Chương ba (tt)

     ữ ca sĩ Hồng Châu đem lại cho chúng tôi một buổi chiều vui. Chúng tôi đã nghe cô hát nhiều lần ở chiếc máy thâu thanh đặt ở nhà chơi. Máy cũ âm thanh khàn khàn. Thường thường ca sĩ nào hát vào đó thì cũng thành ra dở hết. Nhưng Hồng Châu có một giọng ca đặc biệt. Chữ đầu của câu hát bao giờ cũng mạnh mẽ, tha thiết, rồi lời ca nhẹ dần, xa dần. Chúng tôi hay buồn nên rất yêu giọng ca đó.
Anh Phong cho tôi biết là anh quen Hồng Châu, có thể mời cô đến trường. Thế rồi, bất ngờ, anh Phong đưa cô ấy đến, không báo trước. Gặp chiều thứ bảy, khách đông, chúng tôi mời tất cả xuống phòng nhạc. Cuộc vui được tổ chức hơi vội vàng, luộm thuộm, nhưng mọi người đều hân hoan.
Ông giám thị Toán và anh Phong giúp chúng tôi kê mấy hàng ghế dài gần sân khấu. Sân khấu là một cái bục gỗ cao rộng, không có màn che. Đối với chúng tôi một sân khấu thô sơ như thế là đủ. Loại màn ngăn giữa khán giả và sân khấu chỉ cần thiết vào những dịp khán giả sáng mắt quá đông đảo.
Tôi ngồi ở hàng ghê đầu, hai bàn tay đặt lên mép sân khấu. Thịnh ngồi tì khuỷu tay lên vai tôi. Lúc này, hình như mọi người không còn vây quanh ca sĩ Hồng Châu để hỏi han. Tôi nghe rõ tiếng chân cô đi lại chầm chậm trên sân khấu. Tiếng giày của anh Phong đôi lúc cũng khua lên một cách vội vàng trên mặt gỗ. Chắc anh đang giúp anh Bằng và ban nhạc đem đàn, trống từ tủ ra. Cô Hồng Châu nói:
- Nhạc khí ở đây cũng nhiều đấy chứ.
Anh Phong:
- Ở đây có cả một ban nhạc mà.
Anh Bằng vừa nói vừa cười:
- Càng nhiều nhạc khí càng lộn xộn, khó hòa hợp nhau. Chúng em toàn là những nhạc công tài tử.
Cô Hồng Châu cười:
- Các bạn khiêm nhường quá.
- Thật mà. Lát nữa nếu lời ca, tiếng đàn bỏ rơi nhau, cái đi trước, cái đi sau thì chị đừng buồn nghe.
Tiếng dương cầm bên cửa sổ vang lên vài âm thanh thánh thót. Chúng tôi lắng tai nghe, chờ đợi. Ban nhạc ngồi quanh sân khấu cũng đang thử dây đàn. Hình như phòng nhạc đang rộng dần ra để đón cơn mưa âm thanh.
Thịnh ghé tai tôi nói nhỏ:
- Trời ơi! Giá mình được sáng mắt một lúc để coi mặt cô Hồng Châu và coi mọi cảnh trong phòng thì sướng quá.
- Thế thì thích chết được.
- Chỉ cần sáng mắt một phút thôi.
- Ờ một phút thôi. Mình nhìn thật lẹ.
- Sau đó, mình có mù lại, mình vẫn nhớ hoài hoài nhỉ.
Ban nhạc hòa tấu một đoạn nhạc ngắn như để làm quen với nhịp điệu. Thỉnh thoảng một tiếng trống quá lớn bật lên làm tôi giật mình. Anh Bằng hét:
- Quỳnh nhỏ! Đập nhẹ tay thôi chứ.
Anh Phong vui vẻ:
- Thưa quý vị, màn đã mở, cuộc vui giản dị của chúng ta bắt đầu.
Cô Hồng Châu:
- Anh Phong này, em nên hát bài gì bây giờ?
- Hát bài nào Châu thích nhất.
- “Về đâu mái tóc người thương” nhé?
Câu nói hơi lớn như dành cho cả chúng tôi. Lập tức chúng tôi cùng vỗ tay. Như được lệnh, ban nhạc dạo khúc mở đầu.
Và tiếng hát của người ca sĩ lừng danh vang lên trong căn phòng nghèo nàn. Lời hát, giọng ca buồn diễn tả một mối tình tuyệt vọng với nỗi thương tiếc khôn nguôi. Máy vi âm tốt, tiếng ca như dòng suối mát chảy qua tâm hồn. Tôi vừa cảm động vừa kiêu hãnh. Những đoạn cô Hồng Châu ngân quá dài, Thịnh tỏ lộ sự cảm phục của nó bằng cách đập cùi chỏ lên vai tôi.
Khi bài ca đầu tiên chấm dứt, chúng tôi nhao nhao yêu cầu những bài chúng tôi thích. Cô Hồng Châu hát liên tiếp sáu bài liền. Anh Phong phải kêu lên:
- Thôi, nghỉ đi một chút đã. Ghế đây.
Tiếng cô Hồng Châu rời xa máy vi âm, nhỏ đi:
- Em muốn hát mãi. Chưa bao giờ em được đứng hát trước những thính giả đặc biệt, hiền hậu và dễ thương như ở đây.
Sinh lên tiếng:
- Chị Hồng Châu nghỉ mệt. Anh Phong ngâm thơ đi.
Anh Phong cười:
- Sao lại có đề nghị dại dột thế. Vừa uống nước đường xong ai lại ăn chanh.
Anh chưa nói hết câu, chúng tôi đã vỗ tay và gào: “Anh Phong ngâm thơ! Anh Phong ngâm thơ!” Không phải là lời yêu cầu mà chính sự hân hoan của chúng tôi đã khiến anh Phong không thể từ chối. Đến trước máy vi âm, bằng một giọng ngượng nghịu, anh ngâm một bài thơ ngắn. Ngâm xong, anh kết luận: “Bây giờ quý vị đã biết là mình dại rồi chứ!”
Giữa lúc đó một bàn tay đặt nhẹ nhàng lên vai tôi:
- Chiều nay vui quá, Thương nhỉ?
Giọng nói của chị Kim. Tôi vội vã quay lại và có ý muốn đứng lên:
- A, chị Kim. Chị đến hồi nào vậy?
- Lâu rồi.
- Chị được nghe từ đầu chứ?
- Chị đến khi cô Hồng Châu vừa hát xong bản “Về đâu mái tóc người thương”.
- Cô ấy hát hay quá chị nhỉ? Cô ấy có đẹp không chị?
- Đẹp lắm.
- Chị tả hình dáng của cô ấy cho em nghe đi.
- Cô Hồng Châu cao, hơi gầy, tóc để dài, không trang điểm quá nhiều như các ca sĩ khác...
Chị Kim ngừng lại suy nghĩ, chắc để tìm những lời tôi có thể hiểu. Nhưng tôi chỉ cần biết thế. Tôi hỏi:
- Anh Phong biết chị đến chưa?
- Chưa.
- Ủa, vậy ở đây đông lắm sao?
- Không đông lắm. Nhưng có lẽ đối với anh Phong một mình cô Hồng Châu đủ làm đầy phòng nhạc rồi.
Tôi có cảm tưởng chị Kim vừa nói vừa mỉm cười.
Cô Hồng Châu đã trở lại máy vi âm:
- Tôi muốn được ở đây thật lâu. Nhưng tiếc quá, tôi phải trở về đài phát thanh bây giờ. Trước khi từ biệt, tôi xin hát tặng các bạn một bản nữa.
Bàn tay chị Kim rời khỏi vai tôi. Nhạc và lời ca lại làm chủ căn phòng.
Khi cô Hồng Châu ra về, chúng tôi cùng đứng dậy đưa tiễn ra tận cổng. Mỗi đứa đều muốn hỏi một câu. Để trả lời, nhiều khi cô chỉ cười.
Cô nói với anh Bằng:
- Ban nhạc của nhà trường hay lắm. Anh đàn dương cầm tên gì nhỉ?
- Hắn tên là Thảo.
- Anh và anh Thảo có chơi ở một ban nhạc nào không?
- Dạ, không.
- Uổng quá. Nếu hai anh bằng lòng tôi có thể giới thiệu hai anh với một ông trưởng ban ở đài, ông ta đang cần tuyển thêm nhạc công.
Chắc nghe câu đề nghị này anh Bằng vui lắm.
Tôi cũng hân hoan nhớ lại.ước vọng của mình. Lát nữa tôi sẽ hỏi ý kiến anh Phong. Đến cổng, Sinh nói to:
- Chị Hồng Châu tới thăm chúng em luôn nhé.
- Vâng. Và lần sau các bạn phải hát cho tôi nghe với đấy.
Chúng tôi dừng lại. Anh Phong bước thêm mấy bước ra khỏi cổng, theo chị Hồng Châu. Câu chuyện bắt đầu có tính cách riêng tư giữa hai người.
- Anh cảm ơn Châu nhiều lắm.
- Em cũng muốn tới đây hát cho các bạn mù nghe mà.
