---~~~mucluc~~~---


Chương 20
PHÁT-XÍT ĐỨC ĐẦU HÀNG KHÔNG ĐIỀU KIỆN

LÚC 3 giờ 50 ngày 1-5, tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, tướng bộ binh Crếp được đưa đến sở chỉ huy tập đoàn quân cận vệ 8. Hắn nói rằng, hắn được ủy quyền tiếp xúc với Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân để thương lượng ngừng bắn.
Lúc 4 giờ, V.I. Chui-cốp báo cáo bằng điện thoại với tôi rằng tướng Crếp cho biết, Hít-le đã tự tử hồi 15 giờ 50 ngày 30-4. Tiếp đó V.I. Chui-cốp đọc cho tôi nghe nội dung bức thư của Gơ-ben gửi Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô. Thư viết rằng:
“Căn cứ vào di chúc của phuy-re[1] vừa tự nguyện từ giã cõi đời, chúng tôi ủy quyền cho tướng Crếp làm việc này. Chúng tôi thông báo cho vị đứng đầu nhân dân Liên Xô rằng, hôm nay lúc 15 giờ 50, phuy-re đã tự sát. Trên cơ sở quyền hợp pháp, phuy-re trong di chúc đã giao lại toàn bộ chính quyền cho Đi-ô-nít, tôi và Boóc-man. Tôi ủy quyền cho Boóc-man đặt quan hệ với vị đứng đầu nhân dân Liên Xô. Mối quan hệ ấy đang cần thiết để đàm phán hòa bình giữa các cường quốc chịu những tổn thất lớn lao nhất. Gơ-ben”.
Kèm theo bức thư của Gơ-ben là bản di chúc của Hít-le cùng với danh sách chính phủ đế chính mới. Hít-le và những người làm chứng cùng kí vào di chúc (đề rõ: lúc 4 giờ ngày 29-4-1945).
Thấy thông báo ấy quan trọng, tôi lập tức cử đồng chí phó của tôi, đại tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, đến sở chỉ huy của V.I. Chui-cốp để nói chuyện với tên tướng Đức này. V.Đ. Xô-cô-lốp-xki có nhiệm vụ buộc Crếp phải nhận phát-xít Đức đầu hàng không điều kiện.
Liên lạc được với Mát-xcơ-va, gọi điện thoại nói chuyện với I.V. Xta-lin. Người đang ở nhà nghỉ. Vị tướng thường trực nghe điện thoại nói:
- Xta-lin vừa chợp mắt.
- Yêu cầu đánh thức hộ. Việc gấp lắm không thể đợi đến sáng được.
Thoáng một cái I.V. Xta-lin đã đến máy điện thoại. Tôi báo cáo về tin Hít-le tự tử và Crếp đến, cùng việc cử tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki đến nói chuyện với hắn. Tôi yêu cầu Người cho chỉ thị.
I.V. Xta-lin nói:
- Hỏng rồi! Thằng đểu. Tiếc là không bắt sống được nó. Xác Hít-le ở đâu?
- Tướng Crếp báo rằng xác Hít-le bị thiêu hủy rồi.
- Nói với V.Đ. Xô-cô-lốp-xki rằng - Tổng tư lệnh tối cao nói - không có đàm phán gì hết ngoài việc đầu hàng không điều kiện, không đàm phán với Crếp, cũng không đàm phán với một tên nào của Hít-le. Nếu không có chuyện gì thật đặc biệt thì từ bây giờ đến sáng đừng gọi điện thoại, tôi muốn nghỉ một chút. Mai chúng ta có diễu binh 1-5.
Diễu binh 1-5... Diễu hành 1-5... Sao những cái đó gần gũi và quý báu đối với người Xô-viết đến thế, đặc biệt đối với người ở xa Tổ quốc! Tôi hình dung rất rõ, mai đây trên Hồng trường sẽ rầm rập bước chân của các đơn vị thành Mát-xcơ-va. Từ sáng sớm, tất cả họ đều tề chỉnh ở vị trí của mình. Sau bài phát biểu của người duyệt binh, các đơn vị trang nghiêm đi qua trước lăng V.I. Lê-nin, trước các vị lãnh đạo Đảng và Chính phủ, dọc bức tường cổ kính điện Crem-lanh, chân đều bước mà lòng đầy tự hào về sức mạnh chiến thắng của Lực lượng vũ trang Xô-viết đã giải phóng châu Âu khỏi tai họa của chủ nghĩa phát-xít.
Gần 5 giờ sáng, tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki gọi điện thoại báo cáo với tôi về cuộc nói chuyện đầu tiên với tướng Crếp.
- Chúng nó láu cá lắm, - V.Đ. Xô-cô-lốp-xki nói. - Crếp tuyên bố rằng hắn không được ủy quyền quyết định vấn đề đầu hàng không điều kiện. Vấn đề ấy, theo hắn, chỉ có chính phủ mới của Đức do Đi-ô-nít cầm đầu mới có quyền quyết định. Crếp muốn ngừng bắn hình như cốt để tập hợp được chính phủ Đi-ô-nít ở Béc-lanh. Tôi thấy chúng ta phải cho chúng chầu Diêm vương[2] nếu chúng không nhận đầu hàng không điều kiện.
- Đúng đấy, Va-xi-li đa-ni-lô-vích ạ, - tôi trả lời, - cậu bảo cho nó biết đến 10 giờ mà Gơ-ben và Boóc-man không đầu hàng không điều kiện thì chúng ta sẽ nện một đòn đủ mạnh để vĩnh viễn đập nát ý muốn đề kháng của chúng. Bọn tay chân Hít-le hãy suy nghĩ về những sự hy sinh vô nghĩa của nhân dân Đức và trách nhiệm riêng của chúng về sự liều lĩnh này.
Đúng giờ qui định vẫn không thấy Gơ-ben và Boóc-man trả lời.
Lúc 10 giờ 40, quân ta bắn như vũ bão vào những điểm còn lại của khu vực phòng ngự đặc biệt ở trung tâm thành phố. Lúc 18 giờ V.Đ Xô-cô-lốp-xki báo cáo rằng bọn trùm của Đức đã cử người của nó đến. Nó báo rằng Gơ-ben và Boóc-man từ chối đầu hàng không điều kiện.
Để trả lời chúng, 18 giờ 30, quân ta dùng lực lượng rất mạnh mở đợt tiến công cuối cùng vào trung tâm thành phố, nơi có văn phòng đế chính và sào huyệt của bè lũ cận thần của Hít-le.
Tôi không nhớ rõ là mấy giờ, nhưng lúc trời vừa tối, tư lệnh tập đoàn quân xung kích 3, tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp gọi điện thoại hồi hộp báo cáo:
- Một đoàn xe tăng Đức khoảng 20 chiếc vừa chọc thủng khu vực của sư đoàn cận vệ 53, mở hết tốc lực chạy về phía tây bắc ven ngoài thành phố.
Rõ ràng là tên nào đó đang định lủi khỏi Béc-lanh.
Nảy ra những phán đoán rất không lành. Có người nói, có thể, toán xe tăng đã chạy thoát ấy có mang theo Hít-le, Gơ-ben và Boóc-man.
