Chương 6

1
- Có nước rồi, có nước rồi!
Cái tiếng kêu "có nước" truyền đi khắp hang. Cả anh Thẩm và thằng Bé đang nằm cũng nhỏm dậy, ngóng về phía các ánh nến. Lát sau lại có tiếng anh em gọi báo cho nhau là nước đã chảy thành giọt. ở hang trong, Năm Nhớ cầm nến đứng soi cho Quyên ngồi nâng cái cà om kê vào giọt nước từ trên kẽ đá nhểu xuống. Giọt nước mưa đùng đục rơi từ từ, chạm đáy cà om nghe tí tách. Nước mỗi lúc mỗi chảy nhanh. Khi đáy cà om bật lên tiếng kêu trong toong toong thì nước đã chảy thành dòng, và nước trở nên trong hơn. ở vách đá bên cạnh, những đường kẻ nhỏ hơn cũng giàn giụa, ướt loáng mặt đá.
Không bao lâu cái cà om trên tay Quyên đã nặng trĩu. Cô ghé mắt nhìn, thấy nước trong cà om đã được gần nửa. Cô thở phào:
- Thôi khỏe rồi, không sợ khát nữa!
Năm Nhớ hạ thấp ngọn nến bảo:
- Đặt cà om xuống đi, hơi đâu mà bưng
Quyên nghe theo, từ từ đặt cái cà om xuống đất. Nước mưa chảy thành dòng dài và lớn hơn. Quyên vẫn ngồi bẹp nhìn dòng nước, mắt long lanh. Cô nói:
- Bữa nay mình đoạt hai cái thắng lợi mà không tốn mồ hôi. Một là tụi nó bày trò un hang. Hai là ông trời ổng mưa.. chắc ở ngoài mưa lớn lắm!
- ờ, mưa lớn nên nước nó mới chảy nhiều như vậy!
- Ông trời ổng ủng hộ mình quá. Giờ thì khỏi lo rồi. Có gạo, có nước, mình cứ ở trong hang này hoài coi nó làm gì mình cho biết1
- Anh Tám nói sợ nó đánh chất nổ
- Đánh bằng chất nổ cũng không sợ. Bất quá mình thụt vô trong một chút, nổ rồi mình lại ra. Thì cũng cỡ một ngàn trái MK3 hôm nọ là cùng!
Cái cà om đã lấp xấp muốn đầy, nước văng tung tóe, Năm Nhớ cặm nến lên đá, rút tấm vải nhựa kẹp trong nách ra. Hai cô cầm bốn chéo vải nhựa mà hứng.
Lát sau, tấm vải nhựa đã nặng trĩu một bọc nước đầy, Quyên túm lại. Cô bảo Năm Nhớ:
- Mày đi lấy hết nồi ơ lại đây
Năm Nhớ chạy đi. Chốc sau, cô trở lại nói rằng anh em đã lấy nồi xoong đem hứng nước hết rồi, giờ không còn thứ gì để chứa nước nữa.
Quyên ngồi nhổm, ngó dòng nước chảy xối, lấy làm tiếc. Bỗng cô bước tới và quỳ xuống chỏi hai tay, ngửa miệng đón lấy dòng nước. Quyên uống ừng ực. Uống thỏa thích rồi, cô quệt miệng, nánh ra, bảo Nhớ:
- Uống đi, uống cho đỡ khát đi!
Năm Nhớ cũng quỳ xuống như Quyên, ngửa mặt, để nước chảy vào miệng.
Quyên bảo:
- Để tao chạy đi kêu mấy ảnh đem đồ lại đây hứng!
Quyên chạy đi. Năm Nhớ uống xong, dụm chân ngồi giữa dòng nước tắm luôn. Nước giội tràn lên tóc, lên mặt mũi cô. Nước dán chặt quần áo vào vóc người hơi đẫy của cô.
Quyên trở lại thấy thế hỏi:
- Tăm đó hả Nhớ. Tao cũng tắm nữa.. Mấy ảnh hứng đầy hết các thứ đó rồi!
Năm Nhớ đứng dậy để dòng nước chảy xuống đầu lượt nữa rồi bước sang bên
Quyên ngồi xuống
Cô vảnh tay rút cái kẹp tóc, ngậm nơi miệng. Dòng nước xối xuống mái tóc đen nhánh, chảy ướt ròng khuôn mặt trái xoan loang loáng ánh nến. Rồi từ cổ, đến vai, đến ngực Quyên đều ướt đẫm. Bộ quầnáo đen dán sát vào người Quyên, cho thấy vóc người cô thon thả, và mảnh hơn vóc người Năm Nhớ. Cô hơi ngả đầu về phía sau, hai bàn tay vuốt vuốt từng lọn tóc.
Khi Quyên kỳ cọ chân thì dòng nước yếu dần. Năm Nhớ nói:
- Muốn tạnh mưa rồi. Thôi đi thay đồ đi!
Nói xong Năm Nhớ quay đi. Quyên cố ngước mắt hứng những giọt nước cuối cùng, rồi mới đứng dậy cầm cây nến rón rén đi về phiến đá của cô. Đứng dụm chân bên dưới, cô nhìn thấy Ngạn đang nằm lòn tay cho con Thúy gối đầu ngủ. Quyên khẽ gọi:
- Anh Ngạn ơi, lấy giùm bộ đồ tơ cho em!
- Tắm rồi hả. Có lạnh không?
- Mát lắm!
Ngạn mò soạn lấy bộ quần áo tơ đen và cái khăn đưa xuống cho Quyên
- Thay đồ lẹ lẹ đi. Coi chừng bị cảm bây giờ!
Quyên lặng lẽ đứng thay quần áo. Cô vắt bộ đồ ước cho ráo nước, trải lên ở góc phiến đá.
Lên ngồi duỗi chân sát bên Ngạn, Quyên lặng lẽ cầm khăn lau tóc. Ngạn liếc nhìn cô, rồi anh rút tay khỏi đầu con Thúy, ngồi dậy. Anh giằng nhẹ chiếc lược Quyên đang nắm trong tay, khẽ ỡ vai Quyên, chải gỡ tóc cho Quyên. cô gái ngồi im không động đậy. Hướng mắt cô ngó mông vào đêm tối, đăm đăm. Nếu như ngày thường chắc miệng cô đã chúm chím. Nhưng bây giờ thì môi cô không hé một nụ cười. Ngạn chải tóc cho Quyên như chải tóc cho đứa em gái. Anh cũng lặng lẽ. Hình như từ hôm chị Sứ mất, Ngạn gần cận chăm sóc Quyên nhiều hơn. Anh muốn an ủi người yêu bằng mọi cử chỉ trìu mến mà anh có thể làm được. Cái chết của chị Sứ khiến anh thấy phải tìm cách làm dịu bớt nỗi đau buồn của Quyên..
Bây giờ anh lại lần chải tóc cho cô. Anh chải làn tóc ướt mà ấm, là tóc ướt đậm mùi hương yêu và hỏi:
- Cậy kẹp của em đâu?