Hai người đi xa dần. Anh Phong cất tiếng gọi xe. Cuộc vui kéo dài qua cả giờ cơm. Chắc lúc này các bạn tôi mới tụ tập ở phòng ăn. Tôi đứng tựa vào cánh cửa gỗ. Thỉnh thoảng vài chị bên lưu xá đi qua khung cửa nhỏ về trường. Câu chuyện của họ vẫn xoay quanh giọng ca và sắc đẹp của cô Hồng Châu.
Anh Phong trở lại trường nắm tay tôi:
- Hài lòng chưa cậu?
- Vui quá anh.
- Giờ thì đi ăn cơm chứ. Tôi cũng phải đi một lát.
- Anh trở lại ngay nhé. Em có nhiều chuyện muốn nói với anh.
- Hôm nay tôi sẽ ở lại với cậu thật khuya. Ông giám thị trẻ trực mà.
Chọt nhớ đến chị Kim, tôi hỏi:
- Anh gặp chị Kim chưa?
- Kim cũng đến sao?
- Chị ấy đến từ hồi chiều.
Anh Phong yên lặng một lúc, rồi nói:
- Thôi, cậu đi ăn cơm cho kịp.
Tôi quay vào phòng ăn. Bữa cơm đã đến giai đoạn cuối. Hôm nay đặc biệt có món trái cây tráng miệng. Đó là quà ông hiệu trưởng mua về cho chúng tôi. Mỗi lần có dịp đi xa ông lại nhớ đến chúng tôi bằng cách ấy. Tôi ăn rất nhanh rồi lên phòng khách ngồi. Một lát sau anh San và bé Hùng đến ngồi cạnh tôi. Hai người đang tranh luận về một vấn đề gì đó. Anh San nói:
- Mày thua rồi.
Bé Hùng cãi:
- Chờ lát nữa coi. Biết đâu.
- Thôi đừng cãi bướng, chịu thua đi.
- Còn sớm mà.
- Bây giờ mà còn sớm gì? Đưa tai đây tao búng cho rồi.
Bé Hùng kêu ré lên, cái ghế dài chúng tôi ngồi lung lay vì nó giẫy quá mạnh:
- Anh búng nhẹ thôi nghe.
- Được rồi. Một này...
- Ui da!
- Hai này.
- Ui da!
- Thôi, cho mày chịu tám cái. Lâu lâu buồn tay tao sẽ búng dần.
- Anh này ác. Búng muốn rớt tai luôn...
Bé Hùng không nói hết câu. Một tiếng guốc đạp lạo xạo nhè nhẹ ở phía cổng trường. Tiếng guốc khoan thai. Mỗi bước chân tạo trên sỏi một âm thanh kéo hơi dài. Tôi nghĩ đó là bước đi của một người đang rón rén tiến tới, hoặc quá mập mạp. Anh San thở dài:
- Không phải mà.
Bé Hùng vẫn yên lặng. Tiếng chân bước lên hành lang, xa dần. Bé Hùng nói:
- Trời! Tưởng chị ấy vô thiệt! Em sẽ búng lại anh mười cái, à, mười hai cái chứ.
- Tuần sau liệu Quỳnh có đến không nhỉ?
- Chắc mà.
- Chắc gì?
- Tuần sau nhất định chị Quỳnh phải đến.
- Dám cá nữa không?
- Cá liền.
- Mấy búng tai?
- Mười.
- Mười ít quá. Hai chục.
- Rồi. Hai chục.
- Mẹ kiếp! Thằng này hăng quá xá.
- Em đã nhờ chị Hoài bên lưu xá kiếm chị ấy xin lỗi giùm. Thế nào chị ấy cũng hết giận mà.
Cả hai yên lặng. Tôi muốn lên tiếng lại thôi. Chợt anh San, trong lúc đứng dậy đã chạm tay vào vai tôi.
- Thương hả?
- Vâng.
- Hồi chiều cô Hồng Châu đến ca hát vui lắm phải không?
- Ủa, anh không nghe sao?
- Đâu có nghe gì. Thằng quỷ này nhất định cá là hôm nay Quỳnh đến trường. Hai đứa ngồi đây chờ đã đời. uổng quá.
Anh San nói với bé Hùng:
- Thôi. Tụi mình đi dạo một vòng.
Giọng nói của anh San trầm tĩnh, có lúc như hơi mệt mỏi. Hình như anh vẫn còn nuôi một chút hy vọng và mệt mỏi vì chút hy vọng đó. Sau vụ lộn xộn không hiểu sao anh San và bé Hùng lại luôn luôn đi với nhau. Hay đó là cách duy nhất giúp anh được nghe nói nhiều về Quỳnh? Cả hai đã ngồi suốt buổi chiều ở phòng khách để đợi, không tham dự cuộc vui.
Anh Phong trở lại trường với một gói khô mực nướng. Hôm nay ông giám thị trông coi là người dễ tính. Bạn bè chúng tôi có thể ở lại trường thật khuya. Sân sau trường hồi này cỏ mọc cao. Chúng tôi trải giấy báo ngồi thành từng nhóm bốn, năm người.
Anh Phong, anh Bằng và tôi chiếm một chỗ cỏ mọc dầy gần cửa phòng nhạc. Đêm mát, cỏ thơm. Mùi mực nướng còn thơm hơn. Gió thổi đều như không bao giờ dứt. Nhờ gió tôi cảm thấy bãi cỏ rộng mênh mông. Bóng tối bớt nặng nề.
Sự vui mừng cùng nỗi buồn đã hòa hợp gây nên một cảm giác lâng lâng dễ chịu. Thỉnh thoảng, một con vật nhỏ bé từ lá cỏ bò lên chân tôi. Tôi gạt nó đi rất chậm để khỏi làm nó phật lòng. Trong đêm mát, bóng tối mà tôi thù ghét trong bao nhiêu năm không còn vẻ bí mật, đe dọa. Có lúc tôi hân hoan tỉnh táo như bóng tối đã rút lui ra khỏi khoảng sân cỏ. Tôi cảm thấy được cả những cử động của anh Phong. Tôi rất gần gũi mọi người. Bốn giác quan còn lại của tôi tinh tế hơn? Hay những cái tôi đang cảm thấy, biết chắc, chỉ là một sản phẩm của đêm khuya, gió mát và nguồn hy vọng đang lớn dần?
Tuy vậy, khi nói về ước vọng của mình cho anh Phong nghe, tôi hơi ấp úng:
- Em muốn học đàn hoặc hát. Mở đầu việc học chắc sẽ khó khăn lắm, nhưng em nhất định cố gắng. Anh giúp em được không?
Anh Phong đặt một tay lên vai tôi:
- Hoan nghênh! Bắt đầu tính chuyện làm ăn rồi đấy hả?
- Em... em chỉ muốn có một nghề. Những nghề nhà trường dạy không hứa hẹn gì. Khi ra khỏi trường em chưa biết sống bằng cách nào.
Bàn tay anh Phong bóp mạnh vai tôi:
- Nhiều lần anh muốn bảo Thương điều đó. Nhưng Thương hay tỏ ra buồn rầu, thất vọng. Anh sợ, ở tình trạng thiếu hăng hái, Thương không thích nghe chuyện làm ăn...
Anh Phong nhắc lại cho tôi nhớ những thành tích mà người mù đã đạt được. Anh cố gắng giảng cho tôi hiểu là với bốn giác quan, nếu chịu phấn đấu, tôi vẫn có thể tìm được một chỗ đứng tốt đẹp trong xã hội. Có nhiều người bình thường đã để cho cả năm giác quan hoạt động một cách lười biếng và ít khi thưởng thức nổi hạnh phúc của chính mình.
Anh Phong nói rất nhiều. Anh còn chỉ trích cả cái tính ưa sầu não của tôi. Những lời khuyến khích hay trách móc đều đem lại cho tôi sự tin tưởng, niềm hân hoan. Tôi chẳng biết có đi tới đích không, nhưng điều quan trọng là phải vượt khỏi vị trí hiện tại của mình. Tôi hỏi:
- Em nên học đàn hay học hát?
- Cả hai cũng được. Khi biết chắc mình thích và có năng khiếu về nghề nào, Thương sẽ chuyên về môn đó.
Anh Phong nói với anh Bằng:
- Khi rảnh Bằng nên tập hát cho các bạn.
Anh Bằng cười to:
- Thường thường tụi nó lười lắm anh. Mấy cậu còn nhỏ thì chỉ lo nghịch ngợm.
Tôi cãi:
- Em khác. Em sẽ học tập thật chăm.
Anh Bằng bắt đầu ôm đàn gẩy liên tiếp mấy bài. Trong tiếng đàn cũng có những âm thanh mạnh mẽ, đột ngột, hào hứng. Tôi và anh Phong tiếp tục nhai khô mực. Bỗng anh Phong nói nhỏ:
- Kim!
- Chị Kim trở lại sao anh?
Tôi lắng tai nghe. Anh Bằng ngừng đàn. Những tiếng hát, tiếng cười của các nhóm khác vẫn vang lên trên sân cỏ, che lấp tiếng chân đi. Một lát sau tôi mới nghe cỏ động và chị Kim lên tiếng:
- Cho tôi chung vui với nhé.