Lập tức, bộ đội được báo động chiến đấu, quyết giữ không cho một tên nào chuồn khỏi Béc-lanh. Tư lệnh tập đoàn quân 47 Ph.I. Péc-khô-rô-vích, tư lệnh tập đoàn quân 61 P.A. Bê-lốp, tư lệnh tập đoàn quân 1 Bộ đội Ba Lan S.G. Pô-pláp-xki nhận được chỉ thị bịt kín tất cả đường sá, ngõ ngách ra phía tây và tây bắc. Tư lệnh tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2, tướng X.I. Bốc-đa-nốp, và tình bày những ý kiến của mình về vấn đề này.
Việc đánh chiếm Béc-lanh nhất thiết nên giao ngay cho hai phương diện quân: Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 và U-crai-na 1, với tuyến phân giới là: Phrăng-cơ-phua trên sông Ô-đe - Phiu-xten-van-đe - trung tâm Béc-lanh. Trong phương án này, lực lượng chủ yếu của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 có thể mở trận đột kích trên một khu vực hẹp hơn, và từ phía đông bắc, bắc và tây bắc đánh vu hồi vào Béc-lanh. Phương diện quân U-crai-na 1 sẽ sử dụng bộ phận chủ yếu của mình tiến công vào Béc-lanh theo con đường ngắn nhất, từ phía nam, tây nam và phía tây đánh quặp vào.
Tất nhiên, còn có thể còn một phương án khác nữa: giao việc đánh chiếm Béc-lanh cho một mình Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1, nhưng tăng cường thêm cho cánh trái của nó 2 tập đoàn quân bộ đội hợp thành và 2 tập đoàn quân xe tăng, 1 tập đoàn quân không quân và những đơn vị pháo binh, công trình cần thiết.
Trong phương án này, công tác chuẩn bị và chỉ huy chiến dịch có phần nào khó khăn hơn, nhưng việc tổ chức hiệp đồng lực lượng và phương tiện để tiêu diệt bọn địch đóng ở Béc-lanh, nhất là để đánh chiếm thành phố lại thuận lợi hơn. Những cuộc tranh cãi và tình trạng không hiểu nhau cũng sẽ ít hơn.
Cuộc tiến công của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 2 cũng có thể được tổ chức đơn giản hơn một chút.
Có thể chỉ cần để lại số ít lực lượng bảo vệ tại khu vực Stét-tin - Vét, còn chủ lực của phương diện quân thì tập trung ở phía nam Vét để cùng tiến công với cánh phải của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1, và cũng có thể triển khai đội hình từ phía sau cánh phải Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 (sau khi các đơn vị này đã vượt qua sông Ô-đe) mà đột kích vào hướng tây bắc, chia cắt cụm địch đóng ở Stét-tin - Vét.
Do nhiều nguyên nhân, nên khi Đại bản doanh nghiên cứu và phê chuẩn kế hoạch, những phương án đó không được nêu ra. Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã cho thực hiện phương án đột kích trên một chính diện rộng.
Nhưng chúng ta hãy trở về với những ngày hôm ấy.
Trong những ngày giao chiến đầu tiên, các tập đoàn quân xe tăng của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 không sao có thể bứt lên phía trước được. Họ buộc phải chiến đấu hiệp đồng chặt chẽ với các tập đoàn quân bộ đội hợp thành. Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng X.I. Bốc-đa-nốp cùng với các tập đoàn quân xung kích 3 và 5 thì hoạt động tương đối có kết quả hơn. Thêm nữa là trên hướng ấy sau ngày 18-4, sức đề kháng của địch phần nào có yếu hơn.
Cuộc tiến công của Phương diện quân U-crai-na 1 (tư lệnh là nguyên soái I.X. Cô-nép, ủy viên Hội đồng quân sự là tướng K.V. Crai-niu-cốp, tham mưu trưởng là tướng I.E. Pê-tơ-rốp) ngay trong ngày đầu tiên đã phát triển với tốc độ nhanh hơn. Đúng như dự kiến, phòng ngự quân địch trên hướng đánh của phương diện quân yếu đến mức, sáng ngày 17-4, ta đã có thể tung cả hai tập đoàn quân xe tăng vào chiến đấu, tiến sâu được 20 - 25 km, vượt qua sông Sprê, và từ sáng ngày 19-4, bắt đầu tiến quân vào Xô-xen và Lu-ken-van-đê.
Song, khi bộ đội của I.X. Cô-nép tiếp cận vùng Xô-xen thì sức chống cự của quân địch tăng lên và tốc độ tiến quân của các đơn vị thuộc Phương diện quân U-crai-na 1 chậm lại. Thêm vào đấy, đặc điểm của địa hình cũng gây trở ngại cho hoạt động của tập đoàn quân xe tăng của tướng P.X. Rư-ban-cô, lúc này đội hình chiến đấu đang triển khai, Vì vậy, tư lệnh Phương diện quân I.X. Cô-nép đã gửi cho P.X. Rư-ban-cô bức điện như sau:
“Đồng chí Rư-ban-cô. Đồng chí đang tiến quân vòng vèo rồi. Một lữ đoàn đánh, còn cả tập đoàn nằm im. Tôi hạ lệnh: Phải dùng mấy đường và bằng đội hình triển khai chiến đấu băng qua đầm lầy để vượt qua tuyến Brút-lu-ken-van-đê... Chấp hành đến đâu báo cáo đến đấy.
Cô-nép.
20-4-45”.
Ngày 20-4, ngày thứ 5 của chiến dịch, pháo tầm xa của quân đoàn bộ binh 79 thuộc tập đoàn quân xung kích 3 do thượng tướng V.L. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy đã đánh vào Béc-lanh. Trận công phá lịch sử vào thủ đô nước Đức bắt đầu. Đồng thời, tiểu đoàn pháo binh 1 thuộc lữ đoàn pháo nòng dài cận vệ 30 của tập đoàn quân 47 do thiếu tá A.I. Diu-kin chỉ huy cũng bắn một loạt đạn vào thủ đô bọn phát-xít.
Ngày 21-4, các đơn vị thuộc các tập đoàn quân xung kích 3, xe tăng cận vệ 2, xung kích 5 và 47 đột nhập ngoại vi Béc-lanh rồi tiến vào nội thành chiến đấu. Tập đoàn quân 51, tập đoàn quân 1 Bộ đội Ba Lan và những binh đoàn khác nhanh chóng tiến tới sông En-bơ, ở đây họ sẽ gặp quân đội các nước Đồng minh.
Cơ quan chính trị các đơn vị tiến công thuộc tập đoàn quân 47 (chủ nhiệm chính trị là thiếu tướng M.Kh. Ka-la-ních), tập đoàn quân 61 (chủ nhiệm chính trị là thiếu tướng A.G. Cô-ti-cốp), tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 (chủ nhiệm chính trị là đại tá M.M. Lít-vi-ác) tập đoàn quân xung kích 3 (chủ nhiệm chính trị là đại tá Ph.Ya. Li-xít-xưn), tập đoàn quân xung kích 5 (chủ nhiệm chính trị là thiếu tướng E.E. Cô-sê-ép) đã tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị sâu rộng nhằm xây dựng tinh thần tiến công cao cho các chiến sĩ.
Để nhanh chóng đập tan phòng ngự địch ngay tại Béc-lanh, chúng tôi quyết định dùng 2 tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2 cùng với các tập đoàn quân cận vệ 8, xung kích 5, xung kích 3 và 47 vào việc đánh chiếm thành phố. Bằng một hỏa lực pháo cực mạnh như vũ bão của xe tăng, các đơn vị quân ta có nhiệm vụ phải nhanh chóng đè bẹp phòng ngự giặc ở Béc-lanh.
