, và để yên cho chàng nhìn hai chân dị hình của tôi mà trước đây chàng vẫn biết chúng thon và thẳng. Ngoài Matty và các thầy thuốc ra, chàng là người duy nhất được nhìn. Tôi đưa tay che mắt. Tôi không muốn thấy phản ứng trên nét mặt của chàng.
- Em đừng lo - chàng nói - Bất luận đau khổ nào của em, từ đây em sẽ chia sẻ với anh. Chàng cúi xuống, hôn hai chân ốm yếu, xấu xí của tôi. Một hồi sau, chàng đậy mền lại.
- Em hãy hứa sẽ không bao giờ xua đuổi anh nữa nhé.
- Em hứa - tôi nói.
- Tạm biệt em yêu dấu. Chúc em ngủ ngon đêm nay.
Chàng đứng lặng yên một lúc trong ánh sáng từ cửa sổ bên kia chiếu qua, đoạn chàng quay gót và bước ra. Bên dưới, tiếng động lớn vọng lại. Mọi người lên ngựa. Những lời chào tạm biệt và những tiếng cười cất lên. Giọng nói của Richard lấn át tất cả. Chàng nói với John Rashleigh rằng chàng sẽ trở lại. Sau khẩu lệnh khô khan, cả đoàn từ từ đi qua vòm cổng, bên dưới cửa sổ của tôi, và sau đó tiếng vó ngựa vọng lên mạnh mẽ ngoài hoa viên.

John và Peter đi đâu, bước ngập ngừng, tay nhắc cái ghế trống, mặt đỏ bừng như gấc. Còn tôi thì gục đầu trên vai Richard, hai tay ôm lấy cổ chàng vì sợ bị ngã, và cảm thấy thời gian trôi qua quá chậm chạp.
- Anh lầm rồi - Richard nói nhỏ vào tai tôi - Em đã thay đổi.
- Thay đổi như thế nào? - tôi hỏi.
- Em nặng hơn mười ký lô.
Và bằng cách đó chúng tôi đi lên phòng.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: welcom1985
Nguồn: Welcom1985 - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 19 tháng 7 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--