Tôi và anh Bằng cùng reo lên để chào. Anh Phong nói:
- Điều kiện tiên quyết để nhập bọn là phải có một hàm răng tốt. Nhai thử đi.
- Khô mực hả anh?
- Ngồi xuống đây đã.
Anh Phong trải một tờ giấy xuống cỏ, tôi hỏi;
- Hồi nãy chị Kim ở đâu?
- Tôi về nhà ăn cơm.
- Chị hát cho chúng em nghe đi.
- Thôi mà. Vừa nghe cô Hồng Châu hát rồi còn gì. Bây giờ bắt anh Phong kể chuyện đi.
Anh Phong:
- Chuyện gì bây giờ?
- Chuyện tình cảm. Thí dụ anh cho chúng em biết anh quen cô Hồng Châu trong trường hợp nào?
Tôi lại có cảm tưởng chị Kim vừa nói vừa mỉm cười. Câu nói hồi phục cả cuộc vui buổi chiều.
Anh Bằng nói:
- Phải đó. Anh Phong nói chuyện tình cảm đi. Nghe chuyện thực của đời sống thích hơn.
Anh Phong có ý muốn từ chối:
- Chuyện tình cảm thường chỉ hay với người trong cuộc.
- Em thích nghe chuyện tình cảm như thích học hỏi. Anh cũng biết là ở tuổi em, nếu bình thường, người ta đã có một số vốn kinh nghiệm về tình yêu rồi. Đối với em, thế giới đầy tăm tối. Chuyện tình yêu càng chìm trong bóng tối nhiều hơn.
Giọng anh Bằng nghiêm trang, hơi buồn. Tự nhiên tôi cũng mong anh Phong nói chuyện tình cảm. Tôi vừa tò mò vừa bực bội vì những điều mình biết quá ít. Chắc cảm giác đó còn hành hạ anh Bằng nhiều hơn. Anh đã lớn, thế giới hiểu biết của anh cần được mở rộng mãi. Anh Phong vẫn tìm cách từ chối:
- Nhưng cậu Thương thì bé quá, làm sao nghe được.
Chị Kim đáp giùm tôi:
- Những điều anh kể ba bốn năm nữa Thương cũng sẽ muốn biết. Vậy Thương nghe sớm một chút cũng không sao. Vả lại, chuyện tình cảm giữa anh và cô Hồng Châu chắc cũng chả có gì quan trọng cần giấu diếm.
- Điều đáng giấu diếm nhất chỉ là những điều phải nói về cái tôi. Tại sao Kim lại thích nghe loại chuyện lẩm cẩm đó?
Chị Kim yên lặng một lúc lâu. Sự yên tĩnh quá đột ngột làm cho những câu nói vui vẻ, chen chúc nhau ở xa cũng bỗng mang vẻ ngỡ ngàng. Rồi giọng chị Kim trở nên xúc động lạ lùng. Cả câu nói như lẫn trong một hơi thở dài:
- Em quý mến cô Hồng Châu nên muốn được biết thêm về cô ấy. Đối với em, những người yêu cô ấy đều dễ thương và người được cô ấy yêu là người phi thường.
- Anh không phải là người phi thường.
- Anh tỏ tình với cô ấy chưa?
Giọng chị Kim đã trở lại bình tĩnh, hơi giễu cợt. Anh Phong đáp gọn:
- Rồi.
- Anh kể chuyện đó đi.
- Anh quỳ xuống chân nàng và nói: “Hỡi cô nương! Hỡi lý do vui sống của đời tôi! Tôi xin cúi đầu dâng lên cô nương một tình yêu chân thành”. Nàng phán: “Ta là nữ thần của ca nhạc. Muốn phục vụ ta nhà ngươi phải trở về học đàn, học nhạc cho thật giỏi”. Anh vội vã ra về tìm thầy học nhạc. Khi anh đọc thông được từ nốt “đô” cho đến nốt “si” thì nàng đã yêu một người khác. Từ ngày đó anh thâm thù ca nhạc, thề rằng mỗi khi gẩy đàn sẽ gẩy sai để giết chết các âm thanh.
- Anh lại đùa rồi.
- Kim muốn anh kể thế nào?
Chị Kim yên lặng. Cây đàn của anh Bằng chợt bật lên vài tiếng vu vơ. Âm thanh hỗn độn như có một bàn tay vô tình vừa chạm lướt trên sáu sợi dây căng.
Đối với tôi nhiều lúc câu nói của hai người thật khó hiểu. Nhưng giọng nói dịu dàng của họ gây cho tôi một cảm giác bâng khuâng, dễ chịu. Tôi tưởng như đang sống gần gũi mọi người trong một giấc mơ êm đềm. Tôi quý mến anh Phong, chị Kim. Mỗi lần có dịp biết thêm về hai người là tôi sung sướng.
Hình như sân cỏ lúc này đã vắng. Tôi không còn nghe tiếng cười nói. Tiếng máy chạy, tiếng xe cộ vẳng lại lẫn trong tiếng lá cây reo ở khu vườn phía nhà ông hiệu trưởng. Tiếng đàn của anh Bằng lại vang lên. Chị Kim nói:
- Khuya rồi.
Đúng lúc đó tiếng chuông giục học sinh đi ngủ vang lên. Chúng tôi đứng dậy. Trước khi tạm biệt, anh Phong bảo tôi:
- Nhớ kỹ quyết định hôm nay đấy nhé.
Tôi và anh Bằng tiễn hai người ra tới cửa. Khi trở vào, anh Bằng nắm tay tôi như có ý muốn dắt đi. Chúng tôi bước chầm chậm lên cầu thang. Buổi chiều đầy ắp những kỷ niệm vui. Tôi nhớ lại tiếng ca của cô Hồng Châu, những câu nói giữa anh Phong và chị Kim. Tôi nhớ lại giây phút ngồi quây quần với ba người trên sân cỏ. Có lẽ tôi sẽ thức khuya. Quá khứ sẽ xô về làm xao động cả một đêm yên tĩnh. Vả lại, tôi còn phải suy nghĩ và xây nhiều giấc mộng cho tương lai.

*

Tôi bước vào phòng khách. Người đến thăm tôi một cách bất ngờ là Lĩnh. Chúng tôi nắm cổ tay, vỗ vai nhau. Lĩnh vẫn gầy nhưng cao hơn trước nhiều. Giọng nói của hắn thì không thay đổi. Cái áo hắn mặc được là cứng, thẳng nếp. Lĩnh nói ngay:
- Trường này bày đặt kỷ luật lôi thôi quá. Tao đến thăm mày một lần rồi mà người ta không cho tao vào. Hôm đó là thứ ba. Một ông nào đó bảo tao: “Cấm thăm học sinh vào ngày thường”.
- Kỷ luật sắt mà.
- Hồi này mày mập ra nhiều đấy.
- Mày thì cao hơn.
- Dòng họ nhà tao có giống phát triển theo chiều dọc. Cha tao bảo tao còn phải cao năm phân nữa rồi mới bắt đầu mập. Mày sống ở đây có dễ chịu không?
- Ăn, học, ngủ đều đều, dễ chịu và hơi buồn.
- Học được nghề gì rồi?
- Làm bàn chải.
- Mẹ kiếp! Tao thấy ông mù nào cũng khoe học được nghề làm bàn chải. Bộ chỉ có nghề đó nuôi sống nổi mình thôi sao?
- Thiếu gì người học được nghề khác. Nhưng họ không học ở đây. Thế mày học được nghề gì rồi?
- Tao học tiếng Anh. Gia đình tao sẽ cho tao đi ngoại quốc, tiếp tục học ở những trường lớn dành cho người mù. Ít lâu nữa tao sẽ nói tiếng Anh như gió.
- Mày thật may mắn vì được sinh ra trong một gia đình giầu có.
- Tao cũng có nhiều nỗi khổ lắm. Nhưng tao không thích buồn...
- Mày trở lại thăm trường nữ chưa?
- Có vài lần. Nghe các sơ kể lại thành tích của mình mà mắc cỡ quá. Các sơ cũng có nhắc tới mày và thằng Vân... à, chừng nào Vân mới về trường?
- Nó đi bán xổ số, chắc tối mới về.
- Tiếc quá, thế thì tao không gặp được nó. Các sơ bên trường nữ khen mày và thằng Vân ngoan. Hồi ấy tao nghịch thật, cái gì cũng muốn tháo ra rờ mó các bộ phận bên trong.
- Đáng lẽ mày nên học về máy móc.
- Tao có thử nghề đó rồi. Nguy hiểm lắm. Tụi mình không theo nổi đâu. Ở Hội Bạn Người Mù có một cái máy in chữ nổi, tao tập điều khiển mãi chưa xong.
- Chán quá. Không hiểu khi hết thời hạn ở trường này tao sẽ sống bằng cách nào?
- Hình như có mấy vị linh mục đã định lập một trường Trung Học cho người mù. Mày có hy vọng học cao hơn.
- Sao mày biết?
- Ít khi tao bỏ sót những tin tức liên quan đến giới mình. Một lần tao được nghe một vị linh mục nói đại ý là để tâm lo lắng cho đời sống của người mù. Ông bảo hiện giờ các tổ chức đều chưa được hoàn hảo. Các hội thiện chỉ được lập ra để cho lương tâm mọi người đỡ bị cắn rứt. Vả lại, nước mình cũng bê bối quá đi. Nơi nào cũng có nỗi khổ hết.