Ngày 23 – 24 tháng 4, bộ đội của Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 đã tiêu diệt bọn lính Hít-le trên những đường tiếp cận vào trung tâm Béc-lanh. Các đơn vị thuộc tập đoàn quân xe tăng 3 của Phương diện quân U-crai-na 1 bắt đầu chiến đấu ở phía nam thành phố.
Ngày 25-4, sư đoàn bộ binh 32 thuộc tập đoàn quân 47 và lữ đoàn xe tăng 65 của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 thuộc Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 tiến công ở phía tây Béc-lanh đã liên lạc được với quân đoàn cơ giới cận vệ 6 thuộc tập đoàn quân xe tăng cận vệ 4 của Phương diện quân U-crai-na 1 ở vùng Két-xin.
Như vậy là, quân địch đóng ở Béc-lanh với tổng số 40 vạn tên đã bị chia cắt thành hai bộ phận cô lập với nhau: bộ phận ở Béc-lanh và bộ phận ở Phrăng-cơ-phua - Gu-ben.
Đội dự bị của phương diện quân, tập đoàn quân 3 của tướng A.V. Goóc-ba-tốp bước vào chiến đấu đã phát triển tiến công dọc theo kênh đào Ô-đe và Sprê và lợi dụng kết quả của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 đã nhanh chóng tiến vào vùng Cơ-ních-xvu-xtéc-khau-đen. Từ đó, nó quay hẳn xuống phía nam và đông nam, đánh vào Tôi-pít, và ngày 25-4 đã liên lạc được với các đơn vị cánh phải của Phương diện quân U-crai-na 1 đang tiến công trên hướng tây bắc. Vòng vây bọn địch đóng ở đông nam Béc-lanh trong vùng Ven-đích - Búc-gôn đã khép chặt.
Những trận đánh trong nội thành Béc-lanh cũng phát triển có kết quả. Khi bộ đội phương diện quân đột nhập thủ đô nước Đức, thì phòng ngự trên một số khu vực ở đây đã yếu, vì rằng, bộ chỉ huy Đức đã rút một phần quân lấy trong số các đơn vị phòng thủ nội thành ra tăng cường cho quân phòng ngự tại các điểm cao Dê-ê-lốp. Quân ta nhanh chóng thâm nhập những vùng này và cơ động, đánh vu hồi vào những ổ đề kháng chủ yếu của quân địch.
Nhưng khi vào tới các khu vực ở giữa thành phố, thì sức chống cự của địch mạnh hẳn lên. Cả hai bên đều chiến đấu rất quyết liệt.
Phòng ngự quân địch thật là dày đặc. Bọn Đức lợi dụng mọi thuận lợi của chúng trong cuộc chiến đấu ở thành phố. Những ngôi nhà nhiều tầng, tường dày, và nhất là những hầm tránh bom, đạn đại bác, lại có giao thông hào ngầm liên lạc với nhau đã giữ một vai trò quan trọng. Lợi dụng những đường hầm ấy, bọn Đức có thể từ khu phố này vọt ra khu phố kia, và thậm chí còn có thể xuất hiện ở phía sau lưng bộ đội ta.
Khúc sông Sprê chạy ngang Béc-lanh có bờ cao xây bằng xi-măng là một vành đai bao quanh khu trụ sở các bộ ở giữa thành phố. Mỗi tòa nhà đều có những đơn vị bảo vệ ít nhất cỡ tiểu đoàn.
Quân ta tiến công liên tục ngày đêm, hết sức cố gắng để không cho địch tổ chức lại phòng ngự tại những điểm tựa mới. Đội hình chiến đấu các tập đoàn quân bố trí thành từng thê đội có chiều sâu. Thê đội 1 tiến công ban ngày, thê đội 2 - ban đêm.
Chọi với hệ thống phòng ngự Béc-lanh có chuẩn bị sẵn, chia thành từng phân khu, chi khu và khu vực phòng ngự một, chúng ta đã có một kế hoạch tiến công thật chi tiết.
Dải tiến công cho từng tập đoàn quân đánh vào Béc-lanh được qui định trước. Từng bộ đội, phân đội được giao nhiệm vụ cụ thể đối với từng đường phố, quảng trường, mục tiêu. Một cuộc chiến đấu có tổ chức chặt chẽ đã được chuẩn bị để đối phó với sự lộn xộn gần như không tránh được của các trận chiến đấu trong thành phố. Những mục tiêu chủ yếu trước khì bị chiếm đều bị hỏa lực bắn tiêu diệt. Những tổ và đội xung kích gồm các binh chủng đã giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh ở nội thành Béc-lanh.
Nhiệm vụ trung tâm của các trận đánh trong nội thành là không cho địch tập trung lực lượng thành những quả đấm, chia cắt lực lượng địch phòng thủ thành phố thành những ô riêng biệt và nhanh chóng tiêu diệt chúng.
Để giải quyết nhiệm vụ trọng yếu đó, đã có những tiền đề cần thiết. Một là, bộ đội ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực và khí tài đáng kể của địch trên những đường tiếp cận vào thành phố. Hai là, chúng ta đã nhanh chóng bao vây Béc-lanh, không cho quân Đức có khả năng cơ động lực lượng dự bị. Ba là, chính những đội dự bị ấy, vừa kéo tới Béc-lanh đã bị nhanh chóng đánh tan ngay.
Tất cả những sự việc ấy, mặc dầu có rất nhiều trở ngại, đã làm cho những trận đánh trên đường phố giảm xuống đến mức ít nhất, và tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội ta tiêu diệt phòng ngự địch trong nội thành.
Mỗi đợt tiến công của bộ binh và xe tăng đều được pháo binh và không quân hộ tống bằng những đòn tập kích hỏa lực vào tất cả các khu vực của mặt trận. Hơn 11.000 khẩu pháo các cỡ cứ từng thời gian nhất định lại nã đồng loạt. Từ ngày 21-4 đến hết ngày 2-5, đã bắn vào Béc-lanh gần 1,8 triệu phát đại bác. Tổng cộng hơn 36.000 tấn sắt thép đã trút lên đầu quân địch phòng ngự trong thành phố.
Sang đến ngày thứ 3 của cuộc chiến đấu ở Béc-lanh, chúng ta đã cho chở pháo chuyên dùng cho các pháo đài bằng đường sắt riêng chạy từ nhà ga Xi-lê-di đến để bắn vào giữa thành phố. Trọng lượng mỗi trái đạn này là nửa tấn.
Hệ thống phòng ngự Béc-lanh đã tan thành bụi khói.
“Đến ngày 22-4, - Cây-ten khai trong buổi lấy cung sau này, - đã rõ ràng là Béc-lanh sẽ thất thủ, nếu như không rút tất cả bộ đội ở sông En-bơ về chống lại cuộc tiến công của quân Nga. Sau cuộc hội nghị giữa Hít-le, Gơ-ben, cùng với tôi và I-ốt, đã có quyết định: tập đoàn quân 12 chỉ để lại đội hậu vệ nhỏ chống lại quân Mỹ, còn toàn bộ sẽ tiến công vào quân Nga đang bao vây Béc-lanh”.
