Thứ Ba
CHƯƠNG 12

     iện thoại của Dance đổ chuông. Cô liếc nhìn vào danh tính người gọi.
“TJ. Tôi đang định gọi cậu.”
“Không có chút may mắn nào với những cái camera an ninh nhưng có một buổi khuyến mãi tại hàng cà phê Blue Mountain Jamaica ở Java House. Mua một cân rưỡi với giá một cân. Dù vẫn khiến cô tốn gần năm mươi đô nhưng thứ cà phê đó là hạng nhất.”
Cô không hề đáp lại câu pha trò của anh ta. Anh chàng nhận ra ngay. “Có chuyện gì vậy, sếp?”
“Thay đổi kế hoạch, TJ.”
Cô kể cho anh biết về Travis Brigham, những bằng chứng pháp y tương thích và một tá bó hoa bị đánh cắp.
“Cậu nhóc đang chạy trốn sao, sếp? Cậu ta đang lên kế hoạch thêm nhiều vụ nữa à?”
“Phải. Tôi muốn cậu tới nhà hàng Bagel Express, hỏi chuyện bạn bè hay bất cứ ai quen biết cậu ta, tìm xem cậu ta có thể đi đâu. Những người cậu ta có thể ở cùng. Những chỗ lui tới ưa thích.”
“Hiểu rồi, tôi sẽ vào việc ngay.”
Dance gọi tiếp cho Rey Carraneo, người cũng không gặp chút may mắn nào trong cuộc tìm kiếm nhân chứng ở bãi để xe nơi Tammy Foster đã bị bắt cóc. Cô thông báo vắn tắt tình hình với Rey và yêu cầu anh tới Game Shed để tìm kiếm bất cứ đầu mối nào về địa điểm Travis có thể tìm đến.
Sau khi ngắt liên lạc, Dance ngồi xuống tựa người ra thành ghế. Một cảm giác bất lực tuyệt vọng xâm chiếm khắp người. Cô cần các nhân chứng, cần ai đó để thẩm vấn. Đó là kỹ năng cô được sinh ra để làm, là công việc cô yêu thích và có năng lực. Nhưng giờ đây cuộc điều tra đã rẽ sang lãnh địa của bằng chứng và suy đoán.
Cô đưa mắt nhìn những bản in các bài đăng trên Bản tin Chilton.
“Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên bắt đầu liên lạc với những nạn nhân tiềm tàng và cảnh báo họ. Người ta có công kích cậu ta trên các mạng xã hội không, trên MySpace, Facebook hay OurWorld ấy?” cô hỏi Boling.
“Tại những nơi đó việc này rất cỏn con bởi chúng là các trang mạng quốc tế. Bản tin Chilton mang tính địa phương hơn, vì thế chín mươi phần trăm trường hợp công kích Travis xuất hiện trên đó. Tôi sẽ cho cô hay một điều có thể hữu ích: Thu thập địa chỉ Internet của những người đăng bài. Nếu có được chúng, chúng ta sẽ liên hệ với các nhà cung cấp dịch vụ và tìm ra địa chỉ thực của họ. Điều này sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian.”
“Bằng cách nào?”
“Phải từ chính Chilton hay từ người quản lý trang web của ông ta.”
“Jon, anh có thể cho tôi biết điều gì đó về ông ta không, những thứ sẽ giúp tôi thuyết phục được Chilton hợp tác, nếu ông ấy từ chối?”
“Tôi biết về blog của ông ta,” Boling trả lời, “nhưng biết không nhiều lắm về con người ông ta. Ngoài bản tiểu sử trên chính Bản tin. Nhưng tôi sẽ rất thích được làm một chút công việc của thám tử.” Đôi mắt giáo sư lại lóe lên tia sáng cô thấy lúc trước. Anh ta quay lại với cái máy tính của mình.
Những câu đố...
Trong khi Boling bận rộn đắm chìm trong lãnh địa quen thuộc của mình, Dance nhận được cuộc gọi của O’Neil. Một đội điều tra hiện trường đã kiểm tra con hẻm đằng sau Bagel Express và tìm thấy vết cát cùng bụi đất tại nơi Travis từng dựng chiếc xe đạp ở đó. Họ đối chiếu với vết đất pha cát nơi con xế của Tammy bị bỏ lại trên bãi biển. Người thanh tra còn cho biết thêm rằng một đội của MCSO đã điều tra cả khu vực nhưng không ai nhìn thấy cậu thiếu niên.
O’Neil nói với cô rằng anh đã huy động thêm sáu nhân viên nữa ở đội Tuần cảnh Xa lộ tham gia cuộc truy lùng. Họ đang từ Watsonville tới.
Hai người ngừng liên lạc và Dance lại ngả người xuống ghế.
Sau vài phút, Boling thông báo anh ta đã tìm được một số thông tin về Chilton từ chính blog cũng như từ các kết quả tìm kiếm khác. Vị giáo sư quay trở lại trang chủ, nơi có đăng bản tiểu sử do chính Chilton viết.
http://www.thechiltonreport.com
Dance di chuột xuống, bắt đầu lướt qua nội dung blog trong khi Boling cung cấp thông tin, “James David Chilton, bốn mươi ba tuổi. Kết hôn với Patrizia Brisbane, có hai con trai, mười và mười hai tuổi. Sống ở Carmel. Nhưng ông ta cũng có bất động sản ở Hollister, có vẻ là nhà nghỉ, và vài bất động sản cho thuê quanh vùng San Jose. Gia đình họ được thừa kế lại sau khi ông bố vợ qua đời vài năm trước. Còn bây giờ, điều thú vị nhất tôi tìm thấy về Chilton là ông ta luôn có một thói quen kỳ quặc. Ông ta viết thư.”
“Thư?”
“Thư cho biên tập, thư cho dân biểu của ông ta, những thư bày tỏ quan điểm độc lập. Ông ta bắt đầu bằng thư tín thông thường, trước khi Internet thực sự bùng nổ, sau đó đến lượt email. Ông ta viết đến hàng nghìn thư. Nhục mạ, chỉ trích, tán dương, bình phẩm, những bình luận chính trị. Cô biết đấy. Người ta viện dẫn ra ông ta từng nói một trong những quyển sách ưa thích của mình là Herzog, tiểu thuyết của Saul Bellow[1]về một người đàn ông bị ám ảnh với chuyện viết thư. Về cơ bản, thông điệp của Chilton nhắc đến củng cố các giá trị đạo đức, vạch trần tham nhũng, tán dương các chính trị gia làm tốt, chỉ trích những người không làm được - chính xác với những gì đăng trên blog của ông ta. Tôi tìm thấy một số lượng lớn chúng trên mạng. Sau đó, dường như ông ta khám phá ra thế giới của blog. Ông ta bắt đầu Bản tin Chilton từ khoảng năm năm trước. Bây giờ, trước khi tôi tiếp tục, có lẽ sẽ hữu ích nếu cô được biết một chút về lịch sử các blog.”
