hỉ cần Richard xuất hiện đột ngột trong vài giờ, đủ là cú sốc tinh thần khiến tôi bị mất quân bình trong một hoặc hai ngày. Sự xáo trộn ban đầu đã qua và chàng không còn hiện diện nữa, nhưng phản ứng đến sau rất dữ dội và làm tôi khổ sở. Hồi tưởng lại những gì đã qua, nỗi nhớ nhung về quá khứ khiến đánh thức nơi chúng tôi bao tình cảm đê mê, nhưng cùng với ban ngày, lý trí đã trở lại. Chúng tôi không thể hy vọng gì một cuộc sống chung giữa hai người, kể cả niềm vui không bền của những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi có thể bị gián đoạn do những bất ngờ của chiến tranh. Làm sao bây giờ? đối với tôi, cuộc sống nằm liệt vĩnh viễn là cuộc sống chờ đợi. Chờ đợi một sự thăm viếng, một bức thư hay một lời an ủi. Nếu sự hiện diện của chàng, thái độ, cử chỉ trìu mến của chàng đủ làm sống lại nơi tôi mối tình xưa và khát vọng của con tim, thì lý trí phê phán nghiêm khắc buộc tôi phải nhìn nhận rằng Richard đã thay đổi nhiều trong chiều hướng bất lợi cho chàng. Những tật xấu mà tôi đã linh cảm trước nơi con người chàng, thì càng lớn và đậm nét. Tính kiêu căng, tự phụ, khinh thường mọi ý kiến của người khác, đã hiện rõ dưới con mắt của tôi. Tôi nhìn nhận rằng chàng có nhiều kiến thức về quân sự nhưng tôi không tin rằng chàng có thể làm việc hài hòa với những viên tư lệnh các đạo quân khác. Tính tình của chàng như thế dễ mất bạn và cuối cùng sẽ khiến đức Vua cũng phải khó chịu. Cách cư xử của chàng đối với các tù binh - bị đẩy tới lâu đài Lydford và bị treo cổ mà không cần xét xử - chứng tỏ bản tính tàn ác. Sự hắt hủi đứa con ruột của mình chứng tỏ tinh thần cố ý không hiểu biết. Có lẽ tại tôi đã làm chàng phải chịu nhiều đau khổ, nhiều cay đắng. Nhưng dù sao sự nhẫn tâm đã từ lâu mọc rễ nơi con người chàng và đã quá trễ để có thể tìm ra thuốc chữa. Richard Grenvile, ở lứa tuổi bốn mươi bốn, đã trở thành mẫu người do định mệnh, hoàn cảnh và ý chí riêng của chàng tạo nên. Tôi đánh giá chàng như vậy, không chút dè dặt, sau cuộc hội ngộ, và tôi đã dự định viết cho chàng một lá thư để cắt đứt mọi liên hệ. Nhưng rồi, tôi lại nhớ đến thái độ quỳ gối của chàng bên giường tôi, ôm hôn đôi chân liệt của tôi, trước khi chúc tôi ngủ ngon. Nếu với tôi, chàng tỏ ra dịu dàng, tế nhị và tình cảm, thì tại sao chàng lại tỏ ra quá tàn nhẫn, hung dữ và khinh bỉ đối với người khác, đối với người khác, đối với con ruột của chàng? Tôi có nên không bao giờ gặp lại chàng nữa? Cứ để cho chàng tiếp tục cuộc sống như thế? Hay là ngược lại nhắm mắt trước những khổ đau trong tương lai, bó buộc con người yếu ớt của tôi phải chịu đựng chàng, giúp chàng tìm lại một chút bình an bằng sự khôn ngoan ít ỏi và bằng cả mối tình của tôi. Cách thứ hai này đối với tôi có vẻ thực tế hơn cách thứ nhất, bởi bì nếu tôi bỏ rơi chàng, như