Quyên ngoan ngoãn đưa cây kẹp cho anh
Anh vừa kẹp tóc cho Quyên xong, bỗng Quyên quay lại dúi đầu vào lòng anh khóc rưng rức. Hai vai Quyên run lên, Ngạn để yên cho Quyên khóc. Một lát sau anh mới hỏi:
- Thôi, đừng khóc nữa em, đừng khóc nữa Quyên à. Anh đã nói là..
Quyên vẫn tức tưởi:
- Em thương.. thương cho chị Ba, chỉ đợi.. đợi anh Ba hoài. Bây giờ.. làm sao chỉ gặp.. gặp lại anh Ba cho được.. Hồi sáng em coi lại tấm giấy sót trong túi áo chị Ba.. hóa ra là.. là cái thơ của anh Ba mới gửi cho chỉ. Còn có một cái thơ chỉ mới viết có mấy chữ "Anh thương yêu của Sứ và con. Em vừa nhận được thư anh.."
- Em còn cất cái thơ đó hả?
Ngạn thẫn thờ hỏi và liền nghĩ tới anh San ở ngoài Bắc. Người anh bạn rể đó mà biết được sự thể này thì anh ta làm sao đứng ngồi cho yên được. Cảnh đất nước phân phối đặt bao nhiêu người vợ trẻ ở lại trong vòng nước sôi lửa bỏng. Không biết bao nhiêu tuổi xuân đã qua đi trong đợi chờ và tranh đấu. Thời gian thử thách họ từng năm một. Hai năm đầu tiên thì dễ. Nhưng bắt đầu năm thứ ba trở đi, mối thử thách trở nên gay gắt. Ngạn đã trông thấy trước mắt vô số người phụ nữ vượt qua những thử thách đó. Tuy nỗi gian khổ và năm tháng ít nhiều có làm cho họ già đi, nhưng trông họ bình tĩnh và rắn rỏi. Anh cũng đã gặp một vài chị thiếu kiên tâm và cũng có chị đã sa sẩy nhưng chị Sứ thuộc loại trên. Chị đã đi tới năm thứ bảy, cũng là năm cuối cùng của cuộc đời chị.
Ngạn bảo Quyên:
- Chị Ba hy sinh thiệt là dũng cảm
- Nhưng tội nghiệp cho chỉ..
- Anh biết.. Ai cũng buồn. Em buồn nhiều hơn là phải. Như bây giờ em có thể khóc với anh, nhưng sáng ngày..
- Sáng ngày em không khóc
- Vậy thì được. Giữa lúc tụi nó có thể nhảy vô giết mình thì phải gạt nước mắt sẵn sàng đâm lại nó.
- Em chỉ sợ con Thúy nó biết
- Thế nào rồi nó cũng biết, nhưng nó biết sau trận này thì tốt hơn!
Quyên nín thinh, cắn cắn bâu áo của Ngạn. Một lát không biết nghĩ sao, Quyên nói:
- Anh hay nhiếc em lắm
- Anh đâu có nhiếc em hồi nào!
- Có!
Ngạn nhớ lại mấy câu anh vừa nói, thì bật cười:
- Em là út, quen được má cưng nên anh mới nói vậy mà em cũng cho là nói nặng!
- Thôi thì anh nói nhé
Ngạn cười. Anh bảo:
- Thôi em ngủ đi. Ngày mai tụi nó chưa có rút đâu. Mai nữa là chẵn một tuần lễ rồi!
- Một tuần lễ mà sao em thấy lâu quá.
- Vì mình trông tụi nó rút nên thấy lâu. Hễ cái gì mình đợi hoài thì nó lâu tới
- Không phải. Tại em nghĩ có bảy ngày mà sao xảy ra nhiều chuyện quá!
Ngạn gật gù:
- Phải, xảy ra rất nhiều chuyện!
Anh ngưng lại một chốc rồi tiếp:
- Bảy ngày mà đã vậy. Mới biết trong bảy năm tại miền Nam có bao nhiêu là sự việc. Hy sinh, căm thù, anh dũng, cái gì cũng có đủ..
- Mấy đêm nay em không sao chợp mắt được..
- Em ngủ đi. Anh phải ra hang đây. Có lẽ mưa tạnh rồi!
Quyên lắng tai. Cô không còn nghe những giọt nước trong kẽ hang chảy róc rách nữa. Ngọn nến cắm trên phiến đá leo lét, sắp tăt. Trước khi ra ngoài, Ngạn cúi hôm Quyên, giữa lúc ánh nến sáng lên lần cuối cùng và phụt tắt.
Ngạn đi rồi, Quyên nằm một lúc thì thằng út đến. Nó đứng dưới hỏi vọng lên:
- Chị út ngủ thức?
- Thức, em đó hả út?
- Dạ..
Quyên nhổm dậy, với tay kéo thằng út lên. Tay thằng út mát lạnh. Quyên rờ thấy quần áo âm ẩm và đầu nó còn ướt rượt.
- Bộ em tắm hả út?
- Dạ..
Thằng út thì thào:
- Chị út ơi, chị có hay gì hôn? Mấy chú ngoài xóm chặt tiêu thằng Xăm rồi
Quyên chưng hửng:
- Sao em biết?
- Chị Cà Mỵ mới đem gạo vô miệng hang, chị không hay à?
- Cà Mỵ hả, Cà Mỵ đâu?
- Chị Cà Mỵ về rồi. Hồi trưa mưa dữ đó. Chị Cà Mỵ nói mấy chú diệt thằng Xăm với một thằng nữa. Má chị Mỵ bỏ trốn rồi.. mà sao chị Mỵ khóc dữ quá hà. Chị bị tụi lính nó làm cái gì đó..
- Em ngó thấy chị Cà Mỵ à?
- Em thấy chớ. Hồi nãy em ở ngoài.. Trời đương mưa ầm ầm thì nghe kêu: " Mấy anh ơi, tui là Cà Mỵ đây!" Em với mấy chú chạy ra. Chị Cà Mỵ chuyển đồ ăn vô, nói cái vụ đó rồi khóc thút thít. Lúc chỉ chạy đi, ông trời ổng nháng lên, sao em ngó thấy quần áo của chỉ rách te tét hết trơn hè!
Thằng út lập bập, vừa nói vừa thở. Nó quả quyết bảo rằng nó nói thiệt. Và nó nắm tay Quyên
- Không tin chị út đi với em ra hỏi mấy chú coi!
Quyên nhoài chân xuống phiến đá đi theo thằng út. Ra gần tới miệng hang, Quyên đụng phải anh Hai Thép. Cô hỏi:
- Cà Mỵ nó mới tới đây hả anh Hai?
- ờ nó mới đem cơm với thuốc hút vô. Thiệt là không ngờ anh em đã thanh toán được thằng Xăm, khá quá!
- Nghe thằng út nói em không tin. Vậy nó chết thiệt rồi à?
- Chết rồi, bà Cà Xợi thì bỏ trốn mất biệt!
Thằng út nói leo:
- Sợ bả trốn ở ngoài nhà nò của tui quá!
- Sao mày biết?
- Chỗ đó êm lắm!