[2. Một nhà văn Mỹ nổi tiếng g61c Canada.]
“Tất nhiên rồi.”
“Tên gọi này xuất phát từ ‘weblog’, khái niệm do một nhân vật có uy tín trong làng máy tính, Jorn Barger, đưa ra năm 1997. Ông ta viết một nhật ký trực tuyến về những chuyến đi của mình và những gì ông ta đang thấy lên web. Cho đến lúc ấy, người ta ghi lại suy nghĩ của họ trên mạng từ nhiều năm rồi, song điều khiến các blog trở nên nổi bật là khái niệm ‘đường dẫn’. Nó là chìa khóa của một blog. Cô đang đọc thứ gì đó và cô bắt gặp phần có gạch chân hay để chữ đậm làm tham chiếu trong phần văn bản, bấm vào đấy và nó dẫn cô tới một nơi khác.”
“Kiểu kết nối này được gọi là ‘siêu văn bản’[2]. Bốn ký tự H-T-T-P trên một địa chỉ trang web nghĩa là gì? Chúng là viết tắt của ‘Giao thức truyền siêu văn bản’[3], một phần mềm cho phép cô thiết lập các đường dẫn. Theo quan điểm của tôi, điều này là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của Internet. Có khi là quan trọng nhất. Vậy đấy, sau khi siêu văn bản đã trở nên phổ biến, các blog bắt đầu phát triển mạnh. Những ai có khả năng viết mã bằng HTML[4] - ngôn ngữ tạo siêu văn bản, một dạng ngôn ngữ của máy tính để tạo các đường dẫn - sẽ tạo nên các blog của riêng họ rất dễ dàng. Nhưng ngày càng có nhiều người muốn nhập cuộc và không phải ai cũng đủ hiểu biết về công nghệ. Vậy là các công ty đưa ra những chương trình mà bất cứ ai, à phải, hầu hết mọi người, có thể sử dụng để tạo nên các blog kèm đường dẫn - Pitas, Blogger và Groksoup là những gã tiên phong. Rồi vô số kẻ khác theo đuôi. Giờ đây tất cả những gì cô phải làm là có một tài khoản Google hay Yahoo, và cô có thể tạo cho mình một blog. Kết hợp với giá lưu trữ dữ liệu phải chăng thời này - và ngày càng hạ xuống từng phút - kết quả là cô có cả một thế giới blog trong tầm tay.”
[2. Hypertext.]
[3. Hyper Tex Transfer Protocol.]
[4. Hyper Tex Markup Languege.]
Bài thuyết trình của Boling thật sinh động và tuần tự. Hẳn anh phải là một giáo sư rất xuất sắc, Dance thầm nghĩ.
“Trước vụ Mười một tháng Chín[5],” Boling giải thích, “các blog phần lớn liên quan tới máy tính. Chúng được dân công nghệ viết ra dành cho dân công nghệ. Tuy thế, sau thảm họa đó, một loại blog mới xuất hiện. Chúng được gọi là blog chiến tranh, sau vụ khủng bố cùng cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Những người viết blog đó không quan tâm đến công nghệ. Bọn họ quan tâm đến chính trị, kinh tế, xã hội, thế giới. Tôi mô tả sự khác biệt như thế này: Trong khi các blog trước Mười một tháng Chín đều hướng nội - hướng về chính bản thân Internet - thì các blog chiến tranh lại hướng ngoại. Những người viết nên nó nhìn nhận bản thân họ như các nhà báo, một phần của thứ được biết tới như Truyền Thông Mới. Họ muốn được thừa nhận là dân làm báo, cũng giống như các phóng viên CNN và Washington Post vậy, và họ muốn được nhìn nhận thật nghiêm túc. Jim Chilton là một nhân vật viết blog chiến tranh thuộc hàng tinh túy. Ông ta không hề bận tâm tới bản thân Internet hay thế giới công nghệ, ngoại trừ việc nó cho phép ông ta truyền bá thông điệp của mình. Ông ta viết về thế giới thực. Hiện tại, cả hai bên - những người viết blog truyền thống và những người viết blog chiến tranh - liên tục chiến đấu để giành ngôi vị số một trong thế giới của blog.”
[5. Vụ khủng bố tấn công hai toà tháp Trung tâm thương mại Thế giới ở New York ngày 11/9/2001.]
“Đó là một cuộcle='height:10px;'>
Nữ đặc vụ không khỏi suy nghĩ: Nó tượng trưng cho vụ ám hại người nào đây?
Còn mười bó nữa đang đợi lượt.
Cây thập tự này được để lại ở một đoạn đường vắng vẻ hầu như chỉ được trải lớp nhựa mỏng qua loa nằm cách bờ biển chừng một dặm. Không có nhiều xe cộ qua lại, đoạn này là con đường tắt ít người biết dẫn tới Xa lộ 68. Trớ trêu thay, đây cũng là một trong những con đường dẫn tới tuyến xa lộ mới mà Chilton đã viết trong blog của ông ta.
Đứng bên một con đường phụ gần cây thập tự chính là nhân chứng, một thương gia ngoài bốn mươi tuổi. Dance thầm đoán: Nếu dựa vào ngoại hình thì có thể nghĩ ngay ông ta làm ăn trong lĩnh vực bất động sản hoặc bảo hiểm. Người đàn ông này có vóc người tròn trịa, phần bụng đẩy chiếc áo sơ mi màu xanh nhô hẳn ra ngoài làm đai thắt lưng trễ xuống. Mái tóc ông đang thưa dần, cô có thể thấy những nốt cháy nắng trên vầng trán cao và đỉnh đầu hói nhẵn của ông ta. Ông ta đứng bên một chiếc Honda Accord đã từng có thời trông khá hợp mốt.
Cả hai đến bên người đàn ông. O’Neil giới thiệu với cô, “Đây là Ken Pfister.”
Dance bắt tay nhân chứng. O’Neil nói sẽ đi giám sát việc kiểm tra hiện trường và bắt đầu bước ra phía ngoài đường.
“Ông Pfister, hãy kể cho tôi biết những gì ông nhìn thấy.”
“Travis. Travis Brigham.”
“Ông có chắc là cậu ta không?”
Nhân chứng gật đầu. “Tôi thấy ảnh anh chàng này trên mạng khi tôi ăn trưa chừng nửa giờ trước. Chính vì thế tôi nhận ra cậu ta.”
“Ông có thể cho tôi biết chính xác những gì ông đã thấy không?” cô hỏi. “Và khi nào?”
“Được thôi. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ sáng nay. Tôi có một cuộc họp ở Carmel. Tôi quản lý một văn phòng ở Allstate,” nhân chứng nói ra điều này đầy tự hào.