I-ốt khai:
- Ngày 22-4, Gơ-ben hỏi tôi: có thể nào dùng quân sự để tránh cho Béc-lanh khỏi thất thủ không? Tôi trả lời, có thể được, nhưng chỉ trong trường hợp ta rút hết quân ở sông En-bơ về bảo vệ Béc-lanh. Theo gợi ý của Gơ-ben, tôi báo cáo những ý kiến của mình cho quốc trưởng, quốc trưởng đồng ý và chỉ thị cho Cây-ten và tôi cùng với bộ tham mưu ra nằm ngoài Béc-lanh, còn đích thân quốc trưởng lãnh đạo cuộc phản công.
Tư lệnh phòng thủ Béc-lanh, tướng Vây-linh trong buổi hỏi cung đã khai:
- Ngày 25-4, Hít-le tuyên bố với tôi: “Phải cải thiện tình hình (?). Tập đoàn quân 9 sẽ về Béc-lanh để cùng với tập đoàn quân 12 đánh lại đối phương. Sẽ đánh vào mặt trận phía nam quân Nga. Bộ đội của Stây-ne sẽ từ phía bắc rút về để tổ chức đột kích vào cánh phía bắc”.
Tất cả những kế hoạch ấy đều là điều mơ tưởng hão huyền của Hít-le và đồng bọn, những tên đã mất khả năng suy nghĩ một cách thực tế. Đêm rạng ngày 23-4, Cây-ten ra khỏi Béc-lanh, tới bộ tham mưu tập đoàn quân 12, để tổ chức hiệp đồng giữa tập đoàn quân 12 và tập đoàn quân 9. Song, ngày hôm sau, hắn đã không tài nào trở về thành phố được. Bộ đội Liên Xô đã đánh tan cả 2 tập đoàn quân ấy.
Hàng ngày có những bức điện do Hít-le ký truyền đi, nội dung tương tự như sau: “Tập đoàn quân 12 ở đâu?”; “Tại sao Ven-cơ không tiến công?”; “Séc-ne ở đâu?”; “Phải tiến công ngay?”; “Khi nào các người tiến công?”.
Vì thành tích của cán bộ, chiến sĩ tập đoàn xung kích 5 của thượng tướng N.E. Béc-da-rin hầu như chưa được báo chí ta nói đến, nên tôi muốn kể lại một số những cố gắng đầy khí phách anh hùng của tập đoàn quân. Những thành tích đó, một số do tôi tận mắt quan sát thấy, một số khác do tư lệnh tập đoàn quân và các binh đoàn cho biết.
Tập đoàn quân xung kích 5 nhận nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng là đánh chiếm khu cơ quan chính phủ nằm giữa thành phố, trong đó có văn phòng đế chính và tổng hành dinh của Hít-le. Vì vậy, ngoài những phương tiện được tăng cường từ trước, chúng tôi còn cho nó thêm quân đoàn xe tăng 11 của tướng I.I. Yu-súc.
Nhiệm vụ phức tạp nhất trong giai đoạn đầu là phải công phá nhà ga Xi-lê-di rất kiên cố và vượt sông Sprê có hai bờ cao xây bằng bê-tông.
Những đơn vị sau đây thuộc biên chế quân đoàn cận vệ 26 của tướng P.A. Phiếc-xốp và quân đoàn 32 của tướng Đ.X. Giê-rê-bin đã từ phía đông đột nhập đầu tiên vào Béc-lanh:
Sư đoàn cận vệ 94 (sư đoàn trưởng, tướng I.G. Ga-xpa-ri-an; chủ nhiệm chính trị, đại tá X.V. Cu-dốp-cốp);
Sư đoàn cận vệ 89 (sư đoàn trưởng, tướng M.P. Xê-ri-u-ghin; chủ nhiệm chính trị, đại tá P.Kh. Goóc-đi-en-cô);
Sư đoàn 266 (sư đoàn trưởng, đại tá X.M. Phô-mi-chen-cô; chủ nhiệm chính trị, đại tá V.I. Lô-ghi-nốp);
Sư đoàn cận vệ 60 (sư đoàn trưởng, tướng V.P. Xô-cô-lốp; chủ nhiệm chính trị, đại tá I.N. Ác-ta-mô-nốp);
Sư đoàn 416 (sư đoàn trưởng, tướng Đ.M. Xư-dơ-ra-nốp; chủ nhiệm chính trị, đại tá R.A. Mết-di-đốp);
Sư đoàn 295 (sư đoàn trưởng, tướng A.P. Đô-rô-phê-ép; chủ nhiệm chính trị, đại tá G.T. Lu-cô-nin).
Các chiến sĩ anh hùng của ta, chuyển sang phản công từ Mát-xcơ-va, Xta-lin-grát, Lê-mn-grát, Bắc Cáp-ca-dơ từ vòng cung Cuốc-xcơ, U-crai-na, Bê-lô-ru-xi, miền ven biển Ban-tích và từ những vùng khác trong nước, đã chờ đợi gần 4 năm trời giây phút lịch sử này. Và cái giờ ấy, giờ thanh toán lần chót với chủ nghĩa phát-xít đã điểm.
Bằng lời, khó mà diễn tả hết những niềm xúc động đã tràn ngập tâm hồn tất cả những người chiến sĩ Xô-viết chúng ta.
Thượng sĩ Va-xi-li-ép khẩu đội trưởng đại đội 6, trung đoàn pháo binh 832 sư đoàn bộ binh 266 đã nhớ lại như sau:
- Tối đến, đại đội pháo binh chúng tôi tiến lên điểm cao và trông thấy cái thành phố to lớn đó. Cảm giác vui sướng, hân hoan xâm chiếm tâm hồn chúng tôi: Đây là tuyến kháng cự cuối cùng của địch và giờ trả thù đã đến?... Đến nỗi chúng tôi không nhận thấy chiếc ô-tô con đang tiến lại gần và tư lệnh của chúng tôi, tướng Béc-da-rin bước ra khỏi xe. Chào hỏi xong, đồng chí hạ lệnh cho chỉ huy của chúng tôi: “nhằm quân phát-xít ở Béc-lanh, bắn!”.
Chắc chắn là chúng tôi chưa bao giờ lại bắn mạnh, bắn nhanh, bắn nhịp nhàng đến thế...
Chị cứu thương viết lên những viên đạn của đại đội “Vì Xta-lin-grát, Đôn-bát, U-crai-na, vì những trẻ em mồ côi, những phụ nữ góa chồng. Vì nước mắt của các bà mẹ!”.
Trong lúc công phá phần phía đông Béc-lanh, đặc biệt nổi lên trong các trận đánh là trung đoàn bộ binh cận vệ 286 thuộc sư đoàn cận vệ 94 (trung đoàn trưởng là trung tá A.N. Cráp-chen-cô) và trung đoàn bộ binh cận vê 283 cũng của sư đoàn ấy do trung tá A.A. I-nha-ti-ép chỉ huy.
Với khí phách anh hùng tập thể, các chiến sĩ xông lên phía trước. Nhận thấy, nếu cứ đánh vỗ mặt thì khó lòng chiếm nổi ngôi nhà xây kiên cố đang ngăn cản bước tiến quân của trung đoàn, A-lếch-xây Cu-dơ-nét-xốp, tổ trưởng Đảng một đại đội thuộc trung đoàn cận vệ 283, đã cùng với một tổ chiến sĩ bí mật vòng ra sau nhà và đánh tập hậu vào bọn phát-xít. Điểm tựa quân địch liền bị ta chiếm.