Anh Hai Thép không chú ý nghe thằng út nữa. Anh bảo Quyên:
- Tao thương con Mỵ quá. Con nhỏ tốt thiệt. Ban nãy thấy kiểu nó khóc tao nghi lắm, hỏi gặn mãi nó chỉ bảo:
- "Cháu không nói đâu. Chừng nào mấy chú ra khỏi hang cháu mới nói..".Vậy rồi nó chạy vụt đi. Lạ quá, quần áo của nó rõ ràng là bị xé rách.
Quyên thốt lên:
- Trời ơi..
Cô đut ngón tay vào miệng cắn cắn, và nín bặt. Trong đêm tối cô thấy Cà Mỵ hiện ra với khuôn mặt nâu rám hay ngước lên và khóe mắt của Cà Mỵ xưa nay vốn đã ươn ướt thì giờ lại càng ướt bhơn. Đôi mắt của cô gái hiện ra trước Quyên trông sao vẫn thiệt thà, vẫn ngây thơ một cách đáng thương. Quyên nhớ những khi Cà Mỵ cười khi nắc nẻ bên suối, nhớ Cà Mỵ gánh nồi đi Tri Tôn mồ hôi rấp dính những món tóc loăn xoăn trên trán. Quyên nhớ Cà Mỵ ngồi đan cà ròn, miệng hát bài "Hoàng tử chém chằn". Tháng nắng, chiều nào ra suối Cà Mỵ cũng đặt cà om lên cỏ, chúm đôi bàn tay dịu nhỉu múa điệu của riêng cô nghĩ ra. Thoáng chốc, Quyên nhớ đến mọi nét mọi vẻ của Cà Mỵ. Cả cái cử chỉ khi Cà Mỵ ôm cô mà hôn thiệt là kêu, thiệt là nhiệt thành.
Nghe thằng Xăm chết. Quyên không mảy may thương xót. Chớ thoáng nghe đờn Cà Mỵ hình như bị bọn giặc phá hoại Quyên đau quá, thương cho Cà Mỵ quá. Song Quyên vẫn không tin.
Quyên nói với anh Hai Thép:
- Đâu chắc là Cà Mỵ đã bị tụi nó làm ẩu. Anh Hai à, chưa chắc đâu.
Mặc dù nói vậy, sao Quyên cảm thấy chừng như việc đã gần với sự thật lắm. Linh tính của cô như quả quyết với điều ấy.
2
Mưa ngớt vào lúc nửa đêm. Qua hôm sau bầu trời Hòn Đất trở lại trong trẻo. Các vườn lá trên Hòn được trận mưa đêm tắm gội cho mướt mượt.
Địch không mở thêm một cuộc tấn công nào mới. Ngồi trong cái chuồng trâu bỏ trống dùng làm chỗ đóng quân, hạ sĩ Cơ và ba người lính cùng tiểu đội hồi hộp đợi từng tiếng đồng hồ của ngày hôm ấy trôi qua. Họ hy vọng mọi sự được êm ái, để trời sụp tối là họ tới nơi hẹn gặp thím Ba. Không may cho họ, lúc xế, hạ sĩ Cơ bị tên trung úy gọi tới:
- Anh về dẫn tiểu đội của anh lên đại đội!
Hạ sĩ Cơ thiếu điều muốn run lên. Anh nín thở, nghe tên trung úy nói tiếp:
- Tối nay người ta hát bóng cho Việt cộng với dân chúng coi.. Mấy anh em lên khiêng vác, làm giàn rớ gì đó!
- Dà..
Hạ sĩ Cơ thở phào nhẹ nhõm. Anh ta hỏi:
- Dạ đi bây giờ?
- ờ, đi liền bây giờ!
Hạ sĩ Cơ nghĩ bụng: "Nguy quá, kiểu này làm sao gặp thím Ba ú cho được!"
Về tới chuồng trâu, anh kêu lính trong tiểu đội sửa soạn đi và anh gọi riêng một trong số những người lính sẽ trốn với mình, rỉ tai bảo:
- Chạy lại quán cho thím Ba biết mình bị kẹt. Hỏi thím coi hưởn trê trễ tới lối bảy tám giờ được không. Rồi chạy cho tôi hay.
Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội lính đi lên đại đội
Tên chỉ huy đại đội bảo an thấy hạ sĩ Cơ dắt tên lính tới thì nói:
- Đi làm chỗ hát bóng đó hả?
- Dà
- Theo tôi!
Hắn dắt hạ sĩ Cơ cùng tiểu đội lính đi vô vườn mãng cầu. ở đó một đám người gồm nhiều phụ nữ và vài ông già đang ngồi lổm nhổm, có mấy tên bảo an đứng coi chừng.
Trong số đó có chú Tư Râu ba thằng út. Chú bị bắt khi đem cá vô xóm bán. Chú đang cảu nhảu:
- Mấy ông bắt tôi đi mần bất tử như vầy bỏ nò ở nhà không ai thăm. Tôi thì có biết làm cái vụ này đâu kia chớ!
- Không biết thì người ta chỉ cho biết. Bỏ một bữa thăm nò mà cằn nhằn hoài. Mấy người ham làm giàu vừa vừa chứ. Tụi tôi đi đánh Việt cộng cho mấy người hưởng chớ ai hưởng.
- Tôi không hưởng cái khoản đó!
Chú Tư thản nhiên đáp. Tên đại đội phó nổi cục, bước tới ngó mặt chú. Hắn ngó mé bên này rồi lại ngó mé bên kia.
- Ê, tên gì mày?
- Tôi tên Tư
- Tao hỏi mày tên gì?
- Tôi nói tôi tên Tư!
Tên đại đội phó vung tay đấm mạnh vào mặt chú Tư. Nhưng chú đã lẹ làng gạt phắt tay nó ra. Đám đờn bà thấy thế vụt chạy nhào tới:
- Trời ơi, sao đánh người ta. Ông hỏi tên thì người ta nói tên, chớ sao ông lại đánh?
Một ông già bảo tên thiếu úy:
- Ông à, ông trật rồi. chú ta tên Tư thiệt mà, bà con tôi vẫn kêu chú là chú tư Râu
Tên đại đội phó quay ngoắt đi:
- Đ.mẹ, tôi không biết Tư Râu Rai gì hết. A-lê, đi làm!
Đám đàn bà léo xéo:
- Không tụi tôi không đi nè. Ai giỏi làm gì thì làm thử coi!
Không muốn không khí trở nên găng, nên chú Tư ôn tồn nói:
- Thôi mình đi mấy thím!
Nói thế xong, bỗng chú bước vụt lên ngang mặt tên thiếu úy, nói vừa đủ cho hắn nghe:
- Cậu là người Việt nên tôi chỉ gạt tay cậu ra. Chớ Mỹ mà nó đánh tôi kiểu đó, tôi vặn họng nó rồi a cậu!
Tên thiếu úy ngó sững ngừng đàn ông râu ria xồm xoàm vai u thịt bắp. Hắn đi rướn tới, nặng nề, và hoàn toàn câm lặng
Đám phụ nữ nghe lời chú Tư Râu, lẽo đẽo đi theo. Tên thiếu úy ấy sai lính khiến mọi người vác tre, vác cưa, dao rựa đi về phía hang. Bọn lính đốc thúc bà con dựng lên một cái khung tre trước miệng hang.