đã làm một lần, thì chẳng khác gì tôi hèn nhát, sợ khổ đau. Richard trở lại Menabilly một lần nữa. Lúc ấy tôi đang dạo chơi ngoài hoa viên. Chàng cúi xuống hôn tay tôi với vẻ nồng nàn khi xưa. Liền sau đó, chàng lớn tiếng công kích những thành phần bất tài trong đạo quân của chàng. Lúc ấy tôi biết rằng từ nay chúng tôi sẽ kết hợp với nhau mãi mãi và tôi không thể lạnh lùng với chàng được nữa. Những lỗi lầm của chàng tức là của tôi, sự kiêu căng của chàng sẽ là gánh nặng tôi phải mang và người đàn ông đang đứng trước mặt tôi là người cùng diễn chung với tôi vở bi kịch của cuộc đời. - Anh chỉ gặp em một chút, rồi lại đi ngay - chàng nói. Anh được tin trong lúc anh vắng mặt, một đơn vị quân phản loạn và vượt vòng vây, đổ bộ lên Cawsant và chiếm đồn Inceworth. Lính gác của anh đã ngủ quên, và nếu chúng không bị giết chết bởi địch quân, thì chúng cũng không sống nổi với anh. Anh sẽ tẩy sạch hết bọn ăn hại đó. - Để rồi không còn người nào cùng chiến đấu với anh - tôi nói. - Thà anh tuyển mộ bọn lính đánh thuê bên Pháp và bên đức - chàng đáp lại. Nói xong, chàng ra đi như cơn gió lốc, để tôi ở lại vừa sung sướng vừa ngỡ ngàng, với niềm đau đớn trong tim, niềm đau mà tôi biết sẽ theo tôi cho đến chết. Tối hôm ấy, anh rể tôi, Jonathan Rashleigh trở về Menabilly. Có lẽ anh ta đã trải qua một thời gian ở Exeter để thực thi một số công việc cho đức Vua. Theo lời Jonathan nói, anh ta đã đi qua Fowey và sử dụng những ngày vừa qua để làm việc ở ngôi nhà thành thị trên bến cảng, nơi đó tồn tại nhiều việc phải giải quyết sau một số thiệt hại của lực lượng hải quân Hoàng gia. Phe Nghị viện đã làm chủ trên biển và chiếm giữ tất cả những chiến thuyền trong vùng họ kiểm soát. Khó có thể sử dụng được thương thuyền để địch lại họ. Trong nhà, bắt đầu có sự thay đổi. Các người hầu tỏ ra sốt sắng hơn, nhưng thiếu thiện chí hơn. Trẻ con không chạy lêu lổng khắp nơi như lúc chủ nhân vắng nhà nữa. Trong hành lang, người ta nói chuyện nhỏ hơn. Alice, Joan, và John tới thăm tôi thường xuyên hơn. Phòng tôi không khác gì một nơi trú ẩn. John có vẻ lo lắng và Joan đã thổ lộ cho tôi biết rằng cha của John tỏ vẻ không vui về sự điều hành trang trại trong thời gian qua. Jonathan không hài lòng trước những con số chi thu do John trình báo lại. Tôi nhận thấy Joan rất muốn nghe tôi kể về tình bạn giữa tôi và Richard Grenvile, mà có lẽ mọi người đều cảm thấy lạ lùng. Còn Alice thì im lặng nhìn tôi, với ánh mắt thông cảm. - Dì đã quen ông Richard từ lâu, từ lúc dì còn mười tám tuổi - tôi giải thích qua loa, nhưng không kể lại cho chúng nghe toàn bộ câu chuyện tình của tôi. Trước mặt chúng, hình như chị Mary cũng tránh đề cập thẳng đến chuyện cũ của tôi. Chị chỉ nói bâng quơ một vài câu. Với tôi, chị nhận xét rằng Richard mập hơn trước và đưa