- Như thế mình phải chờ cho đến lúc thanh bình mới được săn sóc hay sao?
- Lúc nào mình cũng có quyền tranh đấu cho quyền lợi của mình hết. Nhiều khi xã hội chưa quên nhưng lại có những người muốn cho xã hội không nhớ đến chúng ta. Theo chỗ tao biết, có một số người đã nhân danh hội thiện này, hội thiện khác để nhận những món quà của ngoại quốc đem về xài riêng. Tệ nhất là những người, trong khi săn sóc người mù, được xã hội cho hưởng một số quyền lợi. Nhưng chính vì cố bám vào quyền lợi đó, họ lại lợi dụng, làm khổ người mù. Có một hồi tao nhờ một phóng viên điều tra về nếp sống của giới mình. Ông ta bỏ rất nhiều thời giờ đi thu thập tài liệu, định nói lên tất cả nỗi khổ và nguyện vọng của tụi mình. Thế là ông ta bị rất nhiều người phá. Bọn này khôn ngoan lắm. Họ không ra mặt. Họ tuyên truyền với người mù rằng: “Ông nhà báo đó nói xấu người mù. Ông ấy viết người mù nghèo, thiếu tình thương, khổ sở là cố ý làm cho giới mù bị khinh”, thế mà nhiều người mù tin mới chết chứ. Có bốn người đã tới tận tòa soạn tìm ông phóng viên. Họ huênh hoang bảo: muốn viết về người mù, người ta chỉ nên nói người mù hát hay, đàn giỏi, sung sướng, tự mãn, chẳng cần tình thương của ai hết. Và tốt hơn, đừng nên viết gì về họ cả. Thế là ông phóng viên bực mình, ông ấy bảo: “Nếu các cậu tin rằng thế giới của mình sáng sủa, đẹp đẽ thì tốt lắm rồi. Yên trí, về đi, tôi không viết gì nữa đâu. Cố gắng giữ sự tin tưởng lạc quan đó nghe”.
- Trời! Thế ông ấy không viết nữa sao?
- Không.
- Thế giới người mù đâu phải chỉ gồm có bốn người.
- Ông ấy biết vậy. Ông ấy lại biết rằng bọn người phá hoại hiểu rõ tâm lý người mù, dễ khích động họ. Nhưng xã hội này còn thiếu gì chuyện để nói. Ông ấy bực mình nên gác vụ người mù lại cho đến khi rảnh. Tao nói thế để mày hiểu rằng mình không thể ỷ vào sự tật nguyền của mình để buông xuôi, mặc cho người khác hướng dẫn.
- Mày khôn ngoan hơn tao nhiều, nói năng suy nghĩ như người lớn.
- Khôn ngoan thì chưa chắc đâu, nhưng suy nghĩ như một người lớn thì đúng. Bóng tối và sự đau khổ rọi sáng cho trí tuệ mình. Phải luôn luôn sống như một người già hơn mình năm mười tuổi. Có thế mới giữ được thăng bằng và bớt thiệt thòi. Mày sống giữa những người đồng cảnh. Tao sống giữa gia đình, giữa những người sáng. Nhiều lúc người ta đối với tao như đã quên hẳn rằng tao mù. Nghĩa là họ có thể giẫm lên người mình để đi nếu mình không biết né tránh. Tao kiêu hãnh vì được đối xử như thế. Hoặc mình trở thành người chua chát, cáu kỉnh, hoặc mình khéo léo, bình tĩnh hơn. Có một hồi tao thèm tự tử quá.
- Mày mà cũng có lúc bi quan đến thế sao? Bây giờ thì yêu đời rồi chứ?
- Không hẳn là yêu đời. Có điều khác hồi trước: bây giờ tao có thể tự tử một cách dửng dưng không hồi hộp. Nói vậy thôi, chắc chẳng có nỗi khổ nào đủ khiến mình tự giết mình. Nỗi khổ đã đến với chúng mình chầm chậm, dai dẳng. Chúng mình quen nó quá rồi, phải không?
Càng nghe Lĩnh nói, tôi càng cảm thấy hắn khác hẳn cậu bé nghịch ngợm trước kia. Chúng tôi mới xa nhau có mấy năm. Cổ tay hắn vẫn gầy trơ cái mấu xương ra. Nhưng hắn đã học được biết bao nhiêu điều lạ. Câu chuyện trở lại vấn đề du học của Lĩnh. Hắn cho biết dù là ở đâu hắn cũng vẫn nhớ đến những người bạn mù. Nếu học hành khá, hắn sẽ trở về nước cố gắng làm một vài điều lợi ích cho chúng tôi. Lĩnh đã viết thư làm quen được một vài người bạn ở ngoại quốc. Những người này cũng mù, trả lời thư hắn bằng chữ nổi. Có chung một quê hương là bóng tối, hai bên dễ dàng thông cảm và thương yêu nhau.
Trước khi ra về, Lĩnh nói:
- Từ giờ đến cuối năm, được phép xuất ngoại lúc nào là tao đi lúc ấy. Chắc tao sẽ không kịp đến từ giã chúng mày. Tao tặng mày cái kính và gửi tặng thằng Vân cái mũ.
Mũ bằng nỉ mềm, nhẹ. Cái kính có gọng nhỏ, tôi đeo rất vừa. Chắc cả hai thứ đều thuộc loại tốt.
Buổi tối, Vân và Thiệp nhỏ đi bán xổ số về, hai đứa mượn cớ sang Hội Bạn Người Mù học nghề để có thì giờ kiếm thêm tiền. Ba ngày học, ba ngày đem xổ số đi bán. Thiệp nhỏ khoe ầm ĩ từ lúc mới bước vào đầu phòng:
- Bữa nay, tụi này gặp anh Tần. Ông ấy sang dữ, có tiền tiêu rủng rẻng.
Anh Bằng hỏi:
- Bây giờ Tần ở đâu?
- Ở bến Hàm Tử. Ngày nào anh ấy cũng lên Sài Gòn, kiếm tiền ở ba nơi: bến xe đò, bến xe buýt và mấy tiệm ăn ở quanh bến xe buýt. Tụi này đi ngang qua một tiệm kem thì nghe tiếng ông ấy đàn hát. Mình nhận ra giọng anh Tần liền. Mới đầu thằng Vân không chịu tin.
- Tao đâu có ngờ ông ấy còn ở Sài Gòn.
Anh San nói đùa:
- Ờ, đáng lẽ Tần phải ở Âm phủ chứ. Chúng mình đã đưa ma hắn rồi mà.
Thiệp nhỏ kể tiếp:
- Gặp bọn này anh ấy mừng quýnh. Anh ấy cho cả hai đứa đi nhậu một bữa phở no nê. Anh ấy bảo là bây giờ được một cô bao. Thế mới hách chứ. Đàn hát chỉ là một nghề phụ, kiếm tiền hút thuốc lá, uống cà phê. Anh Tần còn mua mấy cái xổ số của tụi này và bảo nếu trúng sẽ chia: trường mù một nửa, anh ấy một nửa.
Vân nói:
- Hôm nay ăn muốn bể bụng. Anh Tần cho ăn phở. Mẹ nuôi thằng Thiệp lại cho ăn bún.
Thiệp nhỏ nói, giọng sung sướng, kiêu hãnh:
- Bồ Vân gặp mẹ tôi là muốn xin làm con nuôi liền. Bả tốt quá mà. Này, nếu bồ Vân muốn kêu bả là mẹ thì phải kêu tôi là anh. Tôi xí phần trước mà.
Từ ngày có mẹ nuôi, Thiệp nhỏ vui vẻ, yêu đời, học hành giỏi dang hơn. Sau mấy kỳ bán xổ số hắn bỗng khoe với chúng tôi là kiếm được mẹ rồi. Bà làm nghề bán thuốc lá ở cửa một rạp hát cải lương. Nó quả quyết nói với chúng tôi rằng bà có giọng nói giống hệt giọng của mẹ nó. Có thể bà chính là mẹ thật của nó. Bà thương nó như con. Khi nào Thiệp hết thời hạn ăn cơm chính phủ bà ấy sẽ đem nó về nuôi. Mỗi lần đi bán xổ số, Thiệp nhỏ lại đến thăm mẹ. Được mẹ nuôi vuốt tóc, hỏi han, cho ăn uống như thế nào nó đều kể hết.
Mấy đứa nhỏ khác thấy nó có mẹ thì thèm quá. Những đứa mồ côi đều ôm mộng được đi bán xổ số để kiếm một bà mẹ.
Một lần bà ta đến tận trường kiếm Thiệp nhỏ. Nghe tin mẹ đến, nó reo hò ầm ĩ, muốn gọi tất cả học sinh trong trường ra đón tiếp bà. Bà ta chỉ nói chuyện chừng mấy phút rồi vội vã bỏ đi. Nhưng Thiệp nhỏ sung sướng, hát luôn mồm suốt mấy ngày. Nó tuyên bố:
- Thế là từ nay vĩnh biệt viện mồ côi. Hè, Tết tôi về nhà mẹ tôi.