Giữa lúc kềm giữ cho bà con đào lỗ, cắm cột, hạ sĩ Cơ không ngớt dòm về phía miệng hang. Anh ta bảo bụng: "Còn có mấy tiếng đồng hồ nữa thì mình thoát khỏi chỗ này rồi, phải thủ kỹ mới được". Anh lính đi lại quán thím Ba ú đã về cho hạ sĩ Cơ hay rằng bất luận thế nào thím Ba cũng đợi họ tại ngã Sĩ Lỳ để dắt họ đi, nếu họ về sớm sẽ đi sớm, về muộn sẽ đi muộn, không thể dời ngày khác được.
Mãi tới choạng vạng cái khung để mắc màn ảnh mới dựng xong, sau bao lượt dùng dằng chèo kéo.
Hạ sĩ Cơ dắt tiểu đội trở về tới chuồng trâu thì trời sụp tối. Anh ta và bốn người lính nọ bưng cà men cơm ăn qua loa vài hột rồi vác súng lỏn đi..
Tới ngã ba Sĩ Lỳ, họ không thấy ai cả. Người nọ thì thào hỏi người kia.
- Cha, sao không thấy thím Ba đâu hết?
- Mày nghe thím dặn kỹ không?
- Hạ sĩ cơ hỏi
Ngay lúc đó, có tiếng bên vệ đường vọng ra:
- Anh em đó hả?
Đúng là tiếng thím Ba. Mà vẫn chưa thấy thím đâu. Lát sau mới nghe tiếng sột soạn trong bụi cây vệ đường:
- Tôi đây nè
Cái bóng to béo của thím ở trong bụi bước ra, thì thào hỏi:
- Anh em tới đủ hết chưa?
- Đủ
- Đưa súng đạn hết đây cho tôi!
Bốn người lính cởi súng đạn, run run cầm giao cho thím Ba. Thím lanh lẹ tóm xách một tay hai cây súng lủi vô bụi. Chốc sau, thím chui ra trao cho mỗi người một ốp mo cau còn bốc hơi nóng ấm:
- Đây là phần cơm của mấy cậu. Có thịt gà ở trỏng1
Bốn người lính cóm róm đỡ lấy mo cau, thím Ba bắt đầu đi vượt lên, xấp xải. Khỏi ngã ba vài ba trăm thước, thím rẽ xuống ruộng. Bốn người đi theo thím như chạy. Một đỗi sau, tới giữa đồng, họ bỗng nghe tiếng loa vọng ồm ồm trong xóm. Thím Ba hỏi:
- Cái chi vậy?
- Tụi nó lùa bà con đi coi hát bóng mà!
Thím Ba yên tâm đi tới. Sông Vàm Răng hiện ra như một kẽ trũng, đang chảy đổ ra biển. Nước sông mỗi lúc một ráo kiệt, thỉnh thoảng réo lên, như tiếng người kêu khản giọng giữa bốn bề đất trống đồng khồ.
Thím Ba ú xăm xăm đi tới bờ sông. Thím vỗ tay bộp bộp ở phía bờ bên kia sông chuỗi dậy mấy cái bóng phụ nữ vắt vẻo búi tóc:
- Chị Ba đó hả?
- ờ.
- Cho anh em qua đi. Cứ lội qua, cạn xợt thôi!
Thím Ba ú nói với bốn người lính:
- Thôi bây giờ mấy cậu đi nghe. Phận sự tôi tới đây xin hết!
Thím móc túi lấy cái gì đưa hạ sĩ Cơ:
- Đây, bà con cho chung mấy cậu ba trăm?
Hạ sĩ Cơ rụt tay lại. Thím Ba ú nhét vô tay hạ sĩ Cơ và bảo:
- Mấy cậu cầu mà xài đường. Của bà con cho, mấy cậu cứ lấy, không can chi!
Hạ sĩ Cơ buộc lòng cầm tiền. Anh ta ứ đứng ngây, miệng lúng búng câu gì không rõ. Bốn người lính từ biệt thím Ba rồi cởi giầy, lần lượt lội xuống bãi bùn.
Người phụ nữ bờ bên kia nói trỏ xuống bốn người lính đang lội ồn ột:
- Mấy cậu bận quần xà lỏn thôi, còn đồ cởi ra ém xuống sình đi! Qua đây sẽ có quần áo cho mấy cậu thay!
Bốn người nghe lời cởi quần áo giữa lòng sông cạn. Họ vo guộn những bộ binh phục bảo an vụt xuống bãi bùn rồi lấy chân đạp nhận xuống thật sâu.
Trong bóng tối lờ mờ, thím Ba ú còn nhìn thấy bóng những người lính vừa rũ bỏ binh phục đang lội lên bãi sông bên kia. Bây giờ thím Ba ú mới thiệt tin là bổn phận mình đã hoàn tất. Cái gì khiến thím hân hoan thật sự.
Thím tự nhủ: "Được bốn người cũng đỡ bốn người!"
Đến lúc anh em lên bờ bên kia. Thím mới quày lưng trở về.
Vào tới rìa xóm, thím Ba nghe tiếng người dậy lên rào rào như ong vỡ tổ. Và tiếng lính la ó vang rân, thím đứng lại một chút mới đi vô. Vừa mới ló ra ngã ba, thím liền bị một tên lính chộp tay thím lôi đi. Thằng lính la oang oang:
- Bắt được thêm con mẹ này đâý
Thím Ba ú hốt hoảng, tính xô tên lính mà chạy. Nhưng một thằng đi trờ tới chợt lầu bầu:
- Đ.mẹ, dân xứ này ngu quá, tới coi hát bóng mà cũng phải rượt như rượt gà!
Nghe vậy, thím Ba vỡ lẽ, nên không chạy. Thím dục dặc tuột tay thằng lính:
- Bỏ tôi ra, để tôi đi, làm gì mà dữ vậy!
Thằng lính buông tay thím. Nó nói:
- Muốn bà nội đi hay không đâu có ăn nhằm gì tới tôi. Lùa mấy bà đi, tôi cũng chớ có được đồng xu cắc bạc nào. Ngặt thiếu tá kêu lùa là tụi tôi phải lùá
- Đi thì đi.. Vậy chớ hát tuồng gì đó hả cậu, mà hát ở đâu?
- Bà nội này nãy giờ bộ lên chuồng ngủ rồi sao chớ? Người ta phát loa năm bảy lượt mà không nghe. Hát tuồng Huê Kỳ, hát ở trong hang!
Thím Ba ú thừa biết rồi, nhưng thím thấy cần phải đến đó, nên thím chịu đi, không cự nự gì nữa.
Lát sau, lại có một đám bà con cũng bị dồn tới. Hỏi ra thì là những người cuối cùng mà bọn giặc vừa bắt được.