Mình đã đoán đúng, Dance nghĩ.
“Tôi ra về lúc khoảng mười giờ bốn mươi và đang lái xe trở lại Monterey. Theo con đường tắt này. Nó sẽ rất tuyệt khi tuyến xa lộ mới đó được khánh thành, phải không nào?”
Dance mỉm cười lấp lửng, không phải một nụ cười thực sự.
“Và tôi tạt vào đường này,” vị nhân chứng vung tay chỉ, “để gọi vài cuộc điện thoại.” Ông ta cười hết cỡ. “Không bao giờ vừa lái xe vừa nói chuyện. Đó là nguyên tắc của tôi.”
Dance nhướng một bên mày lên ra hiệu cho ông ta tiếp tục.
“Tôi nhìn qua kính chắn gió và thấy Travis cuốc bộ theo sườn đất. Từ phía kia lại. Cậu ta không thấy tôi. Trông cậu ta có vẻ như lê đi từng bước. Dường như lúc ấy cậu ta đang tự nói chuyện với chính mình.”
“Cậu ta mặc gì trên người?”
“Một cái áo nỉ có mũ trùm đầu, kiểu đám nhóc vẫn hay mặc.”
À, áo có mũ trùm đầu.
“Cái áo đó màu gì?”
“Tôi không nhớ?”
“Cậu ta có mặc áo khoác, quần thụng không?”
“Xin lỗi. Tôi không để ý cho lắm. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết anh chàng đang định làm trò gì - tôi vẫn chưa nghe về vụNhững cây thập tự ven đường. Tất cả những gì tôi biết là cậu nhóc trông có vẻ kỳ cục và đáng sợ. Cậu ta cầm theo cây thập tự đó, và cả một con vật đã chết.”
“Một con vật?”
Pfister gật đầu. “Phải, một con sóc hay một con chuột chũi hoặc thứ gì đại loại như thế. Cổ họng con vật bị cắt đứt,” vị nhân chứng đưa ngón tay lướt ngang qua cổ mình làm điệu bộ.
Dance ghét cay ghét đắng những hành động tàn bạo với động vật. Dẫu vậy, cô vẫn giữ giọng bình thản khi hỏi, “Có phải cậu ta vừa mới giết con vật không?”
“Tôi không nghĩ thế. Không có nhiều máu lắm.”
“Được rồi, sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Sau đó cậu ta ngó tới ngó lui tứ phía, và khi không thấy ai nên anh chàng mở ba lô ra và...”
“Ồ, cậu ta có một cái ba lô sao?”
“Đúng thế.”
“Màu gì vậy?”
“Ừm, đen, tôi tin chắc là thế. Cậu ta lấy ra một cái xẻng, một cái xẻng nhỏ xíu. Loại cô hay dùng khi đi cắm trại. Và đào một cái hố, rồi cắm cây thập tự xuống đất. Sau đó... chuyện này thật quái lạ. Cậu ta thực hiện nghi thức của mình. Cậu ta đi vòng quanh cây thập tự ba lần, và có vẻ như vừa đi vừa cầu khấn.”
“Cầu khấn?”
“Đúng thế đấy. Lẩm nhẩm gì đó. Tôi không nghe được là gì.”
“Còn sau đó?”
“Cậu ta cầm con sóc lên và lại đi vòng quanh cây thập tự năm vòng - tôi đã đếm từng lần một. Ba và năm... Có thể đó là một thông điệp, một manh mối, nếu ai đó có thể suy đoán ra được.”
Dance nhận thấy từ sau khi Mật mã Da Vinci xuất hiện, rất nhiều nhân chứng có xu hướng thích giải mã những quan sát của họ hơn là chỉ đơn giản nói ra những gì đã nhìn thấy.
“Rồi cậu ta lại mở ba lô ra lần nữa và lấy ra hòn đá này cùng một con dao. Cậu ta dùng nó mài sắc lưỡi dao, sau đó kề dao lên con sóc. Tôi nghĩ cậu ta định cắt nó ra, song không phải thế. Tôi thấy môi cậu ta lại mấp máy, rồi cậu ta gói cái xác lại trong một thứ giấy có màu vàng kỳ quái, trông như giấy bản thảo vậy, và nhét vào ba lô. Sau đó, có vẻ cậu ta nói nốt vài câu cuối cùng song đi trở lên con đường, quay lại hướng đã đi tới. Vừa đi vừa nhảy cẫng lên, cô biết đấy. Như một con vật vậy.”
“Sau đó ông làm gì?”
“Tôi rời khỏi đây, thực hiện vài cuộc gặp nữa. Tôi quay trở lại văn phòng. Chính lúc tôi vào mạng và đọc được tin về cậu nhóc. Tôi trông thấy ảnh cậu ta. Và giật mình. Tôi gọi 911 ngay lập tức.”
Dance ra hiệu gọi Michael O’Neil tới chỗ cô.
“Michael, chuyện này đáng quan tâm đây. Ông Pfister thực sự rất có ích.”
O’Neil gật đầu cảm ơn vị thương gia.
“Bây giờ ông có thể kể cho thanh tra O’Neil đây những gì ông đã trông thấy chứ?”
“Tất nhiên.”
Pfister lại giải thích về chuyện tạt vào con đường phụ để gọi điện thoại. “Cậu nhóc mang theo một con vật gì đó đã chết. Tôi nghĩ là một con sóc. Cậu ta đi vòng quanh ba vòng không cầm theo cái xác. Sau đó cậu ta trồng cây thập tự và đi vòng quanh năm lần. Cậu ta đã lẩm bẩm nói một mình. Chuyện đó thật kỳ quái. Giống như một ngôn ngữ khác vậy.”
“Và sau đó?”
“Cậu ta gói con sóc vào mảnh giấy bản thảo này và gí con dao lên trên. Cậu ta nói thêm gì khác nữa bằng thứ ngôn ngữ quái đản kia, rồi bỏ đi.”
“Rất đáng quan tâm,” O’Neil nói. “Cô nói đúng, Kathryn.”
Chính vào lúc đó, Dance tháo cặp kính có gọng màu hồng nhạt của cô ra lau chùi. Rồi nhẹ nhàng thay nó bằng cặp kính có gọng đen nghiêm khắc.
O’Neil hiểu ra ngay khi bắt gặp cô đang đeo cặp kính kẻ săn mồi của mình vào và lùi lại. Dance bước lại gần Pfister hơn, vào sâu vùng không gian riêng tư của ông ta. Ngay lập tức cô nhận ra ông ta đang cảm thấy bị đe dọa.
Tốt.
“Bây giờ, Ken, tôi biết ông đang nói dối. Và tôi cần ông nói cho tôi biết sự thật.”
“Nói dối?” vị nhân chứng chớp mắt choáng váng.