Tôi sang giường Vân, trao lại món quà của Lĩnh. Chúng tôi cùng vui vẻ nhắc đến người bạn cũ.
Bỗng tiếng Thịnh nổi lên ở giường tôi:
- Thương đâu rồi?
- Gì đó?
- Tập kèn.
- Còn sớm mà.
- Tập sớm rồi ngủ sớm.
Thịnh-hoàng-tử đến nắm cánh tay tôi kéo đi. Chúng tôi rón rén đi qua phòng trực, xuống thang. Hết hành lang sau nhà chơi, tôi dừng lại. Thịnh đi thẳng vào phòng tắm, đóng kín cửa, bắt đầu tập thổi kèn. Hôm nay ông giám thị già trông coi trật tự. Nếu ông khám phá ra ràng chúng tôi bỏ phòng ngủ xuống đây, chắc chắn ông sẽ nổi giận. Chúng tôi có thể bị phạt rất nặng. Bởi thế, ngoài việc tập hát tôi còn có nhiệm vụ canh gác cho Thịnh thổi kèn.
Tôi cố tập cho thanh quản của mình quen với những nốt thật cao. Khi ngân dài một nốt nhạc ở cao độ, giọng tôi còn bị ngắt quãng, có lúc nghẹn lại thình lình, cổ họng, theo thói quen, thường thu lại quá nhỏ. Nhiều khi giọng hát vụt tăng lên một bát độ, kỳ cục và thiếu tự nhiên. Nghe tôi tập xướng thanh các nốt cao anh Bằng phê bình: “Giống tiếng chó tru!” Nghe kèn của Thịnh, anh Thảo bảo: “Tệ hơn kèn đám ma! Đám táng anh Tần mà có tiếng kèn này thì thê thảm biết mấy. Anh Tần có thể sợ quá mà chết thật!” Phòng ngủ không bao giờ chịu chứa chấp tiếng kèn đám ma và tiếng chó tru. Chúng tôi đành nhốt hai thứ tiếng đó vào phòng tắm.
Ở đây, Thịnh tha hồ thổi kèn, nhờ sự yên tĩnh, hắn lại có thể kiểm soát được tiếng kèn của mình. Tôi thì tha hồ tru lên cho đến lúc khản cổ. Chúng tôi thường tập cho đến thật khuya mới lần mò đi ngủ. Thịnh càng tập càng say mê. Nhiều lần, về giường rồi, Thịnh còn bịt vải ở loa kèn để thổi nữa. Dĩ nhiên, âm thanh không phát ra được. Mọi người xung quanh Thịnh chỉ nghe những tiếng xì xì nho nhỏ.
Phòng tắm kín. Tiếng kèn của Thịnh như vọng lại từ một nơi xa, nhiều lúc nghe thật buồn. Hắn thổi đi thổi lại những đoạn nhạc khó. Hắn nghỉ rất ít. Hình như khi đã tự giam mình vào phòng tắm rồi, hắn chỉ biết có âm thanh.
Hôm nay, tôi không tập hát vì cảm thấy hơi khát nước, khô cổ. Tôi ngồi xuống gạch, lắng nghe những tiếng động xung quanh. Bên lưu xá thỉnh thoảng còn vang lên một tiếng cười trong trẻo. Ở một góc tường nào đó gần tôi có con dế gáy đều đều. Tôi quờ tay quanh mình, tìm một viên gạch nhỏ, ném bâng quơ về phía trước.
Một buổi sáng, tôi nhận được thêm một bức thư của Hoan:
Long Khánh ngày...
Thương thân mến,
Thế là cuộc đời làm con nuôi của mình đã chấm dứt rồi. Nhà cha mẹ nuôi mình bị mất trộm đúng hôm cả hai người đi vắng. Tụi trộm bẻ khóa vào nhà khuân đồng hồ, ra dô, quần áo... nhiều thứ tắm. Khi chúng cạy tủ tiền thì bà bếp tỉnh dậy. Bà ấy ngủ một mình ở dãy nhà bếp. Bà ta kêu lên, mấy anh thợ ở xưởng cưa nhào ra, lũ trộm đã chuồn mất.
Cha mẹ mình về và đưa ngay mình ra bót cảnh sát. Cả hai ông bà đều tin chắc rằng mình đã thông đồng với kẻ trộm, đưa chúng vào nhà. Tình nghĩa đến đây là hết. Mình đã không làm tròn bổn phận của một người con chuyên giữ nhà thì đành chịu vậy. Mình có thề rất độc nhưng ông bà không tin.
Mình bị ngủ ở bót hai đêm, muỗi cắn quá xá. Người ta hạch hỏi mình mãi, rồi có lẽ thấy mình vô tội, đành thả ra.
Mình trở về. Cha nuôi đi vắng, chỉ có mẹ nuôi ở nhà. Bà tỏ ra lạnh lùng và khinh bỉ. Tình mẹ con chắc đã tiêu tan hết rồi. Mình nói:
- Thưa mẹ, con trở lại đây để xin mẹ cây đàn.
Bà đáp:
- Đàn của anh, anh cứ việc lấy, cần gì phải hỏi ai.
Chỉ có một điều khổ tâm là thằng em út thấy mình về lại sung sướng nhào ra ôm chặt lấy cổ mình. Phải bế ẵm nó nhiều mình cũng đâm ra thương nó. Bây giờ mình vẫn còn nhớ đôi má bầu bĩnh và tiếng cười của nó. Thú thực với Thương, lúc ôm cây đàn, rời khỏi căn nhà quen thuộc, mình đã khóc. Cũng như đêm nằm trong bót mình khóc vì ức.
Bà bếp chạy theo cho mình ít tiền và giới thiệu mình với một ban nhạc chuyên việc hòa tấu ở những đám cưới hoặc đám ma. Công việc này khó sống. Các nhạc sĩ trong ban phần nhiều sinh nhai bằng những nghề không liên quan gi đến ca nhạc. Khi có đám nào gọi, ban nhạc mới tập hợp lại. Trong tỉnh, các đám cưới hiếm hoi, đám tang cũng không nhiều. Nhiều tang gia lại không thích cho người chết thưởng thức nhạc.
Ông trưởng ban thấy mình đờn khá liền giới thiệu cho ông bầu một gánh hát lưu động nhỏ. Bây giờ, mỗi tối mình đều có việc làm, lại được đi từ tỉnh này sang tỉnh khác. Gánh hát nghèo. Nhiều khi các tài tử phụ và ban nhạc phải nhai bánh mì trừ cơm. Hôm nay, đoàn về Long Khánh, ông bầu đang nhăn nhó lo không có khán giả. Nếu gần tối trời lại đổ mưa nữa thì chắc ngày mai các tài tử chính cũng được nhai bánh mì.
Đừng viết thư cho mình nữa nghe. Bây giờ mình không có địa chỉ nhất định. Mình sẽ viết thư kể thuyên đoàn hát cho cậu biết sau.
Chúc Thương luôn khỏe mạnh và học giỏi. Cho mình gửi lời hỏi thăm các bạn trong trường.
“Hoan”

*

Cái chăn mỏng rơi xuống đất từ lúc nào không biết. Đêm ở chùa khá lạnh vì gió sông thổi lên. Tôi nằm thật sát anh Bằng để tìm hơi ấm. Nhưng lúc gần sáng vẫn thao thức không ngủ được. Mặt phản gỗ lạnh và cứng. Một vài hạt lạc rang còn thừa trong túi anh Bằng rơi rải rác trên đó. Thỉnh thoảng cựa mình tôi lại đè phải một hạt. Giấc ngủ bị ngắt quãng, chập chờn.
Đôi lúc gió thổi ùa đến như muốn cuốn cả cái mùng đi khiến tôi có cảm tưởng rờn rợn là ngôi chùa đã biến thành gió, tôi và anh Bằng đang nằm trơ vơ trên một cánh đồng rộng, giữa tiếng côn trùng. Tôi muốn được nghe một tiếng ngáy, một tiếng cựa mình để cảm thấy yên tâm hơn.
Sự cô đơn làm hồi sinh những ý nghĩ buồn rầu. Đôi lúc tôi sợ tất cả những cố gắng của mình không đưa đến một kết quả nào. Cơn bải hoải rã rời làm mỏi mệt chân tay, thấm luôn vào trí óc. Chuyện xảy ra chiều hôm trước trên xe buýt lại hiện về ám ảnh.
Chuyến xe khá rộng. Tôi và anh Bằng đều có chỗ ngồi. Xe chạy gần tới vùng Tân Định thì có một người hành khất bước lên. Có lẽ ông ta đã già, giọng nói yếu ớt và khản đặc. Người hành khất lên tiếng xin tiền. Tôi không nhớ hết ông ta đã nói những gì để gợi lòng thương của người khác. Nhưng ông luôn luôn nhấn mạnh ở tật mù lòa của mình. Sự không may của một người mù bị ông ta nhắc đi nhắc lại mãi. Giọng nói lên bổng xuống trầm, cố vẽ ra những chuyện thê thảm. Tôi ngồi lặng người, tâm trí bối rối, ngượng nghịu như phải nghe những lời kể tội chính mình. Mỗi lần xe đậu, tiếng ông ta lại vang lên to hơn.