Bọn lính dắt mọi người tới bãi đất trống trước miệng hang thì ở đó đã đen nghẹt những người. Loa phóng thanh của địch treo trên các cây cọc tre thét oang oang kêu bà con giữ trận tự. Nhưng đám bà con ngồi trên bãi đất trống vẫn nhốn nháo, ầm ĩ. Tên thiếu úy tâm lý chiến đêm nay đóng vai trò nổi bật. Tiếng gào của hắn trong loa không lộ vẻ bất bình mà lại lộ vẻ phấn chấn. Vì rốt cuộc, cái sáng kiến của hắn đã được đem ra thực hiện. Vì máy nổ đã khởi động, tấm vải trắng màn ảnh đã được treo, và ít ra thì cũng có tới một ngàn người bị dẫn tới ngồi trên bãi đất này.
Mặc cho đám quần chúng bị bức bách coi phim đó còn ồn ào huyên náo, tên thiếu úy vẫn cứ bắt đầu. Hắn trịnh trọng:
- Kính thưa toàn thể đồng bào. Hôm nay tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý đồng bào cuốn phim hay nhứt mà chúng tôi vừa nhận được của trên. Xin lưu ý cùng toàn thể quý đồng bào, đây là cuốn phim chiến trận ở Cao Ly. Quận đội Huê Kỳ đánh phá một trái núi tên gọi Thượng Cam Lĩnh..
Đèn điện vụt tắt ngấm. Máy chiếu phim quay sè sè. Một đoàn máy bay xuất hiện, che rợp màn ảnh.
Rồi bộ binh kéo đi rầm rộ. Quân Mỹ đội nón sắt cắp súng chạy sau những xe tăng có gắn đại bác nòng dài nghễ nghện.
Những hình ảnh đầu tiên đó quả có sức lôi kéo của nó. Trên bãi đất, tiếng nhốn nháo lắng xuống dần.
ở trong hang, tổ gác miệng hang cũng nhìn thấy rõ mồn một. Anh Hai Thép nói:
-Tụi này đánh mình không nổi, giờ bày trò chiếu phim tác động đây. Để coi coi..
Ngạn ghìm súng, dán mắt theo dõi. Màn ảnh ở hơi xa một chút, nhưng anh trông thấy rõ đạn đại bác nổ, những vầng khói, cả những cái nón sắt bóng loáng và các đôi chân quấn xà cạp của quân Triều.
- Trung cuống chạy lẫn vào trong miệng hang núi sâu hoắm. Ngạn nghĩ: "Chắc tụi nó bắt lính Lý Thừa Vãn và lính Tàu Tưởng đóng cho nó quay!.."
Trên màn ảnh, các cánh quân Triều – Trung lần lượt bị tiếng máy bay, xe tăng và bộ binh Mỹ dồn vào hang. Ngạn văng tục:
- Mẹ nó nói xuyên tạc trận Thượng Cam Lĩnh. Cái phim này các đồng chí Trung Quốc quay rồi, hồi gần hòa bình, tôi có coi!
- Phải, tôi cũng có coi...
- Trọng nói.
Ngạn tiếp lời
- Ai chạy lấy mấy cái loa mo cau ra đây cho tôi!
- Để tôi đi!
Trên màn ảnh bắt đầu diễn ra những cuộc xung phong ác liệt. Quân Mỹ nhiều lượt tràn vào hang. Chúng cũng bị đánh bật ra. Rồi các giếng nước có cần vọt quanh núi đều bị quân Mỹ chiếm. Trong hang, những chiến sĩ Trung – Triều rã rượi, đói khát.. Quân Mỹ lại xung phong hết sức dũng mãnh. Kìa những chiến sĩ Triều – Trung ngã gục tại miệng hang, tay chới với buông những khẩu tiểu liên kiểu có nhiều lỗ tỏa nhiệt.
Loa phóng thanh không ngớt rít rống, giải thích. Cuối cùng tiếng loa dồn dập, câu nọ xọ câu kia:
- Bọn Trung cộng và Bắc Cao rất chi là ngoan cố. Chúng bị vây siết mà vẫn không chịu đầu hàng. Quân đội Huê Kỳ buộc lòng phải phá hang. Đây là lúc Huê Kỳ đang đem chất nổ vô!
Ngay lúc đó tarên màn ảnh quả nhiên hiện ra bọn lính Mỹ vác hòm thuốc nổ chạy xốc vô hang, dưới làn hỏa lực của các cỡ súng yểm trợ. Cuối cùng toàn bộ trái núi bị giật nổ tung, bắn ra vô vàn đất đá.
Tên thiếu úy tâm lý chiến nói một tràng kết luận:
- Quý đồng bào chắc đã thấy rõ, trái núi lớn như vậy mà còn nát vụn, huống hồ là cái Hòn này..
Tới đây, miệng loa của chúng bỗng day vào phía hang. Vẫn là cái giọng đang hồi phấn chấn của tên thiếu úy:
- A-lô, a-lô, hỡi các phần tử Việt cộng trong hang! Chúng tôi khuyên các người hãy đầu hàng. Nếu không quân đội cộng hòa buộc lòng phải đánh nát cái hang của mấy người y như trong phim này vậy..
Ngạn lập tức giơ cái loa mo cau lên, thét ra:
- Nghe đây, đồng bào hãy nghe chúng tôi nói đây! Vừa rồi tụi giặc chiếu cái phim gì đồng bào biết không? Cái phim láo đó! Đồng bào đừng tin. Chuyện này chúng tôi biết rất rõ, chính bộ đội chí nguyện Trung Quốc và bộ đội Triều Tiên đã vùi chôn giặc Mỹ tại trái núi đó!
Ngạn nói tới đây, đồng bào ở ngoài hang liền vỗ tay như sấm.
Anh nói tiếp theo:
- Bà con ơi, chúng tôi còn một người chiến đấu một người, còn hơi thở nào chiến đấu hơi thở nấy. Tất cả chúng tôi đều còn sống, còn đánh.. Bớ mấy thằng giặc theo Mỹ – Diệm, tụi bây có giỏi thì vô đây.. Vô đây tụi tao bắn đổ ruột hết thảy.. Nhướng mắt mà coi nè!
Ngạn liệng cái loa, xóc khẩu tôm-xông, nhắm vào màn ảnh bóp cò. Súng nổ, đoành đoành đoành. Màn ảnh bị lủng ba lỗ dụm vào nhau. Bà con bên ngoài lại vỗ tay, reo hò dữ dội.
Anh Thép ngăn:
- Thôi đừng bắn nữa, để dành đạn.
Đến khi bọn giặc bắt đầu xổ trung liên vào hang thì Ngạn và anh em đã nép mình sau các mỏm đá. Loạt trung niên của giặc vừa dứt. Ngạn lại bắc loa nói ra:
- Hỡi các anh em bình sĩ, chúng tôi khuyên các anh em đừng đánh vô hang nữa mà chết uổng mạng. Tốt hơn hết là đòi về hoặc đào ngũ. Nếu anh em nghe lời tụi chỉ huy xông vô đây thì chúng tôi phải nổ súng. Mà khi chúng tôi đã nổ súng thì anh em ắt phải chết.. Nói để anh em biết, ở trong này bắn ra không trật đâu!