“Đúng thế.”
Pfister đã khá xuất sắc trong màn dựng chuyện của ông ta, song vài lời bình phẩm và cử chỉ đã đánh động Dance. Nghi ngờ của cô nảy sinh ngay từ đầu khi phân tích nội dung: Xét về những điều ông ta nói thay vì cách ông diễn đạt chúng. Vài lời giải thích của vị thương gia tỏ ra quá khó để tin là thật. Ông ta thừa nhận không hề biết cậu nhóc là ai và chưa bao giờ nghe nói đến vụ tấn công liên quan tới Cây thập tự ven đường - trong khi dường như bản thân vẫn thường xuyên lên mạng cập nhật tin tức. Tuyên bố Travis mặc áo nỉ có mũ trùm đầu, điều vài người đăng bài trong Bản tin Chilton đã nhắc đến, song lại không nhớ màu áo - người ta thường có xu hướng nhớ màu sắc trang phục tốt hơn nhiều so với bản thân chất liệu, kiểu dáng của những món đồ đó.
Pfister cũng ngừng lại giữa chừng rất thường xuyên - những kẻ nói dối hay làm thế trong khi cố nghĩ ra những lời tỏ ra đáng tin cậy. Và ông ta cũng viện đến ít nhất một cử chỉ “minh họa” - đưa ngón tay lướt ngang qua cổ. Người ta thường viện đến chúng một cách vô thức để tăng sức thuyết phục cho những lời bịa đặt.
Vậy là một khi đã ngờ vực, Dance bắt đầu sử dụng một kỹ thuật cơ bản để kiểm tra: Để xác định xem liệu có phải ai đó đang nói dối không, người thẩm vấn sẽ yêu cầu nghe đi nghe lại câu chuyện của họ vài lần. Người nói thật có xu hướng thay đổi cách diễn đạt ở đôi chỗ và nhớ ra những điều quên chưa nhắc đến trong lần kể đầu, nhưng trình tự các sự kiện luôn giống nhau. Ngược lại, kẻ nói dối thường quên mất trình tự các biến cố trong câu chuyện hư cấu của anh ta. Điều này đã xảy ra với Pfister khi ông ta kể lại tình tiết với O’Neil rồi bị lẫn lộn về thời điểm cậu nhóc cắm cây thập tự.
Tương tự, trong khi nhân chứng trung thực có thể nhớ ra những chi tiết mới trong lần kể thứ hai, hiếm khi mâu thuẫn với lời kể trước. Ban đầu Pfister nói Travis thì thầm điều gì đ&oacut tương lai.” Boling hất hàm về phía màn hình, nơi đang hiện lên nội dung blog. “Ý tôi muốn nói, đầu tiên và trên hết, với vai trò một phóng viên điều tra. Ông ta hiểu rõ giá trị các nguồn thông tin.”
“Được thôi. Ý tưởng hay đấy. Tôi sẽ thử.”
Boling nở một nụ cười. “Tất nhiên, khả năng khác là ông ta sẽ coi đề nghị của cô như một sự xâm phạm đến đạo đức nghề báo. Trong trường hợp đó, ông ta sẽ đóng sầm cửa lại trước mũi cô.”
Dance nhìn lên màn hình. “Những blog này... Chúng là một thế giới hoàn toàn khác.”
“Ồ, thế đấy. Và chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu được sức mạnh chúng sở hữu - mức độ làm thay đổi phương thức tiếp nhận thông tin và hình thành quan điểm do chúng gây ra. Hiện tại đang có chừng sáu mươi triệu blog.”
“Nhiều đến thế sao?”
“Phải. Chúng làm được những điều thật lớn lao: Lọc trước thông tin để cô không phải dùng Google dò tìm qua hàng triệu địa chỉ, là nơi giao lưu của những người có cùng quan điểm, một chốn khá vui vẻ, sáng tạo. Hay như trường hợp Bản tin Chilton, là nơi giám sát xã hội và khiến chúng ta trung thực hơn. Nhưng cũng tồn tại cả những mặt tối nữa.”
“Lan truyền tin đồn thất thiệt,” Dance nói.
“Một trường hợp điển hình, đúng thế. Nhưng còn thứ khác đáng quan tâm hơn chính là điều tôi đã nói lúc trước về Tammy: Nó cổ vũ mọi người hành xử bất cẩn. Chúng ta cảm thấy được bảo vệ trên mạng và trong thế giới ảo. Cuộc sống dường như vô danh, bài đăng dưới một biệt hiệu hay tên đăng nhập, và đó là tất cả những gì cô phơi bày về mình. Nhưng hãy nhớ: Bất cứ sự thật nhỏ nhặt nào về bản thân, hay lời nói dối mà cô, hay ai đó đưa lên mạng nói về cô, sẽ lưu lại trên đó mãi mãi, không bao giờ biến mất.”
Boling nói tiếp, “Nhưng tôi thấy vấn đề lớn nhất là người ta có xu hướng không đặt nghi vấn về mức độ chính xác của những gì được đăng. Blog đem lại ấn tượng về sự chân thực, thông tin dân chủ và thật hơn vì nó đến từ dân chúng chứ không phải các hãng truyền thông lớn. Nhưng quan điểm cá nhân tôi là những suy nghĩ đó chỉ toàn rác rưởi, và cách nhìn nhận này đã làm tôi bị nhiều người khó chịu trong cả giới học thuật lẫn cộng đồng viết blog. New York Times là một tập đoàn hoạt động vì lợi nhuận thật đấy, nhưng nó vẫn khách quan hơn gấp nghìn lần so với phần lớn blog. Có rất ít ý thức trách nhiệm trên mạng. Những lời phủ nhận cuộc tàn sát người Do Thái, những giả thiết trời ơi đất hỡi về vụ Mười một tháng Chín, những bài viết phân biệt chủng tộc, tất cả đều tưng bừng nở rộ nhờ vào các blog. Tính chân thực toát ra từ một gã lập dị tại một bữa tiệc cocktail sẽ là điều không tưởng khi gã ta tiết lộ Israel và CIA[11] đứng đằng sau vụ tấn công vào tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới.”
[11. Central Intelligent Agency: Cục tình báo trung ương Mỹ.]
Dance quay lại bàn làm việc của cô và nhấc ống điện thoại lên. “Tôi nghĩ tôi sẽ mang tất cả kết quả tìm kiếm của anh ra sử dụng, Jon. Chúng ta hãy thử xem chuyện gì sẽ xảy ra.”

~*~

Nhà James Chilton tọa lạc tại một khu vực khá giả của Carmel, khoảnh sân bao quanh ngôi biệt thự rộng tới gần một mẫu, toàn bộ xung quanh là những khoảnh vườn đủ kiểu được chăm sóc xén tỉa, bằng chứng cho thấy người chồng, người vợ hoặc cả hai đã dành rất nhiều thời gian vào dịp cuối tuần cho công tác nhổ cỏ dại và trồng cây thay vì bỏ tiền ra thuê thợ làm vườn chuyên nghiệp làm mấy việc đó.