tôi xem lá thư chàng viết cho Jonathan, trong ấy có đoạn kết như sau: “Trước khi ngừng bút, một lần nữa tôi xin anh chuyển lời chào kính trọng của tôi đến chị. Anh thật hạnh phúc mới có được người vợ như chị Mary, bởi vì khó kiếm được người nào tốt hơn chị ấy. Về phần tôi cũng mong được may mắn như anh, nhưng kiên nhẫn là một đức tính phải không anh? Lúc nào tôi cũng là người hầu trung thành và là bà con của anh. Ký tên: Richard Grenvile. Kiên nhẫn là một đức tính. Tôi có cảm tưởng chị Mary nhìn tôi khi tôi đọc tới dòng chữ này. - Honor, em không có ý định nối lại sợi dây tình cảm với Richard đấy chứ? - Mary khẽ hỏi tôi. - Chị nói thế có nghĩa gì? - Có nghĩa là em không có ý định lấy anh ta phải không. - Chị đừng lo, chị yêu dấu. Em sẽ không bao giờ làm vợ Richard Grenvile, hoặc một ai khác. - Vả lại, anh Jonathan và chị cũng không thích Richard lui tới đây quá thường xuyên. Có lẽ anh ta là một chiến binh giỏi, nhưng mang nhiều tai tiếng. - Em biết điều ấy, chị Mary. - Anh Jo của chúng ta viết thư từ Radford về cho hay khắp vùng Devon không ai ưa Richard. - Em tin điều ấy dễ dàng. - Chuyện của anh ta không liên can gì đến chị, chị biết, nhưng chị và mọi người ở đây rất buồn nếu em trở lại với anh ta. - Một người tật nguyền như em, có muốn trở lại cũng không phải dễ - tôi nói. Chị Mary nhìn tôi với vẻ ngờ vực và không nói gì nữa hết. Chắc chị không hiểu ý nghĩa cay đắng trong câu trả lời của tôi. Anh Jonathan tới thăm hỏi tôi. Anh ta hy vọng rằng tôi không gặp thiếu thốn gì và hỏi tôi có cảm thấy ở đây quá ồn ào hơn ở Lanrest yên tĩnh không? - Honor, em có ngủ ngon không? Không có gì quấy rầy giấc ngủ của em, phải không? Thái độ của anh ta có vẻ là lạ, hơi mập mờ. - Em ngủ chập chờn lắm - tôi nói - chỉ cần tiếng kêu của con chim cú mèo hoặc tiếng động nhẹ cũng đủ làm em thức giấc. - Anh cũng sợ thế. Lẽ ra chị Mary không nên để cho em ở căn phòng này giữa hai cái sân. Nếu để em ở gần phòng của anh chị thì tốt hơn. Em có muốn đổi phòng không? - Ồ không đâu! Em ở đây quá tốt rồi. Jonathan hướng tia nhìn khá lâu vào tấm tranh mà Matty và tôi dùng để che lỗ đã khoét. Hình như một hay hai lần anh ta suýt hỏi tôi điều gì đó, nhưng cuối cùng lại thôi. Sau khi nói một vài câu chuyện vu vơ, Jonathan rời khỏi phòng tôi. Đêm hôm đó, vào khoảng một giờ, tôi còn thức và ngồi trên giường uống một ly nước. Tôi không thắp đèn. Khi đặt ly lên bàn, tôi cảm thấy một luồng khí lạnh đến từ phòng bên. Tôi ngồi yên, chờ đợi nghe tiếng bước chân, nhưng không có gì hết. Kế đó, tôi nghe có tiếng sột soạt khe khẽ gần chỗ tôi treo bức tranh. Vậy thì có ai đang ở bên kia, gần cánh cửa. Tiếng động không kéo dài lâu, chưa đầy năm phút, và sau đó ngưng hẳn. Bất chợt luồng khí lạnh bị cắt đứt. Sáng hôm sau, tôi lăn xe đến tận cửa ăn thông