Thượng úy I.P. U-cra-in-xép thuộc trung đoàn cận vệ 283 đã nêu gương dũng cảm chưa từng thấy. Lúc xung phong vào một ngôi nhà, trận đánh chuyển thành đánh giáp lá cà. Xông xáo đánh địch, người sĩ quan gan dạ đó dã đâm chết 9 tên phát-xít. Noi gương của đồng chí, trung sĩ cận vệ Xtê-pan Grô-ba-dai cùng với tiểu đội của mình đã diệt mấy chục tên lính Hít-le.
Đại úy Ni-cô-lai Goóc-sê-lép, phụ trách công tác Đoàn của phòng chính trị, một cán bộ thanh niên xuất sắc của sư đoàn cận vệ 94, đã hy sinh anh dũng trong những trận chiến đấu ấy. Bằng những hành động gương mẫu trong chiến đấu của mình, đồng chí đã động viên, cổ vũ anh em chiến sĩ, đồng chí thường xuyên có mặt ở những nơi quyết định thắng lợi của trận đánh. Các chiến sĩ sư đoàn kính trọng và yêu mến đồng chí vì lòng dũng cảm và thái độ chăm sóc tận tình của đồng chí đối với các chiến sĩ và cán bộ.
Ngày 22-4, quân đoàn bộ binh 9 do Anh hùng Liên Xô, thiếu tướng I.P. Rô-xlưi chỉ huy đã giành được thắng lợi lớn nhất trong cuộc công phá Béc-lanh. Các chiến sĩ trong quân đoàn tiến công quyết hệt và chiếm được Các-xkhô, một phần Cô-pê-ních và khi tới sông Sprê, đã vượt sông trong hành tiến.
Các đồng chí có kể lại cho tôi về đội xung kích do trung tá Ph.U. Gan-kin, sư đoàn phó chỉ huy, một đơn vị chiến đấu nổi tiếng ở đấy. Trong trận tiến công công viên Tơ-rép-tốp sau khi chiếm được Các-xkhô, đội đã chiếm được trong hành tiến nhà máy điện Ru-men-bua lớn nhất Béc-lanh mà bọn Hít-le đang chuẩn bị cho phá hoại. Khi đội xung kích của Ph.U. Gan-kin đột nhập vào thì nhà máy điện vẫn đang chạy. Đơn vị đã tổ chức tháo gỡ mìn ngay. Đội đã quan hệ chặt chẽ với số công nhân còn lại và giao cho anh em phục vụ mặt kỹ thuật cho nhà máy điện.
Vì đã biểu lộ tinh thần dũng cảm, khí phách anh hùng và có đầu óc tổ chức trong khi chỉ hut, tất cả chỉ vài chục người. Có lẽ, lúc cuối cùng, bọn SS, số sĩ quan và bọn cầm quyền còn lại đều lẩn tránh trong thành phố theo các lối bí mật.
Chúng tôi tìm những đống lửa có thể là nơi đã thiêu xác Hít-le và Gơ-ben, nhưng không thấy. Thật ra chúng tôi đã thấy dấu vết các đống lửa nhưng kích thước của nó bé. Và lính Đức đã nấu nước ngay tại đấy rồi.
Chúng tôi kết thúc việc xem xét văn phòng khi được báo cáo đã phát hiện ở dưới hầm sáu đứa con của Gơ-ben. Thú thật là lúc đó tôi không đủ can đảm xuống nhìn những đứa trẻ bị bố mẹ giết. Cạnh hầm trú ẩn có xác hai vợ chồng Gơ-ben. Để nhận dạng, chúng tôi lôi bác sĩ Phri-se đến. Phri-se xác nhận đúng là chúng nó.
Những tình tiết nói trên làm tôi hoài nghi ý kiến về Hít-le tự sát; hơn nữa chúng tôi cũng không phát hiện được cả Boóc-man.
Lúc đó tôi cho rằng: đến phút cuối cùng không có hy vọng bên ngoài ứng cứu, Hít-le chẳng lẽ lại không bí mật chuồn đi sao?
Tôi đã phát biểu điều đó ở Béc-lanh trong cuộc họp báo với các phóng viên Liên Xô và nước ngoài.
Sau đó ít lâu, nhờ nghiên cứu điều tra, lấy cung của nhân viên y tế riêng của Hít-le,v.v... chúng tôi lại có thêm tin tức bổ sung, chính xác hơn rằng Hít-le đã tự sát. Tôi cho rằng, nghi ngờ về vụ tự sát của Hít-le là không có cơ sở.
Phần lớn bọn đầu sỏ phát-xít, trong đó có Gơ-rinh, Him-le, Cây-ten và I-ốt đều đã tranh thủ thời gian chuồn khỏi Béc-lanh, mỗi đứa một nơi.
Trước phút cuối cùng, chúng nó và Hít-le, như con bạc liều, vẫn hy vọng vào “con bài cầu may” có thể cứu phát-xít Đức và bản thân chúng. Ngày 30-4 và cả ngày 1-5 bọn tay chân Hít-le vẫn còn tính chuyện kéo dài thời gian thất bại hoàn toàn, cố điều đình để đưa chính phủ mới thành lập của Đi-ô-nít vào Béc-lanh nhằm giải quyết việc đầu hàng của Đức.
Tướng Crếp, nhà ngoại giao quân sự có kinh nghiệm, tìm hết cách lôi kéo cho được tướng V.I. Chui-cốp vào cuộc đàm phán dài ngày, nhưng cái trò ấy đã không đạt. Tôi đã nói rằng, V.Đ. Xô-cô-lốp-xki được ủy quyền đàm phán đã tuyên bố dứt khoát với Crếp: chỉ chấm dứt các hành động quân sự trong điều kiện quân phát-xít Đức đầu hàng Đồng minh hoàn toàn và không điều kiện. Tới đây, cuộc nói chuyện bị gián đoạn. Vì tay chân bọn Hít-le lúc đó không chấp nhận đầu hàng không điều kiện, quân ta đã nhận được lệnh: diệt hết quân địch ngay tức khắc.
Sáng ngày 3-5 tôi cùng với tư lệnh quân quản thành phố Béc-lanh N.E. Béc-da-rin, ủy viên hội đồng quân sự tập đoàn quân Ph.E. Bô-cốp, ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân K.Ph. Tê-lê-ghin cùng nhiều đồng chí đến xem xét nhà quốc hội Đức và những nơi giao chiến trong khu vực này. Đi cùng với chúng tôi để giải thích là con trai của Vin-hem Pích: Ác-tua Pích, người đã chiến đấu trong hàng ngũ Quân đội Liên Xô. Ác-tua Pích biết rõ Béc-lanh, nhờ thế chúng tôi dễ nghiên cứu các điều kiện trong đó quân ta phải chiến đấu.
Mỗi bước đi, mỗi hòn đất, mỗi viên đá ở đây nói lên rõ ràng hơn bất cứ lời văn nào rằng, trên những nẻo đường dẫn đến văn phòng đế chính và nhà quốc hội Đức, và ngay trong những tòa nhà ấy cuộc chiến đấu đã diễn ra thật là sống mái.
Nhà quốc hội - đó là một tòa nhà rất đồ sộ, tường dày, pháo cỡ trung bình bắn không thủng. Phải cần đến pháo hạng nặng. Mái nhà cong và các kiến trúc lớn ở các tầng trên giúp kẻ địch tập trung được hỏa lực nhiều tầng vào tất cả các đường dẫn đến nó.