Dance ngơ ngẩn nhìn quang cảnh bên ngoài đầy ghen tỵ. Làm vườn, cho dù đó là công việc cô ưa thích, nhưng vẫn không phải là một kỹ năng cô làm chủ được. Maggie từng nói giá như những cái cây không có rễ, hẳn chúng đã chạy trốn khi cô bước vào vườn.
Ngôi nhà là một dinh thự kiểu trang trại trải rộng, có tuổi đời chừng bốn mươi năm, và nằm chễm chệ ở phía cuối khu đất. Dance ước tính nó có sáu phòng ngủ. Xe hơi của gia đình này gồm một chiếc Sedan Lexus và một chiếc Nissan Quest, đỗ trong gian ga ra lớn chất đầy dụng cụ thể thao, không giống như những món đồ tương tự để trong ga ra của Dance, trông chúng có vẻ thực sự đã được dùng nhiều.
Cô không nén nổi tiếng cười khi trông thấy những khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập mấy chiếc xe nhà Chilton. Chúng lặp lại y nguyên các hàng tiêu đề trên blog của ông ta, nào là: chống lại nhà máy khử mặn nước biển, chống lại dự luật giáo dục giới tính. Tả và Hữu, Dân chủ và Cộng hòa.
Ông ta có vẻ nhiều hơn là cắt và dán…
Trong khuôn viên còn có một chiếc xe nữa, đậu trên đường dẫn vào nhà, có lẽ là của một vị khách, vì chiếc Taurus mang một tấm đề can tế nhị của một công ty cho thuê xe. Dance đỗ lại và tiến tới phía cửa, bấm chuông.
Tiếng bước chân vang lên to dần, một phụ nữ tóc sẫm xuất hiện, người này khoảng ngoài bốn mươi tuổi, mảnh dẻ, mặc quần jean hàng hiệu và một chiếc áo sơ mi trắng, cổ áo dựng lên. Trên cổ bà ta là một sợi dây chuyền bạc hiệu Daniel Yurman có mắt to.
Đôi giày, Dance không thể dừng săm soi, là hàng nhập khẩu từ Ý và cực kỳ kiểu cách.
Cô xưng danh, xuất trình thẻ công vụ. “Tôi đã gọi điện trước. Để gặp ông Chilton.”
Khuôn mặt người phụ nữ lập tức chuyển thành nét cau mày điển hình khi ai đó gặp phải các nhân viên thực thi pháp luật. Tên bà ta là Patrizia hay Pa-treet-sia theo như phát âm của bà ta.
“Jim vừa mới kết thúc một cuộc gặp. Tôi sẽ báo cho anh ấy biết cô đang ở đây.”
“Cảm ơn bà.”
“Mời cô vào.”
Người phụ nữ dẫn Dance vào một căn phòng đậm chất tư gia, các bức tường phủ đầy ảnh gia đình, sau đó biến mất trong giây lát. Rồi Patrizia quay lại. “Chồng tôi sẽ ra ngay.”
“Cảm ơn. Đây là các con trai bà phải không?” Dance chỉ tay vào một bức ảnh chụp Patrizia, một người đàn ông hói đầu cao lênh khênh gầy gò mà cô đoán là Chilton, và hai cậu bé tóc đen làm cô nhớ tới Wes. Tất cả họ đều đang tươi cười nhìn vào ống kính.
Người phụ nữ tự hào nói, “Jim và Chet.”
Vợ Chilton tiếp tục lướt qua các bức ảnh. Từ những tấm bà chụp hồi trẻ ở bãi biển Carmel, Point Lobos, Mission, Dance đoán bà là dân địa phương. Patrizia xác nhận, phải, đúng là thế, và trên thực tế, bà đã lớn lên trong chính ngôi nhà này. “Bố tôi từng sống một mình ở đây nhiều năm. Khi ông mất, khoảng ba năm trước, Jim và tôi đã dọn về.”
Dance thích ý tưởng về một ngôi nhà gia đình, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô nhớ tới việc bố mẹ Michael O’Neil vẫn đang sống trong ngôi nhà nằm kề đại dương nơi anh cùng các anh em từng lớn lên. Khi người bố suy yếu vì tuổi tác, mẹ anh đã nghĩ tới chuyện bán nó đi và chuyển đến sống ở một trung tâm dưỡng lão. Nhưng O’Neil đã kiên quyết giữ lại.
Khi Patrizia say mê chỉ vào những bức ảnh chụp lại mọi thành tích thể thao của gia đình - golf, túc cầu, tennis, ba môn phối hợp, Dance nghe thấy có tiếng nói vang lên ngoài tiền sảnh.
Cô quay lại và trông thấy hai người đàn ông. Chilton - cô nhận ra ngay nhờ bức ảnh - đội một chiếc mũ bóng chày, mặc áo sơ mi kiểu đấu thủ polo màu xanh lục và quần kaki ống bó sát. Những lọn tóc màu vàng thò ra từ dưới mũ. Ông ta rất cao và trông gọn ghẽ, chỉ một chút phần bụng hơi đẫy ra phía trên thắt lưng. Chilton đang nói chuyện với một người đàn ông khác tóc muối tiêu mặc quần jean, áo sơ mi trắng và khoác chiếc áo thể thao màu nâu. Dance chăm chú nhìn về phía họ, song Chilton đã hối hả đưa người đàn ông kia ra khỏi cửa. Ngôn ngữ cơ thể cho cô thấy ông ta không muốn vị khách, cho dù người này có là ai đi nữa, biết một nhân viên thực thi pháp luật đã tới gặp ông ta.
Patrizia lặp lại, “Chồng tôi sẽ ra ngay”.
Nhưng Dance đã bước qua bên cạnh bà và tiếp tục đi ra tiền sảnh, cô cảm thấy bà đang cứng người lại, muốn bảo vệ cho ông chồng. Song một người thẩm vấn cần ngay lập tức giành quyền làm chủ tình hình, bởi các đối tượng không thể được phép đưa ra luật chơi. Tuy nhiên khi Dance tới được cửa trước, Chilton đã quay trở lại và chiếc xe nọ rồ máy rời đi, mặt đường rải sỏi kêu lạo xạo dưới bốn bánh.
Đôi mắt màu xanh lục của ông ta - tương tự với màu mắt Dance - hướng sự chú ý về phía cô. Hai người bắt tay. Cô nhận thấy trên khuôn mặt người viết blog, một gương mặt rám nắng lấm chấm tàn nhang, sự tò mò và một chút thách thức hơn là vẻ cảnh giác dè chừng.