với phòng bên và gỡ tấm tranh ra. Đúng như tôi đã dự đoán, cái lỗ đã bị trám lại. Hai ngày sau khi anh rể tôi trở về, Joan sực nhớ ra chìa khóa đã lấy trộm trong nhà viên quản lý. Nó đến tìm tôi, tay cầm chiếc chìa khóa, vẻ lo lắng. Joan nói rằng chồng nó đang bị cha khiển trách về một vài khiếm khuyết trong công việc liên quan đến khai thác lãnh địa và nó không dám thú nhận đã lấy trộm chìa khóa, sợ làm tình hình thêm căng thẳng. Về phần Joan, nó cũng không có can đảm mang chìa khóa trả lại cho ông Langdon. Phải làm sao bây giờ? - Thế cháu muốn dì phải làm sao bây giờ? - Dù sao dì cũng khôn khéo hơn cháu - Joan nói một cách thảm hại - Cháu định đưa chìa khóa này cho dì và chúng ta thôi không nhắc đến nó nữa. - Thôi được - tôi nói - Cứ để đây cho dì. Tôi muốn cho Matty biết chuyện này, định để cho cô ta đi gặp bà Langdon, nói rằng đã lượm được chìa khóa trên một lối đi của hoa viên. Vừa suy nghĩ tôi vừa tung nó trong lòng bàn tay. Nó cũng như bao chìa khóa khác, không lớn hơn chìa khóa phòng tôi. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Tôi lăn ghế ra ngoài hành lang, dừng lại và nghe ngóng. Đã hơn chín giờ tối, các người hầu đã dùng bữa xong và họ đã về phòng riêng. Đây là lúc khá thuận lợi để mạo hiểm. Tôi đẩy xe tới xa hơn một chút, dừng lại trước cửa căn phòng bí mật. Không ai đi trong hành lang cả. Tôi đút thử chìa vào ổ khóa đã rỉ sét. Nó vào dễ dàng. Tôi xoáy nó một vòng, cánh cửa kêu rắc và bật mở. Quá ngạc nhiên về sự thành công này, thoạt đầu tôi không biết phải làm gì. Mối liên hệ giữa căn phòng này và ngôi nhà nghỉ mát đã rõ ràng. Hai ổ khóa cùng chung một chìa. Mặc dù sợ, bản tính hiếu kỳ thúc giục tôi hành động. Tôi đẩy ghế vào phòng, thắp sáng cây đèn dầu mang theo và nhìn chung quanh. Đồ đạc trong phòng sơ sài. Cả hai cửa sổ, một ở hướng bắc, một ở hướng tây, đều được chắn ngang bằng thanh sắt. Trong góc có một cái giường, vài tấm thảm dầy, cái bàn và cái ghế như tôi đã thấy qua lỗ khoét. Tôi đặt đèn lên bàn và đẩy ghế lăn đến tận góc sát cột chống, nhấc tấm trướng phủ tường, nhưng chỉ thấy có đá trơn. Tôi nhìn không rõ, nên quay trở về bàn để lấy đèn, sẵn dịp ném một cái nhìn ra hành lang. Bất ngờ một luồng khí lạnh thổi vào gáy tôi. Tôi giật mình, quay đầu lại và thấy những bức màn trướng động đậy. Một bàn tay thò ra giữa hai tấm trướng, tôi không có thì giờ rút lui hay thổi tắt đèn. Một người đàn ông xuất hiện, khoác áo măng tô màu đỏ sẫm lên vai. Người ấy đã đẩy bước trướng qua một bên, để lộ ra một lỗ hổng lớn đen ngòm. - Honor, hãy nhẹ nhàng đóng cửa lại - người ấy nói - và để đèn ở yên đấy. Vì em đã tới đây, tốt nhất chúng ta nên giải thích với nhau, mà không nên làm cho tình hình thêm phức tạp Người ấy tiến tới vài bước và tôi nhận ra Jonathan Rashleigh, anh rể tôi.