Điều kiện chiến đấu ngay trong nhà quốc hội cũng rất gay go và phức tạp. Nó đòi hỏi không những các chiến sĩ phải dũng cảm mà còn phải rất linh hoạt, thận trọng, sáng suất, nhanh chóng cơ động từ chỗ nấp này sang chỗ nấp kia, bắn thật trúng vào kẻ địch. Các chiến sĩ của ta đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ ấy, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Các cột ở cửa nhà quốc hội và các tường đều đầy chữ viết của chiến sĩ ta. Trong những câu ngắn gọn, súc tích, trong những chữ ký giản đơn của các chiến sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh ta, đã toát lên niềm tự hào về những con người Xô-viết, về các Lực lượng vũ trang Xô-viết, về Tổ quốc và Đảng của Lê-nin.
Chúng tôi cũng viết lên đây mấy chữ của mình, do đó các chiến sĩ có mặt ở đây liền nhận ra chúng tôi và vây quanh chúng tôi thành một vòng dày đặc. Thế là phải đứng ở đây gần một giờ nói chuyện thân mật với anh em. Họ hỏi nhiều lắm. Nào bao giờ có thể về nhà, có để bộ đội ở lại chiếm đóng nước Đức không, chúng ta có đánh nhau với Nhật Bản không,v.v...
Ngày 7-5, Tổng tư lệnh gọi điện thoại đến Béc-lanh thông báo:
- Hôm nay ở thành phố Rê-im-xơ, bọn Đức đã ký văn bản đầu hàng không điều kiện. Gánh nặng chủ yếu của chiến tranh - người nói tiếp - đè trên vai nhân dân Liên Xô chứ không phải các nước Đồng minh, vì vậy việc đầu hàng phải được ký trước Bộ Tổng tư lệnh tất cả các nước khối Liên minh chống Hít-le chứ không phải chỉ trước bộ tổng chỉ huy quân Đồng minh.
I.V. Xta-lin tiếp:
- Tôi cũng không đồng ý với việc chúng không ký văn bản đầu hàng ở Béc-lanh, trung tâm của sự xâm lược phát-xít. Chúng tôi đã thống nhất với các nước Đồng minh coi việc ký văn bản ở Rê-im-xơ chỉ là bản đầu hàng sơ bộ. Ngày mai đại diện của bộ tổng chỉ huy Đức và đại diện của bộ tổng tư lệnh quân Đồng minh sẽ đến Béc-lanh. Đồng chí được cử làm đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô. Mai, Vư-sin-xki đến chỗ đồng chí. Khi văn bản được ký xong xuôi, Vư-sin-xki ở lại làm phó tư lệnh phụ trách chính trị. Đồng chí được cử làm Tổng chỉ huy khu vực chiếm đóng của Liên Xô trên đất Đức đồng thời sẽ là Tổng tư lệnh Quân đội Liên Xô chiếm đóng ở đó.
Rạng sáng ngày 8-5, A.Ya. Vư-sin-xki đến Béc-lanh. Đồng chí mang đến tất cả những văn kiện cần thiết về việc Đức đầu hàng và cho biết về những đại diện bộ tổng chỉ huy Đồng minh.
Từ sáng ngày 8-5, lần lượt tới Béc-lanh đủ các phóng viên, thông tin viên các báo chí lớn nhất trên thế giới và phóng viên nhiếp ảnh. Họ tới để ghi lại giờ phút lịch sử tuyên bố nước Đức phát-xít bị tiêu diệt trên pháp lý, xác nhận sự phá sản vĩnh viễn của tất cả các kế hoạch phát-xít, các tham vọng và hành động thù địch loài người của chúng.
Trưa hôm ấy tại sân bay Tem-pen-gốp đã có đủ đại diện bộ tổng chỉ huy quân Đồng minh gồm thống chế không quân Anh Ác-tua V. Tê-đe, tư lệnh không quân chiến lược Mỹ, tướng Xpa-át và tổng tư lệnh lục quân Pháp tướng đ-lát đờ Tát-xi-nhi.
Đón họ tại sân bay có vị phó của tôi, đại tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, tổng quân quản đầu tiên thành phố Béc-lanh, thượng tướng N.E. Bée-da-rin, ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân, trung tướng Ph.E. Bô-cốp và một số đại biểu Quân đội Liên Xô. Rời sân bay, các đại diện Đồng minh đi về Các-lơ-xkhoóc nơi sẽ tiếp nhận sự đầu hàng không điều kiện của bộ chỉ huy Đức.
Từ thành phố Phlen-xbua đến sân bay này, dưới sự giám sát của các sĩ quan Anh, còn có thống chế Cây-ten, thủy sư đô đốc Phri-đê-bua và thượng tướng không quân XSum được ủy quyền của Đi-ô-nít đến ký văn bản Đức đầu hàng không điều kiện.
Tại Các-lơ-xkhoóe thuộc khu đông Béc-lanh, trong tòa nhà hai tầng của nhà ăn cũ của trường công binh Đức, người ta chuẩn bị một gian phòng làm lễ ký văn bản đầu hàng.
Đến nơi, sau khi nghỉ một lát, tất cả đại diện bộ chỉ huy quân Đồng minh đều đến chỗ tôi để thống nhất các vấn đề thủ tục của sự kiện gây chấn động này.
Chúng tôi chưa kịp vào gian buồng dành để tọa đàm thì một dòng ký giả Mỹ, Anh đã cuồn cuộn đến; ngay tại bục đá họ đã tiến công tôi bằng bao nhiêu câu hỏi. Họ mang đến cho tôi một lá cờ hữu nghị của quân Đồng minh trên có thêu dòng chữ: Quân đội Mỹ kính chào Hồng quân.
Các ký giả vừa rời khỏi phòng họp thì chúng tôi bắt đầu thảo luận ngay một loạt vấn đề liên quan đến việc đầu hàng của bọn Hít-le.
Lúc ấy thống chế Cây-ten và những người cùng đi ngồi ở phòng khác.
Theo lời các sĩ quan của ta, Cây-ten và những người trong đoàn Đức rất ngượng. Nhìn những người xung quanh, Cây-ten nói:
- Đi qua các phố của Béc-lanh, tôi rất đỗi xúc động về mức độ bị phá hủy.
Những người của ta ở đây trả lời hắn:
- Ngài thống chế, thế ngài có xúc động khi theo lệnh ngài, người ta đã quét sạch hàng nghìn thành phố, làng mạc của Liên Xô và hàng triệu người của chúng tôi, trong đó có hàng nghìn trẻ con bị vùi dập dưới những đống gạch ngói không?
Cây-ten tái mặt, ngượng ngùng nhún vai, không trả lời.
Theo quy ước trước, đúng 23 giờ 45, Tê-đe, Xpa-át và Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi, đại diện bộ chỉ huy Đồng minh, A.Ya. Vư-sin-xki, K.Ph. Tê-lê-ghin, V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, v.v... tập trung trong phòng của tôi cạnh gian phòng bọn Đức sẽ ký văn bản đầu hàng không điều kiện.
Đúng 24 giờ chúng tôi vào phòng.
Mọi người ngồi vào bàn. Bàn ở cạnh tường, trên tường có quốc kỳ Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp.