Thêm một lần trình thẻ công vụ chớp nhoáng nữa. “Chúng ta có thể ngồi đâu đó nói chuyện vài phút được chứ, ông Chilton?”
“Tất nhiên, trong phòng làm việc của tôi.”
Chilton dẫn cô băng qua tiền sảnh. Căn phòng họ đi vào có kích thước khá khiêm tốn và rất bừa bộn, hàng đống tạp chí, bài cắt ra từ báo và bản in từ máy tính chất cao như núi. Dance nhớ tới những gì cô biết được từ Jon Boling, và nhận thấy quả thực trò chơi làm phóng viên đang thay đổi: Những căn phòng nhỏ tại gia và các căn hộ giống như nơi này đã dần thay thế những tòa soạn báo trong thành phố. Dance không khỏi thú vị khi thấy một cốc trà bên cạnh máy tính của ông ta - mùichamomile[12] tràn ngập trong phòng. Không thuốc lá, cà phêa?”
“Tôi lái xe qua chỗ này và rẽ vào khúc cua ở đây,” ông ta dứt khoát chỉ xuống dưới chân mình. “Khi tôi rẽ vào vẫn chưa có cây thập tự nào hết. Tôi gọi vài cuộc điện thoại, sau đó vòng xe quay trở ra giao lộ. Tôi đợi chiếc xe trước mặt chạy đi rồi quan sát đoạn đường phía trước. Và nó đã ở kia,” ông ta lại chỉ tay. Lần này ông nhìn về phía cây thập tự. “Tôi không hề thấy cậu ta. Còn về cái áo có mũ trùm đầu và những chuyện khác ư? Tôi kiếm được từ trên blog. Tất cả những gì tôi có thể nói là mình không bắt gặp ai ở chỗ vệ đường, vì thế cậu ta hẳn phải từ trong rừng đi ra. Và, phải, tôi biết nó có nghĩa là gì. Cây thập tự. Và nó làm tôi sợ chết khiếp. Tên sát nhân mới vừa ở đó, ngay trước mặt tôi!”
Một tiếng cười chua chát vang lên.
“Tôi khóa cửa lại thật nhanh... Tôi chưa bao giờ làm gì can đảm trong đời mình. Không giống bố tôi. Ông ấy là lính cứu hỏa, tình nguyện.”
Chuyện này vẫn thường xảy đến với Kathryn Dance. Khía cạnh quan trọng nhất trong hỏi cung và thẩm vấn là cần biết lắng nghe, không phán xét và tỉnh táo. Vì cô luôn cải thiện kỹ năng này hàng ngày, các nhân chứng - cả các đối tượng nghi vấn - thường có xu hướng xem cô như một chuyên gia về trị liệu tâm lý.
Quý ông Ken Pfister tội nghiệp đang xưng tội.
Nhưng ông ta sẽ phải tìm đến một chuyên gia tâm lý khác. Công việc của cô không bao gồm việc chẩn trị những con quỷ ám ảnh tâm trí ông.
O’Neil đang nhìn về phía vạt rừng. Dựa vào những gì Pfister cung cấp ban đầu, các nhân viên cảnh sát đang tìm kiếm ở khu vực gò đất. “Tốt hơn chúng ta nên kiểm tra trong vạt rừng.” Anh ném một cái nhìn lạnh lẽo về phía Pfister. “Ít nhất điều đó có thể sẽ hữu ích,” anh gọi vài nhân viên điều tra đi theo mình và họ băng qua đường tới tìm kiếm trong vạt rừng.
“Thế còn chiếc xe ông đã đợi cho chạy qua?” Dance hỏi Pfister. “Liệu người lái xe có thể trông thấy gì đó không?”
“Tôi không biết. Có thể, nếu Travis vẫn còn ở đó. Họ có tầm nhìn tốt hơn tôi.”
“Ông có nhìn thấy biển đăng ký xe không?”
“Không, có lẽ nó có màu tối, nó là một chiếc bán tải hoặc xe tải. Nhưng tôi nhớ là xe công.”
“Xe công ư?”
“Phải, đằng sau nó có từ ‘tiểu bang’.”
“Tổ chức nào vậy?”
“Tôi không thấy. Thật đấy.”
Điều đó có thể có ích. Họ cần liên lạc với tất cả các cơ quan công quyền California có khả năng có phương tiện qua lại trong khu vực. “Tốt.”
Ông ta dường như phấn khích với lời khen ngợi thoáng qua.
“Được rồi. Bây giờ ông được tự do ra về, Ken. Nhưng hãy nhớ vẫn còn một đơn khiếu nại để ngỏ chống lại ông.”
“Vâng, chắc rồi, chắc rồi. Thế này nhé, tôi rất xin lỗi. Tôi không có ý gì xấu,” ông ta hối hả rời đi.
Trong khi băng qua đường tới chỗ O’Neil và nhóm điều tra viên đang lùng sục trong vạt rừng, Dance dõi theo vị thương gia đang kích động chui vào chiếc xe méo mó của ông ta.
Tất cả các câu chuyện đều ở trên blog đó. Chúng phải đúng sự thật chứ, phải không nào?

~*~

Cô muốn chết.
Kelley Morgan đang thầm lặng mong mỏi lời cầu nguyện của cô được đáp trả. Hơi hóa chất bốc lên đang làm cô ngạt thở. Cô không còn nhìn thấy gì nữa. Phổi cô đau rát, mắt và mũi cô như đang bốc cháy.
Cảm giác đau đớn...
Nhưng còn ghê rợn hơn nó là ý nghĩ về những gì đang xảy đến, những thay đổi khủng khiếp nơi làn da và khuôn mặt do chất hóa học gây ra.
Dòng suy nghĩ của cô gái trẻ rối như mớ bòng bong. Cô không còn nhớ gì kể từ lúc bị Travis lôi xuống cầu thang. Khi tỉnh lại cô đã ở đây, trong kho rượu tối tăm của bố mình dưới tầng hầm, bị xích vào một đường ống. Miệng bị dán chặt băng dính, vùng cổ bị kẻ tấn công siết chặt đến suýt chết đang đau rát.
Và cô gái bị ngạt dữ dội bởi thứ gì đó hắn đã đổ xuống sàn, thứ hóa chất lúc này đang thiêu cháy mắt, mũi, họng cô.
Ngạt, ngạt...
Kelley cố kêu lên. Thật vô ích với dải băng dính che kín miệng. Bên cạnh đó, chẳng ai nghe được. Gia đình cô đã ra ngoài hết và sẽ phải rất lâu nữa mới có người quay về.
Cảm giác đau đớn...
Cô gái trẻ điên cuồng, cố đạp đường ống bằng đồng bật ra khỏi tường. Nhưng đường ống kim loại kh&oc; hay whisky cho những nhà báo mạng nghiêm túc thời nay, có vẻ là vậy.