Rồi người hành khất lần đến gần chỗ tôi và anh Bằng. Có lẽ cảm thấy ông ta đang hướng về phía mình để xin, anh Bằng nói nhỏ:
- Tôi không có gì đâu ông.
Người hành khất vẫn lải nhải nói thêm mấy câu. Người soát vé lên tiếng với vẻ cáu kỉnh:
- Người ta cũng mù như ông đó, xin gì!... Thôi, con nhỏ, mày dắt ông già xuống giùm tao.
Lúc đó tôi mới biết người hành khất được một đứa nhỏ dẫn đi. Đứa bé ngờ nghệch không biết rằng, sau đôi kính đen, mắt tôi và anh Bằng cũng hoàn toàn vô dụng. Câu nói của người soát vé giống như lời tố cáo tàn nhẫn một cách vô tình. Tôi có cảm tưởng tất cả hành khách trên xe đang chú ý đến hai chúng tôi. Người hành khất và đứa nhỏ đã đi về phía sau xe và tôi không còn nghe tiếng ông ta kêu xin nữa. Nhưng những ý nghĩ chua chát, đắng cay ông gieo vào lòng thì còn lại mãi. Thực tế quá gần gũi, giấc mộng thì xa vời. Tôi lại khiếp sợ, hoảng hốt. Những ý nghĩ tuyệt vọng tích lũy từ bao năm trời, thường đợi những dịp như thế để sống dậy.
Bây giờ, trong cái lạnh lẽo đột ngột của đêm đang tàn, bên dòng sông nhiều gió, tôi thao thức với những ý nghĩ bi quan, thất vọng và ước ao được trôi bồng bềnh vào bóng tối rồi tan đi trong hư vô.
Mấy tháng nay, tôi đã tập hát một cách say mê, hăng hái. Thứ bảy chủ nhật nào cũng vào chùa. Tôi tập đến khản cổ. Tôi đã điều khiển được giọng ngân, tránh cái tật thở vào máy vi âm. Tôi tập hát đúng nhịp và tập xướng thanh. Tôi hát thầm trong giờ học và hát cả trong giấc mơ. Anh Phong tìm kiếm cho tôi những bài ca thật hay. Hoan cũng viết thư khuyến khích. Nhưng lúc nào cũng cảm thấy mình kém cỏi, tiến bộ quá chậm.
Anh Giản, một huynh trưởng trong gia đình Phật tử, có căn gác nhỏ ở ngay cổng chùa. Nhà gỗ, mái tôn, tôi lên căn gác đó tập đàn hát. Gác hẹp, nóng. Nhưng chúng tôi được phép tự do làm ồn hơn ở trong chùa. Tôi quen thuộc với căn gác đến nỗi có thể biết rõ vị trí từng đồ vật nhỏ trong đó. Cầu thang quá dốc. Nếu phải ôm đàn tôi thường leo lên một cách khó khăn.
Những ngày không ở nhà, anh Giản giao chìa khóa cho chúng tôi. Tập mệt rồi, chúng tôi có thể lăn ra sàn gác ngủ. Anh Giản ít nói, rất quý mến anh Phong. Đối với việc làm của chúng tôi, anh không khuyến khích bằng lời. Nhưng, nhờ cái gì anh cũng giúp đỡ tận tình.
Anh Phong thường ở trên gác đó với chúng tôi suốt ngày chủ nhật. Nhiều lần tôi cố gắng tập chính vì sự hăng hái của anh. Chỉ khi nào quá mệt chúng tôi mới ngủ trưa. Trời nóng bắt chúng tôi cởi áo và khổ sở vì mồ hôi, nhưng chúng tôi vẫn đàn, hát được. Buổi tối, về trường mới cảm thấy mỏi lưng, khan cổ.
Anh Phong có ba cái khăn mặt. Những lúc quá nóng anh xuống nhà dưới, nhúng ướt khăn, rồi phát cho chúng tôi. Đắp khăn lên mặt, lên cổ, chúng tôi cảm thấy dễ chịu được một lúc. Anh Phong thường nói đùa:
- Thương hát lớn bài “Đêm đông” lên cho trời bớt nóng.
Thỉnh thoảng, chị Kim đến thăm căn gác của chúng tôi. Chị tặng chúng tôi vài trái cây hoặc một gói kẹo. Món quà nhỏ, giọng nói vui vẻ của chị khiến chúng tôi quên mệt nhọc.
Cuộc hành trình bớt gian khổ, nhưng biết bao giờ tôi mới tới đích?
Gần sáng trời vẫn lạnh. Ở chính điện vang lên tiếng kinh, tiếng mõ. Một mùi hương dìu dịu bay lan trong không gian. Tôi ngồi dậy, lay vai anh Bằng. Anh càu nhàu:
- Còn sớm mà.
- Mình tập sớm cho mát. Anh Phong bảo sẽ đem máy ghi âm đến vào khoảng tám giờ.
Anh Bằng im lặng, có ý tiếp tục ngủ. Tôi lần ra chỗ chum nước đặt bên gốc dừa rửa mặt. Hoa trong chùa mùi thơm hắc và ấm. Tiếng chó sủa nổi lên rất xa, chắc vọng lại từ bên kia sông. Ngày đang thức dậy một cách chậm chạp.
Khoảng bảy giờ, tôi và anh Bằng ôm đàn sang nhà anh Giản. Để lên gác chúng tôi phải theo một con đường hẹp cạnh nhà. Đường chỉ vừa một người đi và dẫn thẳng xuống bếp, nơi có đặt cầu thang. Người đàn bà thuê căn nhà dưới của anh Giản nói:
- Các cậu chờ tôi một chút. Tôi sẽ mở cửa gác cho. Cậu Giản đi từ tối hôm qua.
Bà giúp chúng tôi mở các cửa sổ, quét sàn gác. Anh Bằng nói:
- Bà dẹp giùm quần áo của anh Giản lại cho cháu.
Quần áo của anh treo bừa bãi làm căn gác như nhỏ
hẳn lại. Tôi ngồi trên ghế vải, tựa đầu vào vách, nhẩm lại mấy bài hát mà lát nữa tôi phải hát vào máy ghi âm. Anh Bằng lên dây đàn. Cái ngộ hẻm trước nhà bắt đầu ồn lên tiếng xe, tiếng thùng nước va chạm, tiếng máy thu thanh. Ngày chủ nhật chắc mọi người đều hân hoan. Được nghỉ ngơi, đi lại đây đó, nhìn ngắm thả cửa là nguồn hạnh phúc mà tôi chỉ có thể tưởng tượng ra. Phong cảnh duy nhất của tôi là bóng tối. Trí nhớ mòn dần. Tôi không còn hình dung được đầy đủ những cái ở bên ngoài cửa sổ căn phòng. Nếu cứ nghĩ mãi về sự sống đang nhộn nhịp quanh mình, chắc không chịu nổi. Tôi để hết tâm trí vào bài hát.
Anh Phong đến, lên hết cầu thang tôi mới biết. Tôi vội hỏi:
- Anh có mượn được máy ghi âm không?
- Được chứ.
- Hay quá.
Tôi và anh Bằng cùng reo lên. Anh Phong vừa kéo ghế để đặt máy vừa nói:
- Thuộc mấy bài ruột rồi chứ?
- Dạ, thuộc rồi.
- Thâu thử. Nếu có giọng tốt là thành công.
Tự nhiên, tim tôi đập mạnh. Cuộc thử thách chưa có gì đáng kể là quan trọng. Nhưng tôi vẫn không giữ nổi bình tĩnh. Anh Phong chạy ra đầu cầu thang nói vọng xuống:
- Bà có nước lọc không ạ?
Người đàn bà ở căn nhà dưới đáp:
- Thiếu gì, cậu.
- Xin bà một chai. Hôm nay chắc chúng tôi sẽ uống dữ lắm.
Anh Phong trở vào, xếp chỗ cho tôi và anh Bằng:
- Thương ngồi đây... Bằng chỗ này. Thế... thế tiếng đàn tiếng hát mới không lấn át nhau. Xong rồi đây, Thương bắt đầu cất giọng được rồi.
Tôi nghe tiếng bấm nút lách cách. Giọng tôi tự nhiên trầm xuống như một người hát không ra hơi. Anh Phong phì cười:
- Làm gì mà run thế? Phải bình tĩnh chứ.
- Em hát dở anh phải xóa ngay đi nhé.
- Dĩ nhiên rồi. Tôi giữ giọng cậu để triển lãm hay sao.
Phải đến lần thứ năm, thứ sáu, tiếng hát của tôi mới bớt khó nghe. Nhiều lúc âm thanh phát ra có lẫn tiếng thở, thô kệch, vụng về, giọng ngân thì run rẩy. Tôi ngượng nghịu, toát mồ hôi vì quá khổ sở. Nhưng anh Phong lại bảo:
- Khá lắm! Khá lắm rồi.
Anh Bằng cũng khen tôi. Dù chắc chỉ có mục đích giúp tôi khỏi nản lòng, những câu nói của hai người đã giúp tôi bình tĩnh dần. Anh Phong đặt ly nước lọc vào tay tôi:
- Uống đi, nghỉ một chút rồi ta bắt đầu lại.