Trong phòng, sau chiếc bàn dài phủ dạ xanh là các tướng lĩnh của Hồng quân mà quân đội của họ trong thời gian rất ngắn đã đánh tan quân phòng thủ Béc-lanh và đánh gục các thống chế phát-xít kiêu căng, các tên phát-xít đầu sỏ cùng toàn bộ nước Đức phát-xít. Ở đây cũng có mặt nhiều ký giả, phóng viên nhiếp ảnh Liên Xô và nước ngoài.
Tôi tuyên bố khai mạc:
- Chúng tôi, đại diện Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô và bộ tổng chỉ huy quân Đồng minh được ủy quyền của các chính phủ khối Liên minh chống Hít-le chấp nhận ở bộ chỉ huy quân sự Đức sự đầu hàng không điều kiện của nước Đức. Mời các đại diện của bộ tổng chỉ huy Đức vào phòng.
Mọi người quay nhìn về phía cửa ra vào, nơi sắp xuất hiện những kẻ đã từng tuyên bố hợm hĩnh với toàn thế giới về khả năng của mình tiêu diệt chớp nhoáng nước Pháp, nước Anh và sau đó chỉ một tháng rưỡi - hai tháng, cả Liên Xô.
Thống chế Cây-ten, cánh tay phải của Hít-le, là người đầu tiên từ từ bước qua ngưỡng cửa. Người hắn hơi cao, mặc lễ phục gọn gàng. Hắn giơ chiếc gậy thống chế lên chào đại biểu Bộ chỉ huy quân đội Liên Xô và quân Đồng minh.
Thượng tướng Stum vào tiếp theo. Người hắn vừa tầm, đôi mắt tỏ ra gian giảo nhưng bất lực. Vào cùng lúc đó là thủy sư đô đốc Phri-đê-bua, một người già trước tuổi.
Bọn Đức ngồi riêng một bàn đặt ở lối ra vào.
Thống chế Cây-ten từ từ ngồi xuống, ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi ở bàn đoàn chủ tịch. Ngồi cạnh Cây-ten là Stum và Phri-đê-bua. Các sĩ quan tùy tùng đứng sau ghế của chúng.
Tôi hướng về phía đoàn Đức:
- Trong tay các ông đã có đủ văn bản đầu hàng không điều kiện chưa, các ông đã nghiên cứu nó chưa và có được quyền ký văn bản ấy không?
Câu hỏi của tôi được thống chế không quân Tê-đe nhắc lại bằng tiếng Anh.
- Vâng, chúng tôi đã nghiên cứu và sẵn sàng ký - thống chế Cây-ten lúng búng trả lời và giao cho tôi thư của đô đốc Đi-ô-nít.
Trong thư nói rõ: Cây-ten, Khôn Phri-đê-bua và Stum được ủy quyền ký văn bản đầu hàng không điều kiện.
Đây hoàn toàn không phải là ông Cây-ten kiêu hãnh chấp nhận sự đầu hàng của nước Pháp bị chinh phục. Bây giờ trông hắn thật thảm hại, mặc dầu hắn vẫn cố giữ một chút tư thế nào đó.
Tôi đứng dậy nói:
- Yêu cầu đoàn Đức đến gần bàn. Các ông ký vào văn bản đầu hàng không điều kiện của nước Đức.
Cây-ten đứng dậy ngay, buồn rầu nhìn chúng tôi và cúi nhìn xuống, chậm rãi lấy chiếc gậy thống chế trên bàn, thẫn thờ bước đến bên bàn chúng tôi. Kính một mắt của hắn rơi và mắc vào sợi dây buộc giày. Hắn thẹn đỏ mặt.
Thượng tướng Stum, thủy sư đô đốc Khôn Phri-đê-bua và các sĩ quan Đức cũng đến cạnh bàn.
Cây-ten ngồi sát mép ghế và từ từ ký cả thảy năm bản. Stum và Phri-đê-bua cũng đều ký vào đấy.
Ký xong, Cây-ten rời bàn, đeo găng tay phải và định làm lóe lên một chút tư thế nhà binh, nhưng trông cũng chẳng ra sao cả.
Hắn lặng lẽ rời chiếc bàn.
Lúc 0 giờ 43 ngày 9-5 kết thúc việc ký văn bản đầu hàng không điều kiện. Tôi tuyên bố đoàn Đức rời khỏi phòng.
Cây ten, Phri-đê-bua, Stum nghiêng người đứng lên và cúi đầu đi ra. Các sĩ quan tham mưu của chúng theo sau.
Thay mặt Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô tôi thân mật chúc mừng mọi người có mặt nhân ngày chiến thắng này. Mọi người bắt tay chúc mừng nhau. Nhiều người vui mừng đến rớm nước mắt. Vây quanh tôi là những bạn chiến đấu: V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, M.X. Ma-li-nin, K.Ph. Tê-lê-ghin, N.A. An-ti-pen-cô, V.Ya. Côn-pắc-chi, V.I. Cu-dơ-nét-xốp, X.I. Bốc-đa-nốp, N.E. Béc-da-rin, Ph.E. Bô-cốp, P.A. Bê-lốp, A.V. Goóc-ba-tốp, v.v...
- Các bạn thân mến - tôi nói với các bạn chiến đấu, - tôi và các bạn có một niềm vinh dự lớn. Trong trận chiến đấu cuối cùng này, nhân dân, Đảng và Chính phủ tin tưởng giao cho chúng ta nhiệm vụ đưa quân đội Xô-viết vinh quang đến tiến công chiếm Béc-lanh. Quân đội Xô-viết, trong đó có các bạn, những người cầm quân tiến đánh Béc-lanh, đã đáp lại lòng tin đó một cách xứng đáng. Tiếc rằng nhiều người trong chúng ta không còn nữa. Nhưng chắc là các đồng chí đó của chúng ta cũng rất đỗi vui mừng trước thắng lợi hằng mong mỏi mà vì nó, họ đã hy sinh không chút nào quản ngại. Nhớ đến những người bạn gần gũi, những đồng chí chiến đấu không còn sống đến ngày phấn khởi này thì những người dù đã không chút sợ hãi quen nhìn thẳng vào cái chết, dù cố nén xót thương, cũng không cầm được nước mắt.
Lúc 0 giờ 50 ngày 9-5-1945 cuộc họp chấp nhận đầu hàng không điều kiện của quân đội Đức kết thúc.
Tiếp đó là tiệc mừng trong không khí rất hào hứng.
Mở đầu bữa tiệc, tôi nâng cốc mừng chiến thắng của khối Liên minh chống Hít-le. Tiếp đó thống chế Ác-tua Tê-đe phát biểu, tướng Pháp Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi, rồi tướng không quân Mỹ Xpa-át lần lượt lên bày tỏ ý kiến. Ai cũng nói đến cái làm day dứt dòng họ suốt những năm nặng nề ấy. Tôi nhớ họ nói nhiều, nói một cách hân hoan và tỏ ra hết sức mong muốn mãi mãi củng cố các mối quan hệ hữu nghị giữa các khối Liên minh chống phát-xít. Các tướng Liên Xô, những người Mỹ, người Pháp, người Anh đều nói như vậy, và tất cả chúng tôi đều muốn tin rằng trong tương lai nó sẽ như vậy.