[12. Một loại cây thuộc họ Cúc được dùng làm trà thảo mộc.]
Họ cùng ngồi xuống và ông chủ nhà mở đầu bằng cái nhướng mày. “Vậy ra ông ta đã phàn nàn, phải không nào? Nhưng tôi thấy tò mò đấy. Sao lại là cảnh sát, thay vì một vụ kiện dân sự?”
“Sao lại thế?” Dance không khỏi thấy lúng túng khó hiểu.
Chilton ngả người ra sau ghế, bỏ mũ xuống, đưa tay lên xoa cái đầu hói của mình rồi lại đội mũ vào. Ông ta đang bực bội. “Ôi, hắn chỉ trích chuyện bị phỉ báng. Nhưng chuyện đó đâu phải nhục mạ ai nếu nó đúng sự thật. Bên cạnh đó, thậm chí dù những gì tôi đã viết là sai, mà kỳ thực không phải thế, phỉ báng cũng chẳng phải là tội trạng tại đất nước này. Ở Nga thời Stalin[13] thì có thể đấy, nhưng ở đây thì chưa. Vậy vì sao cô lại can dự vào?”
[13. Lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Liên Xô - Đức.]
Đôi mắt ông chủ blog rất sắc bén và soi mói, thái độ thật quyết liệt; Dance có thể hình dung tại sao người ta lại có thể nhanh chóng cảm thấy ngán ngẩm khi trải qua nhiều giờ liền với sự hiện diện của ông ta.
“Tôi không rõ ý ông là gì.”
“Không phải cô đến đây vì Arnie Brubaker đấy chứ?”
“Không. Đó là ai vậy?”
“Ông ta là kẻ muốn hủy diệt bờ biển của chúng ta bằng cách dựng lên cái nhà máy khử mặn nước biển đó.”
Dance nhớ lại blog đăng trên Bản tin Chilton chỉ trích nhà máy nọ. Và dòng khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập.
“Không, việc này không có liên quan gì tới chuyện đó hết.”
Trán Chilton cau lại. “Ông ta thích việc ngăn chặn được tôi lại lắm. Tôi đã nghĩ có thể ông ta đã nặn ra một lời cáo buộc hình sự nào đó. Nhưng xin lỗi nhé. Tôi đang đưa ra những suy đoán.”
Vẻ thủ thế trên khuôn mặt ông ta dãn ra. “Chỉ là, vậy đấy, Brubaker thực sự là một... cái gai.”
Dance tự hỏi không rõ hình ảnh dự định được dùng ban đầu để mô tả người chủ dự án vốn là gì.
“Thứ lỗi cho tôi”, Patrizia xuất hiện trên ngưỡng cửa và mang tới cho chồng bà một cốc trà mới pha. Bà chủ nhà hỏi Dance có muốn uống gì không. Lúc này bà ta đang mỉm cười nhưng vẫn nhìn cô đầy nghi ngờ.
“Cảm ơn bà, không cần đâu.”
Chilton gật đầu nhận cốc trà kèm cái nháy mắt trìu mến cảm ơn vợ mình. Bà vợ quay ra và đóng cửa lại.
“Vậy tôi có thể giúp gì được cô?”
“Blog ông lập ra về những cây thập tự ven đường.”
“Ồ, vụ tai nạn xe hơi ư?”, chủ nhà nhìn Dance chăm chú. Một phần vẻ thủ thế đã quay trở lại; cô có thể đọc được nét căng thẳng trong tư thế của ông ta.
“Tôi đã theo dõi tin tức. Cô gái đó bị tấn công, báo chí đang nói thế, vì cô bé đã đăng bình luận gì đó trên blog. Những người đăng bài cũng bắt đầu nói chuyện tương tự. Chắc cô muốn biết tên cậu bé kia.”
“Không. Cái đó chúng tôi biết rồi.”
“Có phải cậu ta chính là kẻ định dìm chết cô gái không?”
“Dường như là thế.”
Chilton hối hả nói, “Tôi không công kích cậu ta. Câu hỏi tôi đặt ra là liệu cảnh sát đã thực sự nghiêm túc trong cuộc điều tra và liệu Caltrans đã bảo dưỡng con đường đúng yêu cầu chưa? Tôi đã nói ngay từ đầu cậu ta không đáng trách. Và tôi đã ẩn tên cậu ta đi.”
“Không mất nhiều thời gian để đám đông tìm kiếm và phát giác ra cậu ta là ai.”
Miệng Chilton méo đi. Ông ta đã đón nhận lời nhận xét như một chỉ trích nhằm vào bản thân mình hay blog, dù kỳ thực không phải thế. Nhưng ông ta nhượng bộ. “Điều đó đúng là đã xảy ra. Được rồi, tôi có thể làm gì giúp cô?”
“Chúng tôi có lý do để tin Travis Brigham nhiều khả năng đang âm mưu tấn công những người khác đã đăng bài chỉ trích.”
“Cô chắc vậy không?”
“Không, nhưng chúng tôi buộc phải coi đó là một khả năng.”
Chilton nhăn mặt. “Ý tôi là cô không thể bắt giữ cậu ta sao?”
“Hiện tại chúng tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi không biết chắc cậu ta đang ở đâu.”
“Tôi hiểu rồi”, Chilton nhòng ẩn danh cho bố mẹ tại nhà trọ bọn con vẫn dùng cho nhân chứng.”
“George Sheedy đã đăng ký cho bố mẹ một căn phòng dưới tên giả rồi,” Stuart nói. “Bố không biết con cảm thấy thế nào về điều này, con gái yêu quý, nhưng bố nghĩ mẹ con sẽ rất vui được gặp các cháu. Bà ấy rất lo lắng không biết bọn trẻ hoảng sợ đến thế nào khi cảnh sát xông vào bệnh viện.”
“Ý tưởng tuyệt vời. Con sẽ đến nhà Martine đón các cháu và đưa chúng đến chỗ bố mẹ. Khi nào bố mẹ lấy phòng?”
“Hai mươi phút nữa.”
Ông cho cô địa chỉ.
“Con có thể nói chuyện với mẹ không?”
“Bà ấy đang nói chuyện điện thoại với Betsey. Con có thể gặp mẹ khi con đưa các cháu đến. Sheedy cũng sẽ ghé qua để thảo luận về vụ án.”
Hai người ngắt liên lạc. O’Neil từ trong vạt rừng quay trở ra.
Cô hỏi, “Anh có tìm thấy gì không?”
“Vài dấu chân không có gì hữu ích, một dấu vết nhỏ - một sợi vải màu xám, giống thứ chúng ta tìm thấy lúc trước, và một mảnh giấy màu nâu. Một hạt yến mạch hay thứ ngũ cốc gì đó. Có thể từ một cái bánh, tôi đang nghĩ vậy. Peter đang đợi để nhận nó. Ông ấy sẽ cho chúng ta kết quả phân tích ngay khi có thể.”