Dần dần tôi quen với máy. Tôi hát một cách tự nhiên hơn. Tôi không còn lúng túng, bắt đầu chú ý diễn tả tình cảm trong mỗi câu ca. Tôi tìm được sự rung động, xúc cảm trong khi hát. Tôi phải nói về một thế giới nào đó, một thế giới mềm nhỏ kết bằng những nỗi buồn man mác, đôi khi chan chứa tình thương yêu. Tôi muốn hát thế nào để mọi người cùng hiểu về thế giới đó. Mọi người phải cùng sống, cùng bàng hoàng vì bài hát như tôi. Bằng trí tưởng tượng và những rung động nhẹ nhàng, tôi dựng lên một thế giới riêng cho mỗi bài hát. Công trình xây dựng có thể thiếu sót, sai lầm, nhưng tôi tha thiết hướng về thế giới đó như hướng về một niềm hoan lạc. Tôi hát và tưởng như đang kể lại những xao xuyến của chính tâm hồn mình. Tôi đã lôi cuốn, hướng dẫn mọi người bằng những tiếng gọi dịu dàng. Âm thanh bao vây, nâng đỡ, khuyến khích tôi. Có những câu ca thường không được tôi chú ý lắm, bỗng, trong giây phút đó, cũng khơi động một nỗi buồn thấm thía. Có lúc tôi đem cả nỗi khổ của đời mình vào nỗi khổ diễn tả trong câu ca. Tôi hát liền năm bài mà không cảm thấy mệt.
Khi tôi ngừng lại, nhiều tiếng vỗ tay chợt nổi lên trong căn gác.
- Hay tuyệt!
Giọng nói của chị Kim, tiếng cười của Hương. Tôi kinh ngạc:
- Ủa, chị Kim với chị Hương đến từ hồi nào vậy?
Chị Kim:
- Chúng tôi đến lâu rồi.
- Trời! Sao anh Phong không nói.
Anh Phong đáp:
- Các cô ấy ra hiệu bắt tôi im lặng để cho ca sĩ tiếp tục hát. Ca sĩ thành công rồi đó.
Chị Kim nói:
- Bây giờ thì mời nhạc sĩ, ca sĩ nghỉ ngơi dùng điểm tâm đã. Chắc từ sáng đến giờ anh Bằng và Thương chưa ăn gì phải không?
Hương nói:
- Chị Kim bắt em dậy thật sớm để đi mua bánh mì và kẹo cho các anh đấy.
Chiếc máy ghi âm đã bắt đầu phát thanh lại giọng ca của tôi. Giọng thực trầm ấm hơn tôi tưởng. Chị Kim đặt vào tay tôi một ổ bánh mì. Sự xuất hiện của chị, một lần nữa lại làm cho căn gác vui tươi hơn. Tiếng nhai bánh mì cũng là một thứ âm thanh dễ chịu. Anh Phong lắng nghe, thỉnh thoảng chỉ cho tôi một vài chỗ còn sơ sót. Anh có vẻ hài lòng thực sự. Anh nói:
- Thương hát vào máy ghi âm nghe hay hơn nhiều.
Tôi cười hân hoan. Tôi muốn lên tiếng cám ơn tất cả mọi người. Những ý nghĩ buồn rầu, tuyệt vọng buổi sáng tan biến hết. Hương hỏi:
- À, anh Phong đã liên lạc được với cô Quỳnh chưa?
- Chưa.
- Tội nghiệp anh San, bé Hùng. Thứ bảy nào em vào trường mù cũng thấy hai người ngồi chờ. Họ ngồi ở chỗ ghế đá ngoài cửa phòng khách đó anh. Người nào cũng buồn thiu.
Chị Kim hỏi:
- Anh Phong cũng quen cô Quỳnh sao?
- Không. Nhưng anh có biết vài cô học cùng trường với cô ấy.
- Anh nhiều bạn gái quá nhỉ. Cứ cái đà này thì rồi có khi trong một ngày anh phải tỏ tình với hai cô.
- Còn em ít bạn trai sao? Anh tưởng tượng ra một lần nào đó, Kim sẽ đứng trước đám bạn trai của Kim và nói: “Tôi cần có một người chồng, ai xung phong?” Thế là các cậu sẽ nện nhau cẩn thận để tranh làm kẻ tình nguyện.
Chúng tôi cùng cười. Hương thu nhặt những mẩu giấy gói bánh mì, quét lại sàn gác. Anh Bằng độc tấu một bản nhạc ngoại quốc vui để ghi âm.
Khi chị Kim và Hương ra về, căn gác đã bắt đầu nóng hầm hập vì nắng trưa. Ngõ bớt ồn ào. Bầu không khí thơm nức mùi xào nấu. Nhờ mấy khúc bánh mì, tôi và anh Bằng không phải trở vào chùa ăn cơm chay. Nằm trên ghế vải nóng chịu không nổi, chúng tôi cởi trần lăn ra sàn gác. Tôi nằm giữa anh Bằng và anh Phong. Tôi định ngủ thì anh Bằng chợt nói:
- Anh có yêu chị Kim không?
Anh Phong cười:
- Lại muốn nói chuyện tình cảm hả?
Anh Bằng nghiêm trang:
- Em hỏi thật đó. Em thấy chị Kim cũng có nhiều cảm tình với anh.
Anh Phong yên lặng, tôi xen vào:
- Anh quen chị Kim từ hồi nào? Anh kể đi. Em quý mến anh, chị Kim và Hương nên em muốn biết rõ thêm về các anh, các chị.
- Không ngủ trưa sao?
- Thôi, ngủ ở đây lúc dậy mệt muốn chết.
Anh Phong lưỡng lự một chút rồi chiều ý chúng tôi, bắt đầu kể:
- Câu chuyện của tôi giản dị lắm. Tôi quen với gia đình Kim từ lúc cô ấy mới có hơn mười tuổi. Thứ bảy tôi thường đến nói chuyện với người anh trai của Kim. Hai chúng tôi ngồi giữa phòng học, ba hoa bàn luận về mọi vấn đề. Kim ngồi học ở một cái bàn bên cửa sổ. Dù muốn, dù không, thỉnh thoảng Kim cũng phải nghe chuyện của chúng tôi. Quả thực, lúc đó tôi chỉ coi Kim như một cô bé con. Kim nghiêm trang, chăm chỉ, thường ngồi như bất động bên bàn học. Ngay cả những lần tôi và Long - anh trai Kim - gân cổ, to tiếng tranh luận, cô cũng không quay lại.
Một lần, trong lúc chờ Long về, tôi đến đứng cạnh bàn học của Kim, nhìn qua cửa sổ. Cửa sổ trông sang một căn nhà rộng, vườn cây cỏ mọc cao như bỏ hoang. Căn nhà có kiến trúc thật lạ: tường gỗ, mái ngói, góc mái cong lên. Xung quanh nhà có hành lang gỗ. Muốn vào nhà người ta phải bước lên mấy cái bậc xếp bằng đá trắng. Một bức mành tre mắc từ mái phủ xuống tới mặt sàn gỗ. Sát chân tường rào, một thân cây khô mục nằm bên một đống tro than. Không một dấu hiệu nào chứng tỏ là nhà có người ở. Tôi ngạc nhiên và tò mò quay lại hỏi Kim về người chủ của căn nhà ấy. Rồi từ chuyện căn nhà, chúng tôi chuyển sang các vấn đề khác. Câu chuyện thật vui. Và lúc đó, tôi khám phá ra một điều rất thú vị: Kim có nhiều ý tưởng rất giống tôi. Có lúc, tôi nghĩ là cô vừa nhắc lại một câu nói tôi đã “phát ngôn” trước đây. Tôi tìm vẻ chế giễu trên mặt Kim, nhưng không thấy. Có thể nói: chúng tôi dùng một thứ “ngôn ngữ” giống hệt nhau. Từ cách diễn tả ý nghĩ, cách sử dụng những danh từ thời đại, lối nói đùa cho vui, Kim gần gũi tôi hơn cả Long. Tôi thấy Kim lớn hơn tôi nghĩ một chút nhưng lúc đó tôi vẫn coi Kim là một cô bé.
Sự giống nhau đó chắc không phải tình cờ. Trong nhiều năm, mỗi tuần đều phải nghe chuyện tôi và Long, hẳn Kim bị ảnh hưởng. Cô gái kín đáo, hiền lành ấy vô tình nhìn đời theo lối nhìn của tôi. Như cô em gái quanh quẩn xó nhà học hỏi thế giới bên ngoài qua kiến thức của ông anh trai giang hồ, lang bạt.
Anh Bằng hỏi:
- Hồi ấy, anh đã yêu chị Kim chưa?