Loạt trung liên thứ hai bây giờ lại xổ vào. ý chừng tên xạ thủ vừa đóng băng đạn mới. Nhưng giữa cái khoảng nó thay băng. Ngạn đã lợi dụng xong rồi
Buổi chiếu bóng thế là thất bại. Bà con đốt đuốc kéo về. Tiếng cười nói rộn lên khắp khu vườn. Tên thiếu úy tâm lý chiến hổn hển nguyền rủa tên thiếu tá:
- Tôi đã nói đừng lừa tụi nó tới coi mà không chịu, ai biểu tham.. Tỷ như không có tụi nó thì Việt cộng, coi ên, thối chí hay không thối chí cũng không hại. Đằng này..
.. Trong lúc đó thì tên thiếu tá vẫn đang ngồi nhậu giữa ngôi nhà nền đúc. Nghe tên lính chạy về cho hay, hắn liệng ly rượu vỡ "choang", cười kha kha:
- Đ.mẹ hư hết rồi sao hả? ối, thằng thiếu úy Sanh non lắm. Hồi nó đưa ý kiến đó, tôi nghi rồi. Ngặt nó cứ đeo theo tỉ tê ton hót hoài, tôi mới buông xuôi cho nó làm. Muốn hiểu tụi Việt cộng hỏi tôi đây nè!.. Hồi tôi làm quận ở Xợo rô, tôi trói tụi nó lại đập đầu bằng búa mà tụi nó còn không ngán. Đập thằng trước té xuống, thằng sau vẫn tự nhiên như thường. Mấy con nữ cán bộ cũng vậy, tôi càn vô cứ bắt được mấy đứa đem về ghim kim vô đầu ngón tay. Mới ghim kim xong chưa kịp lấy búa gõ thì đã có đứa nói: - "coi đây!" rồi nó vỗ mạnh mười ngón tay vô tường, lút kim. Đ.mẹ, Việt cộng là vậy đó! Không thấy con nhỏ hôm trước sao, chém gần lìa cổ rồi mà vẫn chửi. Huống chi đem tuồng hát bóng ra dụ nó dụ mẹ gì được mà dú
Tên thiếu tá nói, chửi thề, và tiếp tục rót rượu. Hắn rót tràn rượu trắng vào một cái ly mới, dằn mạnh cái chai xuống mặt bàn làm ly rượu sóng sánh đổ tạt. Hắn đưa tay ra dáng như đè vật gì trong không khí xuống:
- Th..ôi, để đó...
Hắn guay ngoắt sang bên:
- Trung úy Tự!
- Dạ, có tôi.
Một tên trung úy trạc bốn mươi tuổi đang đứng dựa tường vội vàng bước tới. Tên thiếu tá bảo:
- Anh cho trộn xi-măng, gánh gạch vô hang, như hôm nọ đã bàn..
- Ngay bây giờ à, thưa thiếu tá?
- Ngay bây giờ, phải làm cho gấy. Sáng mai tôi chỉ huy lấy mẹ cái miệng hang đó là yên!
3
Chú Tư Râu nói với Cà Mỵ:
- Té ra hồi chiều tao bị tụi nó bắt đi làm cũng không uổng công Mỵ à. Anh em trong hang nói nghe "đã" quá!
.. Trên đường ra bãi, Cà Mỵ lẽo đẽo đi theo sau lưng chú Tư. Thằng út nói vậy mà đúng. Bà Cà Xợi hiện đang ở ngoài nhà nó. Bữa trước, bà con bao bọc bà ở xóm lưới. Nhưng tụi lính lùng kiếm riết quá nên hôm qua chú Tư lảnh đem bà ra giấu ở nhà nò. Đợi lúc trên đường không còn ai, Cà Mỵ hỏi:
- Má tui hôm rày ra sao chú Tư?
- Vẫn mạnh
- Má tui có buồn hay chết xỉu nữa không chứ?
- Không.. có cái là tao thấy bả coi hơi khác khác...
- Khác sao chú!
- Tao cũng không biết. Mà bây giờ má bây mần công chuyện coi mau mắn lẹ hết sức!
- Má tôi mần công chuyện gì!
- Má bây nấu cơm, vá lưới giùm tao. Tội nghiệp, má bây cũng chưa vui..
Cà Mỵ không hỏi nữa. Cô áp đôi tay lên ngực, bước đi từng bước một. Trước mặt cô, sóng biển nhuốm ánh trăng muộn dào dạt la liếm vào bãi cát. Cô đi trong vầng trăng và tiếng sóng đó, mà tấm lòng chất phác của cô trào lên biết bao uất ức.
Hôm qua cái nhà của cô đã bị tụi giặc đốt. Và bây giờ cô cảm thấy sợ tiếng lá dừa khô kêu rắc rắc, vì trên những tàu lá đó cô đã bị mấy thằng lính thay nhau cưỡng hiếp, trong lúc cô đem cơm đi vô hang.
Chiếc xuồng của chú Tư vẫn nằm trên bãi. Sóng biển tung tóe liên tiếp sau lái xuồng. ý chừng sóng muốn vỗ tới lái chiếc xuồng đó, nhưng nó vẫn không sao vô tới được. Chú Tư Râu bước đến kéo vần chiếc xuồng. Cà Mỵ vịn be phụ đẩy với chú. Mũi xuồng chuồi xuống, rập vã vào ngọn sóng, để lại phía sau một đường cát miết dài.
Chú Tư bơi lái bằng cây chèo. Chú bơi cật lực nhưng mũi xuồng không rấn lên được bao nhiêu. Gió thổi chỉ mũi xuồng đi rất chật vật. Chiếc xuồng nhảy nhót men theo các cây hàng rào nò hiện mờ mờ, chạy dài tít tắp. Xa xa phía trước, ánh đèn đỏ nhà nò nhấp nháy như nổi trên lưng sóng. Chú Tư trỏ tay về ánh đèn nói vui vẻ:
- Má bây còn biết nổi đè lên giùm tao là bả còn tỉnh lắm. Không sao đâu!
Cà Mỵ nhìn ánh đèn. Ban đầu cô chỉ nhìn thấy ánh đèn đó, nhưng xuồng đi một đỗi sau thì cô bắt đầu thấy dạng nhà nò.
Dưới ánh trăng bàng bạc, nhà nò của chú Tư hiện ra giống như cái chuồng chim bồ câu, nổi hêu một mình giữa bốn bề sóng động.
Từ trong bãi bỗng có tiếng bìm bịp kêu giục gĩa một thôi dài. Tiếng kêu của con chim lông nâu báo con nước triều lên xuống ấy nghe tợ tiếng tù và rúc, càng về cuối nghe càng nhặt.
- Nước lên rồi! – chú Tư nói.
- Bây giờ chú tư đi thăm nò không? Để cháu đi thăm với chú nghen?
- Thôi.. Không kịp đâu Mỵ à. Để con nước ròng sáng thăm cũng được!