“Mấy thứ đó rất có ích khi dùng làm bằng chứng buộc tội cậu ấy. Nhưng điều chúng ta cần lúc này là một dấu hiệu cụ thể cho biết cậu ta đang trốn ở đâu.”
Và còn một câu hỏi nữa: Ai sẽ là nạn nhân tiếp theo sắp bị cậu ta tấn công?
Trong khi Dance lấy điện thoại ra để gọi cho Jon Boling, nhạc chuông lại vang lên. Cô thoáng mỉm cười trước sự trùng hợp. Tên anh hiện lên ở mục danh tính người gọi.
“Jon,” cô trả lời máy.
Khi nghe những điều giáo sư nói, nụ cười của Dance nhanh chóng tan biến.

Cô nghĩ tới lời khuyên của Boling và nói, “Thế này nhé, blog của ông được biết đến trên toàn thế giới. Nó rất được tôn trọng. Đây là một trong những lý do có nhiều người đăng bài trên đó đến thế.”
Tia sáng khoan khoái lóe lên trong đôi mắt ông ta rất mờ nhạt nhưng thật rõ ràng với Dance. Nó cho cô biết thậm chí cả những lời phỉnh nịnh thẳng thừng cũng được James Chilton đón nhận rất hào hứng.
“Nhưng vấn đề là tất cả những người đăng bài công kích Travis đều là mục tiêu tiềm tàng. Và con số này đang tăng lên từng giờ.”
“Bản tin là một trong những địa chỉ có tỷ lệ bình chọn cao nhất trong nước. Nó là blog được đọc nhiều nhất ở California.”
“Tôi không hề ngạc nhiên. Tôi thực sự thích nó.”
Dance luôn để ý đến thái độ bên ngoài của chính cô để không làm lộ ra sự phỉnh nịnh.
“Cảm ơn cô,” một nụ cười tươi hết cỡ làm khóe mắt ông chủ blog híp lại.
“Nhưng hãy nhìn vào điều chúng ta phải đối mặt: Mỗi khi ai đó đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường, họ sẽ trở thành một mục tiêu tiềm tàng. Một số trong những người này hoàn toàn ẩn danh, một số sống ở nơi khác. Nhưng có những người sống gần quanh đây và chúng tôi e rằng Travis sẽ tìm ra danh tính của họ. Và khi đó cậu ta cũng sẽ đi tìm họ.”
“Ồ,” Chilton thốt lên, nụ cười biến mất. Bộ óc nhanh nhạy của ông ta lập tức đưa ra suy đoán. “Và cô đến đây vì địa chỉ Internet của họ.”
“Để bảo vệ họ.”
“Tôi không thể cung cấp chúng.”
“Nhưng những người đó đang gặp nguy hiểm.”
“Đất nước này hoạt động trên nguyên tắc tách riêng truyền thông và nhà nước.” Cứ như thể lời giảng đạo này có thể hạ gục lý lẽ của cô.
“Cô bé đó đã bị ném vào cốp xe và bỏ mặc cho chết đuối. Có thể ngay lúc này Travis đang lên kế hoạch cho một vụ tấn công nữa.”
Chilton giơ một ngón tay lên, ra hiệu bảo cô im lặng như một thầy giáo. “Đó là một con dốc rất nguy hiểm. Đặc vụ Dance, cô làm việc cho ai? Sếp cao nhất của cô là ai?”
“Chưởng lý tiểu bang.”
“Ừ, được lắm, cứ giả sử tôi đưa cho cô địa chỉ những người đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường. Thế rồi tháng sau cô quay lại và yêu cầu địa chỉ của một anh chàng chỉ trích sai trái vừa bị chưởng lý tiểu bang sa thải vì, ồ, quấy rối chẳng hạn. Hay có thể cô lại muốn địa chỉ ai đó đăng bài phê phán thống đốc. Hay tổng thống. Hay chuyện này thì sao nhỉ - ai đó nói vài câu có thiện cảm về al-Qaeda[14]? Cô sẽ nói với tôi: “Lần trước ông đã cung cấp thông tin cho tôi. Sao lần này lại không?”.
[14. Mạng lưới khủng bố Hồi giáo cực đoan chịu trách nhiệm về vụ 11/9.]
“Sẽ không có lần nào nữa.”
“Cô nói thế nhưng...”
Như thể các nhân viên chính phủ lúc nào cũng chỉ thở ra điều dối trá vậy. “Cậu nhóc có biết cô đang truy tìm mình không?”
“Có.”
“Vậy thì cậu ta sẽ chuồn đến đâu đó để trốn, cô không nghĩ vậy sao? Cậu ta sẽ không lộ diện bằng cách đi tấn công ai khác. Không đâu, nếu cảnh sát đang truy nã ráo riết,” giọng ông ta thật quả quyết.
Dance tiếp tục với ngữ điệu chậm rãi một cách chừng mực, “Dẫu vậy. Ông biết đấy, ông Chilton, đôi khi cuộc đời là những vụ thỏa hiệp.”
Cô để lời nhận xét treo lơ lửng.
Ông ta nhướng một bên mày lên, chờ đợi.
“Nếu ông cung cấp cho chúng tôi các địa chỉ của những người sống trong vùng đã viết những bài chỉ trích nghiệt ngã nhất về Travis - chúng tôi thực sự đánh giá rất cao cử chỉ này. Có thể... vậy đấy, có thể chúng tôi sẽ làm được gì đó để giúp ông, nếu ông cần giúp một tay.”
“Chẳng hạn như?”
Dance lại nghĩ về những lời khuyên của Boling rồi nói, “Chúng tôi sẽ rất vui lòng đưa ra một thông báo về sự hợp tác của ông. Một quảng bá rất tốt.”
Chilton ngẫm nghĩ. Nhưng rồi cau mày. “Không. Nếu tôi giúp cô, có lẽ tốt nhất không nên nhắc tới chuyện đó.”
Cô cảm thấy hài lòng vì ông ta đang thương lượng. “Thôi được, tôi có thể hiểu. Nhưng có lẽ còn những thứ khác chúng tôi có thể làm.”
“Thật ư? Cái gì vậ CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 CHƯƠNG 44 CHƯƠNG 45 CHƯƠNG 46 CHƯƠNG 47
Truyện Cùng Tác Giả BÚP BÊ ĐANG NGỦ Cái Ghế Trống Cây thập tự ven đường Dữ Liệu Tử Thần Giọt Lệ Quỷ KẺ TẦM XƯƠNG Lá bài thứ XII TRĂNG LẠNH VŨ ĐIỆU CỦA THẦN CHẾT