- Chưa. Thỉnh thoảng nghĩ đến Kim tôi có hơi cảm động. Tôi tưởng như một phần ý nghĩ, quan niệm của tôi đã dừng lại nơi người con gái ngồi chăm chỉ học bài, làm bài bên cửa sổ. Có lần, tôi hỏi Kim “Không hiểu hồi trước anh đã nghĩ thế nào về những người tự tử” và được Kim nhắc lại khá đầy đủ những điều tôi đã quên. Tôi sung sướng và hơi kiêu hãnh. Đó là sự hài lòng của một kẻ tha hồ vứt bừa bãi ý tưởng lại sau lưng và được một cô gái chịu khó nhặt nhạnh giữ gìn cho. Có lần Kim nhắc lại những câu mà thực tình tôi không nhớ đã nói ở đâu và trong trường hợp nào. Kim còn báo động ngay khi tôi có một ý tưởng mâu thuẫn với chính mình. Nói chuyện với Kim, tôi có cảm tưởng đối diện cùng lúc với hiện tại và quá khứ.
Khi Long nhập ngũ, tôi bắt đầu ít đến nhà Kim. Bẵng đi một năm trời tôi không gặp cô ta. Lần gặp lại mới đây, tôi bỗng thấy Kim lớn, đẹp và thay đổi hẳn. Kim tinh quái, nghịch ngợm, láu lỉnh hơn. Như một cô em gái cần bàn luận với ông anh, Kim kể cho tôi nghe về một mối tình có kết luận bi đát: chàng nàng xa nhau. Kim thú thực là đã đau khổ và kiêu hãnh vì được đau khổ. Với tư cách một người anh lớn, tôi bảo:
- Em lao vào tình yêu quá sớm thế là dại dột.
Kim cãi:
- Em mười tám tuổi. Chính anh vẫn nói với anh Long là khi lên sáu tuổi người ta phải đi học, mười bảy, mười tám phải yêu, trong khoảng hai mươi đến ba mươi phải lập gia đình. Đó là chuyện bình thường. Đi học lúc sáu tuổi hay yêu lúc mười tám chả có chuyện nào đáng khen hay đáng chê hơn chuyện nào. Nếu không chịu ở trong khuôn khổ bình thường, muốn vượt ra, thì cũng nên sống hơn mọi người, đừng chịu thiệt.
Tôi bảo Kim:
- Em hiểu lầm ý anh rồi. Ở xã hội ta, những mối tình trong quá khứ là thành tích của người đàn ông nhưng lại là những lầm lỡ của người đàn bà.
Tôi nói như thế để thắng cuộc tranh luận hơn là để dạy khôn cho Kim. Không ngờ Kim lại mang mặc cảm phạm tội và khổ sở vì quá khứ của mình.
Anh Bằng nói:
- Em nghĩ là hai người yêu nhau rồi.
Anh Phong yên lặng một lát mới kể tiếp:
- Đến đây, có một điều rắc rối không liên can gì đến những việc tôi đã kể. Sự chênh lệch giữa hai gia đình là bức tường ngăn cách mà người con trai, vì tự ái, thường không muốn vượt qua. Tôi cũng có mặc cảm. Sống giữa xã hội này, những người nghèo thường bị thiệt thòi như những người khiếm thị. Nếu không cẩn thận, một ngày nào đó họ có thể giật mình khám phá ra kẻ đang dẫn dắt mình là tiền bạc, là sự ham muốn thấp hèn. Sự thừa thãi hay thiếu thốn vật chất đều có thể đưa con người đến chỗ bần tiện, đáng ghét. Phải can đảm lắm người ta mới thực sự không sợ những biến chứng kỳ quặc, nguy hiểm của bệnh nghèo. Tôi không muốn Kim biết và hiểu rõ điều đó.
Giọng anh Phong nhỏ đi như những lời thầm thì. Buổi trưa bắt đầu yên tĩnh. Ngõ hẻm cũng hoạt động yếu ớt như một người chập chờn nửa thức, nửa ngủ. Mấy chiếc máy thu thanh đã im tiếng. Anh Phong đứng dậy đóng cửa sổ để ngăn gió phả hơi nóng hầm hập từ mái tôn nhà bên cạnh. Những tiếng động gần xa không rõ rệt pha trộn thành một âm thanh uể oải, tạo sự bứt rứt, khó chịu quanh mình. Chắc anh Phong đang buồn. Câu chuyện đã khơi lại một niềm tiếc thương.
Chúng tôi im lặng một lúc lâu. Buổi trưa cứ tiếp tục ôm chặt chúng tôi bằng vòng tay nóng hôi hổi. Tôi muốn cựa quậy mà chân tay rã rời. Anh Bằng nói:
- Anh Phong cho em góp ý, bàn luận về trường hợp của anh nhé.
- Bằng cứ nói đi.
Anh Bằng chậm rãi:
- Em không được sống và hiểu biết nhiều như anh. Bóng tối lại bắt em thường chỉ được suy nghĩ trong một phạm vi hẹp hòi. Em có ít kinh nghiệm về đời sống xã hội. Lập trường của em rất dễ sai lầm. Nhưng những ý nghĩ này em đã tìm ra sau bao tháng năm nghiền ngẫm về đời sống cực khổ của mình.
Em tin rằng dẹp bỏ hết mặc cảm, tạo sự tự tin cũng là một cách để đến gần hạnh phúc. Trước đây, những mặc cảm chồng chất làm em khổ sở vô cùng. Hẳn anh cũng hiểu trường hợp của em. Con người được sinh ra đời như những giọt mưa rơi trên địa cầu không có bề mặt phẳng, giọt rơi trên đỉnh núi, giọt nằm dưới đáy vực. Vị trí đời em cũng chỉ là một vực sâu thăm thẳm. Nhưng em tin là nếu mình hết sức cố gắng, trời vẫn cho mình đủ thời gian để leo từ vực thẳm lên đỉnh núi. Vì nỗi khổ hiện tại mà từ chối sự sung sướng trong tương lai là một điều dại dột. Nếu có một người con gái yêu em, em sẽ nhất định xin cưới cô ấy làm vợ, không có mặc cảm, lo lắng hay sợ hãi gì hết. Có thể nỗi khổ sẽ đến ngay sau hạnh phúc. Nhưng em sẽ tiếp đón cả hai như một người chủ tiếp đón những ông khách vừa xấu, vừa tốt. Em muốn được sống, thiết tha sống. Em thích một căn phòng ồn ào hơn là căn phòng trống rỗng. Khi đóng cửa căn phòng em muốn được nhớ lại một chuyện gì. Chắc sự cô đơn, ít bè bạn trong nhiều năm đã tạo cho em những ý nghĩ ấy.
Theo ý em, anh đã yêu thì cứ tiếp tục và tính chuyện xây dựng với chị Kim. Một cuộc đời đủ dài để anh làm giàu, tạo sự nghiệp, lại rất có thể quá ngắn khiến anh không kịp tìm ra một người yêu thương mình thực tình.
Anh Bằng ngừng lại, yên lặng như chờ đợi anh Phong lên tiếng. Nhưng anh Phong cũng yên lặng.
- Em nghĩ sai hả anh Phong?
- Không. Những ý nghĩ của Bằng là ý nghĩ của một người yêu đời và can đảm nữa. Cảm ơn Bằng rất nhiều. Dĩ nhiên là tôi không thể thay đổi lập trường ngay sau khi nghe một lời khuyên. Nhưng chắc trong hồ sơ của đời tôi sẽ có niềm ao ước được cưới Kim và tôi sẽ cố gắng thực hiện.
Nhiều đoạn trong câu chuyện giữa hai anh hơi khó hiểu đối với tôi. Nhưng tôi có cảm tưởng đã được sống thêm nhiều ngày, với nhiều người. Tôi thưởng thức được nỗi đau khổ, niềm hàn hoan của một thế giới hoàn toàn xa lạ.
Bỗng anh Phong cất tiếng huýt sáo. Đây là một bản nhạc lạ? Hay anh Phong đang huýt sáo theo cảm hứng của mình? Âm thanh dần dần cao vút có lúc chen lấn, xô đẩy nhau như xốn xang, bối rối.
- Bản nhạc gì đó anh?
- Tôi không nhớ tên. Đây là bài ca Kim thích nhất.
Đoạn sau của bài hát êm đềm, bình thản. Âm thanh dịu dàng vây phủ căn phòng và buổi trưa uể oải chầm chậm tan đi. Anh Phong đang vui và hy vọng. Tôi và anh Bằng cũng thế.
Tôi hát nho nhỏ. Mai đây tôi sẽ nhớ đến căn gác này mỗi lần lên tiếng hát. Ở đây, tôi đẳ sống cùng với nỗi buồn, niềm vui của những người bạn thân. Tôi đã cố gắng. Tôi sẽ dựa vào những khổ sở, những ao ước, hy vọng của anh Phong, anh Bằng để diễn tả tình cảm những bài ca. Thật sung sướng khi cảm thấy mình có ích.
Tôi sẽ thành công hay thất bạỉ? Chưa thể biết được. Nhưng tôi tin chắc sẽ vượt lên cao hơn vị trí hiện tại của mình. Tôi sẽ sống nhờ sự làm việc. Đời tôi sẽ không còn là một tiếng than dài trong bóng tối.
Tiếng huýt sáo của anh Phong lớn hơn như muốn chen lấn, ganh đua với tiếng hát của tôi. Cái nóng đã dịu. Trời về chiều. Anh Phong mở cửa sổ. Gió lùa vào căn gác, lướt qua chúng tôi, mát mẻ, dịu dàng như bàn tay săn sóc của một người thân.