Chiếc xuồng vượt qua mấy cây hàng rào cuối cùng rồi cặp vào bậc thang sàn lảng của nhà nò. Cà Mỵ bò tới giơ tay bám vịn nấc thang, vừa leo lên vừa kêu lớn:
- Me, me ơi!
Bà Cà Xợi đang nằm trong chòi vùng choàng dậy. Bà chệnh choạng chạy ra. Hai mẹ con gặp nhau ở chỗ sàn nhà. Cà Mỵ vì vấp cái cây lót sàn nên khuỵu xuống, ôm ngang người mẹ. ánh trăng chiếu rọi ngấn mắt long lanh giàn giụa của Cà Mỵ đang ngước lên. Giữa lúc chú Tư đang quấn thêm vòng lòi tói nữa, buộc xuồng vào cầu thang. Sợi dây lòi tói đó cứ bật kêu rủng rẻng. Chiếc xuồng tuy đã buộc ở gầm cầu nhưng nó chẳng thể đậu yên với nhịp sóng lúc thì nâng nó lên, lúc lại níu nó xuống.
Chú tư đi vào lấy tấm đệm trải giữa sàn nhà nói:
- Thím Cà Xợi với con Mỵ ngủ ở đây nghe!
Rồi chú đến ngồi bên cái mẻ un còn ngún khói kề miệng thổi phù phù. Chú móc bì thuốc, vừa vấn thuốc vừa nói:
- Mẹ nó, mới tới đây có mấy bữa mà nhà nào nó cũng gây oán. Thím Cà Xợi à, thím với con Mỵ đừng sợ, cứ ở đây, chừng nào tụi nó rút, thím hẵng về. Chừng đó tụi tôi sẽ ráp cất nhà lại cho thím. Mùa tới có thiếu mạ cấy thì cô bác giúp đỡ, không lo..
- Tui còn có hai bàn tay, có cô bác, tui đâu lo.. Mà điều..
Bà Cà Xợi ngập ngừng, lát sau mới nói tiếp, giọng rền rẫm:
- Để thằng Xăm cũng khổ, mà nó chết rồi tôi cũng khổ.
Chú Tư ngước nhìn về phía bà Cà Xợi. Chú thấu hiểu lòng bà. Nhưng chú nói:
- Thím đừng nghĩ vậy, đừng nghĩ gì nữa.. Kể như thím không có đẻ thằng Xăm đi. Hồi giờ chủ Mưu dưỡng dạy nó, thằng Mỹ-Diệm tập dượt nó thành đứa ác ôn. Nó có còn là con thím nữa đâu. Nói thiệt, tôi mà có thằng con thế đó thì tôi chặt lâu rồi!
Bà Cà Xợi làm thinh. Chú Tư lại nói:
- Thím Cà Xợi à, trận này tụi nó về đây đánh phá tính lập bót rồi giựt đất giựt biển của mình lại ráo đó đa thím!
- Tui biết..
- Cái đó mới là cái khổ nạn lớn!
- Thằng Xăm có nói với tui, bữa nó chết..
- Nói sao?
- Nó nói là chừng tiêu diệt hết đàng mình trong hang thì nó ở lại đây luôn
- Ghê không? ở đây đặng rồi giựt đất thâu tô chớ gì, ở đây đặng bắt bà con mình trở lại cái cảnh đi mua từng thước đất nắn nồi như hồi nẩm chớ gì!
Nói thế xong, chú Tư khoát tay trỏ biển:
- Bà mẹ nó, nó tính vậy, chớ dễ dầu gì mình chịu rủ tay lần nữa thím? Thằng bé tôi nghe nói cụt tay, tôi cũng không thối chí. Tôi hứa với thím, hễ tụi nó mà nhổm khiêng gạch xây bót là tôi bỏ nò vô xóm nhập du kích liền. Hổm nay tôi cứtính tới nước cùng là cho nó chiếm được hang và anh em trong hang có hy sinh hết đi thì rồi Hòn Đất này cũng nhen nhóm đánh nữa. Nói là nói giả dụ vậy, chớ anh em ở trong đâu có chết thím..
Cà Mỵ nói:
- Tám bữa rồi nó không nhập vô hang được. Võng trong xóm đều bị tụi nó lấy để khiêng thây!
- Cứ cái "mửng" này chắc là nó phải rút. Lính tráng mất thần hết rồi. Bà con mình trong xóm mấy bữa nay hễ gặp lính là dọa. Tụi lính sợ dữ lắm. Mai tôi cũng vô trong xóm coi..
Cà Mỵ nhích tới, khẽ bảo:
- Chú tư ơi, chừng nào cần đem gạo vô hang thì để cháu đi..
Cà Mỵ nói chưa dứt câu, chú Tư bỗng rùng mình. Hôm qua lúc ghé nhà mẹ Sáu, mẹ đã kể cho chú nghe rằng Cà Mỵ đã nói với mẹ chuyện nó bị hiếp. Cà Mỵ khóc rấm rứt và bảo mẹ Sáu: "Muốn đem gạo vô hang cho mấy chú nên con liều mình bà ơi"
Chú Tư Râu thương con Cà Mỵ quá nên khi nghe cô đòi đi đem gạo nữa thì chú gạt ngang:
- Không, không..
Chú vụt cái tàn thuốc xuống kẽ sàn. Khoang tay ngồi im lúc lâu, chú mới đứng dậy nói:
- Má bây ngủ rồi. Thôi bây ngủ đi. Tao cũng đi ngủ đây! Chú Tư lại chỗ góc trại, vạch nóp chun vô. Cà Mỵ dặn:
- Gần sáng có đi thăm nò kêu cháu dậy đi với nghe chú?
- ờ, để tao kêu!
Chú Tư mới nằm xuống đã ngáy liền.
Chú ngủ một giấc dài thì Cà Mỵ mới chợp mắt thiếp đi.
Lúc bìm bịp kêu nước giựt ròng, chú Tư trở dậy. Chú lại bếp thổi lửa, hút thuốc. Hút hết điếu thuốc chú mới mò, kiếm cái lưới vợt, lom khom đi ra. Ngang chỗ Cà Mỵ nằm, thấy Cà Mỵ vẫn còn ngủ thì chú không gọi, vác vợt ra bậc thang, mở xích xuồng.
Trời hãy còn tối. Sóng vẫn đùa giỡn với làn sương phủ dày mặt biển.
Chú Tư bơi xuồng từ trụ "ông bổn", ra tới họng nò.
Vừa bơi chú vừa nghĩ bụng. "Mình bỏ một con nước, bây giờ ra thăm chắc thế nào cá cũng chạy khá!"
Buộc xuồng cập bến vô hàng rào xong, chú xốc cây vợt bước tới mũi xuồng. Nước trong nò đã giựt cạn. Mấy con cá chẽm tung mình lên rồi lại rới xuống. Cá chạy quẩn trong nò tóe nước sáng trưng. Tôm búng tanh tách, tanh tách. Chú Tư đứng chịu hai chân chữ bát nơi sạp mũi, thọc cây vợt xuống. Hai tay chú nhấc cán vợt nặng trĩu, đổ hất vào khoang xuồng. Cá giống, cá gộc, cá chẽm chuồi mình giãy đành đạch. Chú Tư xúc hết vợt này tới vợt khác, xúc mỏi cả tay. Còn mấy con cá to vẫn chạy vòng quanh nò. Chú Tư bèn thọc sâu cây vợt xuống, rà đón đặng bắt nốt. Thình lình sóng xô đập một vật gì vào dây hàng rào ở ngoài. Rồi vật ấy cứ cạp theo hàng rào mà trôi tới. Tưởng có con cá mú lớn chạy vào, chú Tư vội rút cây vợt lên, để yên, cho nó đâm thẳng vào miệng nò. Nhưng lạ quá, vật đó trôi tới miệng nò thì vướng lại, quay ngang. Chú thọc vợt xúc đại. Nhưng tay vợt của chú sao cứ trớt trợt, nằng nặng. Quỳ rạp xuống, lừa lọc mãi chú mới bợ lên mấp mé mặt nước một phần của vật ấy. Trời hơi sang sáng, chú trố mắt nhìn và buột miệng kêu: "á" lên một tiếng.
Trên miệng vợt, một mớ tóc rũ xõa, rập rềnh
- Thì ra đó là một cái xác chết.
Chú Tư trấn tĩnh lại, dùng vợt rà nâng cái xác cặp vào mé hàng rào. Không nghe mùi thối. chú nghĩ bụng: "Phải vớt lên mới được!". Nhưng ở phía ngoài hàng rào chú không thể vớt cái xác. Chú thu cây vợt về, liệng xuống khoang, và cầm chèo hộc tốc bơi xuồng vào giữa nò.
Sau một lúc loay hoay chú tìm lại được cái xác. Lúc nắm phải cặp chân mang đôi giày bố đã mềm sũng, chú Tư hiểu ngay rằng đó là một tên lính. Tay chú muốn buông cặp chân giày đó ra rồi. Chú nghĩ: "Chà, công đâu vớt nó lên! Cứ để nó nằm đây làm mồi nhử cá..". Nhưng nghĩ thế, chú đã vội nghĩ lại: "Cứ đem lên thử coi, biết đâu chừng có súng ống hoặc lựu đạn".
Chú Tư rán sức lôi cái xác lên xuồng. Thì quả là một người lính thật. Với đôi giày bố đó, với bộ quân phục xám trĩu nặng trên người anh ta đó. Giữa buổi bình minh mới hé trời hãy còn đầy sương và bốc cuộn hơi thở biển, người lính nằm ngửa trên sạp xuồng thẳng đơ. Chung quanh anh ta, những con cá chú Tư mới vợt ở nò lên vẫy giãy giụa. Chú tư khoát nước rửa tay, rồi cúi xuống. Vẫn không nghe mùi hôi thúi. Nhưng mặt người lính thì đen sạm, nứt toác. Đôi tay anh ta co co như giơ lên sắp đón ôm một vật gì vào lòng, còn các khuỷu ngón tay thì quắp lại. Chú Tư không dám nhìn lâu bộ mặt người lính vì nó gieo cho chú cái cảm tưởng hình như chú đã gặp bộ mặt đó ở đâu rồi. Cái bộ mặt trông vất vả và lương thiện, trước kia nếu không phải là dân lối ruộng thì cũng là dân hạ bạc, nếu không phải là dân tát đìa mướn thời cũng chắc là dân bạn ghe, chống chèo dầm mưa dãi gió. Cặp mắt anh ta trông mới lạ chứ, nó cứ mở he hé, cho thấy đôi con ngươi đó như có rắc tro, như dại vì nỗi tức giận và hối tiếc khôn nguôi.
Chú tư không chịu nổi khi nhìn thấy đôi tay co co giữa không trung của người lính chết, nên chú khom cúi người cầm đôi bàn tay ấy đè xuống. Nhưng cánh tay vẫn không chịu buông xuôi, vẫn cứng nhắc giơ lên, như đợi ôm lấy cái gì. Nhưng đâu có cái gì. Giữa vòng tay chết đó chỉ có làn sương tan, hơi biển vờn lên như khói, và ánh bình minh mỗi lúc một trắng sáng.
Một lần nữa chú Tư lại cố vịn bàn tay người lính đè xuống. Lần này, chú chợt chạm nhằm phải lớp chai cộm dày, nhám cứng nổi trong lòng hai bàn tay người lính. Chú vối rụt tay mình lại như bị phóng lửa. Lát sau, chú mới rón rén cầm bàn tay người lính lên nhìn. "Trời.." chú buột miệng kêu khẽ. Lòng bàn tay người lính chay nhám hết. Trừ hơi sần sần tróc trắng vì bị ngâm nước lâu. Chú Tư từ từ buông tay người lính ra. Bàn tay của chú bỗng rụng rời, yếu nhớt. Chú lẩm nhẩm trong bụng: "mình đoán không sai.. Thằng này cầm cày ít nhứt cũng mươi năm.. cái cục chai đó.."
Mãi sau chú mới mò mẫm khắp người anh ta. Không có thứ khí giới nào cả. Chú lôi ra từ túi áo anh ta một cái "bóp" bằng da giả màu nâu, đã rách beng, để lòi một mớ giấy tờ và rơi rớt mấy đồng bạc in đầu Ngô Đình Diệm ướt xỉn. Trong hai cái túi đãy nơi đùi người lính cũng chẳng có gì, ngoài một miếng cơm dừa cứng cạy đã nhớt nhợt.
Chú tư ngồi lặng trước thây người lính. Chú thẫn thờ không cần thiết gì tới chuyện vợt cá trong nò nữa. Mặc dù trong đó còn có nhiều con cá lớn, chú cũng không để tâm tới ngọn sóng luôn nhồi lắc chiếc xuồng. Lòng chú giờ cứ nhói lên, như bị rất nhiều mũi kim châm chích.
Mấy câu hỏi dồn dập đến với chú cùng một lúc: "ở đâu mà trôi vô nò mình? Chết hồi nào, trận nào? Thiệt kỳ quá! Nhưng coi bộ chết chưa lâu, cao lắm là hai ngày.. Đáng lẽ thì sình rồi, chắc nhờ nước biển mặn..". Chú tư lập vập nghĩ thế và tính tới tính lui không biết có nên chở cái xác về hay bỏ lại biển.
Bỗng chú sực nhớ tới đám lính hiện ở xóm: "Không, mình không nên bỏ cái xác xuống biển. Nên báo liền cho thím Hai Thép hay.. sẵn có cn Mỵ, để kêu nó đi.."
Chú tư bỏ không xúc cá trong nò nữa, vớ mái chèo, lái mũi xuồng hướng về phía nhà chòi, bơi riết. Vừa bơi chú vừa thầm kêu:
"Bớ tụi lính bỏ ruộng bỏ đồng, đất đai của tụi bây ở nhà cũng đương bị bọn đầu trâu mặt ngựa lăm le lấy lại, sao không lo, còn theo tiếp bọn nó đi giựt đất bà con để chết cách thê thảm.. Đồ lính ngu lính dại, tao phải đem cái thây này vô cho tụi bây ngó thấy mới được!.