Tiệc vui kết thúc bằng một buổi ca múa. Múa nhiều hơn cả là các tướng Liên Xô. Tôi cũng không kìm lòng được. Một cái gì đó trong thời thanh niên đã dấy lên trong tôi. Tôi đã tham gia với điệu múa dân gian “Nga”. Mọi người chia tay về nhà và ra sân bay giữa tiếng nổ vang của các loại vũ khí bắn mừng chiến thắng. Súng nổ khắp các khu phố Béc-lanh và cả ngoại thành. Súng nổ lên trời, những mảnh đạn rơi xuống đất. Và sáng ngày 9-5 việc đi lại không được an toàn tuyệt đối. Nhưng, nguy hiểm đó khác biết bao nhiêu so với những hiểm nghèo mà chúng tôi trải qua trong những năm dài chiến tranh!
Văn bản đầu hàng không điều kiện được gửi ngay sáng hôm ấy về Đại bản doanh.
Điều đầu tiên của văn bản ghi rõ:
“1. Trước Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân và đồng thời trước Bộ tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh Đồng minh, chúng tôi, ký tên dưới đây, nhân danh bộ tổng chỉ huy Đức, nhận rằng, tất cả các lực lượng vũ trang chúng tôi trên bộ, dưới biển và trên không, cũng như tất cả các lực lượng hiện đang dưới quyền bộ chỉ huy Đức chịu xin đầu hàng không điều kiện”.
Trưa đó có điện thoại báo cáo cho tôi biết rằng, tất cả văn kiện về việc đầu hàng của phát-xít Đức đều đã nhận được và đã đệ trình lên Tổng tư lệnh tối cao.
Thế là cuộc chiến tranh đẫm máu đã kết thúc. Phát-xít Đức và phe lũ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đối với nhân dân Liên Xô, con đường dẫn đến thắng lợi thật là gay go. Nó phải trả giá bằng hàng triệu sinh mạng. Và ngày nay mọi người trung thực trên thế giới nhìn về những ngày quá khứ đầy lo âu của Thế chiến thứ hai, với niềm thông cảm và kính trọng sâu sắc, đều nhớ đến những chiến sĩ chống phát-xít đã hy sinh để cho nhân loại được tự do, thoát khỏi ách nô lệ của bọn phát-xít.
Đảng Cộng sản và Chính phủ Liên Xô xuất phát từ nghĩa vụ quốc tế và tinh thần nhân đạo của mình, đã áp dụng mọi biện pháp kịp thời giải thích cho toàn thể chiến sĩ Xô-viết rõ, ai là thủ phạm thực sự của chiến tranh và tội ác, để mọi người không có ý nghĩ muốn trừng phạt nhân dân lao động Đức về những tội ác mà bọn phát-xít đã gây ra trên đất nước chúng ta. Đối với những người lao động Đức, người Xô-viết có một quan điểm rõ rệt: cần giúp họ nhận ra sai lầm, nhanh chóng gột sạch những tàn tích của chủ nghĩa quốc xã mà hòa mình vào gia đình chung của các dân tộc yêu chuộng tự do, và phương châm cao nhất của họ trong tương lai phải là hòa bình và dân chủ.
Ở Béc-lanh và vùng ven hãy còn chiến sự, nhưng Bộ chỉ huy Quân đội Liên Xô trên cơ sở nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ đã bắt tay vào tổ chức đời sống bình thường cho nhân dân Béc-lanh.
Cơ sở của việc thiết lập và hoạt động của các cơ quan quyền lực quân sự và dân sự là mệnh lệnh số 5 ngày 23-4-1945 của Hội đồng quân sự Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1. Mệnh lệnh ghi rằng:
“Toàn bộ quyền cai quản trên lãnh thổ Đức thuộc về Hồng quân do Bộ chỉ huy quân sự thực hiện thông qua các cấp chỉ huy quân quản của các thành phố và các khu vực.
Trong từng thành phố đều có chỉ huy quân quản. Cơ quan chấp hành thì gồm người địa phương: trong các thành phố, cử thị trưởng, trong các thị trấn, các xã thì cử trưởng phố, xã trưởng chịu trách nhiệm trước chỉ huy quân quản về việc động viên, tổ chức nhân dân thi hành tất cả các mệnh lệnh và chỉ thị...”
Trên cơ sở mệnh lệnh ấy, ngày 28-4-1945, vị tư lệuân xung kích 5, hiệp đồng chặt chẽ với các tập đoàn quân xung kích 3 và xe tăng cận vệ 2, tập đoàn quân không quân 16 và những đơn vị khác đã tiến công thắng lợi ở giữa Béc-lanh. Thắng lợi nhanh chóng trong những trận đánh ở đây là do hiệp đồng chặt chẽ giữa tất cả các tập đoàn quân tấn công.
Ở đây tôi muốn biểu dương thành tích xuất cắc trong công tác của tướng A.M. Cu-sép, tham mưu trưởng tập đoàn quân 5, tướng X.P. Pê-tơ-rốp, tham mưu phó, A.Đ. Xi-nha-ép, chủ nhiệm trinh sát, V.K. Pô-pốp, phụ trách công tác Đảng ở phòng tham mưu, V.Ph. Pha-lin, chủ nhiệm thông tin và các cán bộ tham mưu khác.
Thế là tấn thảm kịch đã gần kết thúc.
Giới lãnh đạo Hít-le đã hy vọng vào những gì trong giờ phút hiểm nghèo đối với nước Đức này.
Cây-ten trong buổi hỏi cung, đã khai: “Ngay từ mùa hè năm 1944, nước Đức tiến hành chiến tranh để tranh thủ thời gian với hy vọng rằng, trong một cuộc chiến tranh mà cả hai bên đều gồm những quốc gia khác nhau, quân đội khác nhau, tướng soái khác nhau, và hạm đội khác nhau, thì bất kỳ lúc nào trong vấn đề phối hợp giữa các lực lượng khác nhau đó cũng có thể nổ ra những sự biến đổi bất ngờ. Như vậy là chúng tôi tiến hành một cuộc chiến tranh với lòng mong đợi những sự biến sẽ xảy ra, nhưng lại không xảy ra”.
Lúc Béc-lanh sắp thất thủ, không thể trông chờ vào những sự biến ấy, Hít-le đã tung ra khẩu hiệu: “Trao Béc-lanh cho quân Mỹ và Anh tốt hơn là để nó lọt vào tay quân Nga”.
Tù binh Đức bắt được ở Béc-lanh khai: “Các sĩ quan đã đồng ý dốc mọi cố gắng làm cho quân Nga không chiếm nổi Béc-lanh. Nếu như phải đầu hàng, thì chỉ đầu hàng quân Mỹ”.
Trận đánh ở Béc-lanh đã lên đến tột đinh. Tất cả chúng tôi muốn kết liễu số phận bọn địch đóng ở Béc-lanh vào ngày 1-5. Song, đến lúc sắp chết, chúng vẫn còn lồng lộn, điên cuồng kháng cự, chúng trụ lại, bám từng ngôi nhà, từng căn hầm, từng tầng gác, mái nhà.
Bất chấp sự chống cự điên cuồng ấy, các chiến sĩ Xô-viết đã đánh chiếm hết khu phố này đến khu phố khác. Bộ đội của tướng V.I. Cu dơ-nét-xốp, N.E. Béc-da-rin, X.I. Bốc-da-nốp, M.E. Ca-tu-cốp, và V.I. Chui-cốp mỗi lúc càng tiến gần đến trung tâm Béc-lanh.
Ngày 30-4-1945 còn mãi mãi được ghi nhớ trong ký ức nhân dân Liên Xô và trong lịch sử cuộc chiến tranh với nước Đức phát-xít.
Ngày hôm ấy, hồi 14 giờ 25, các đơn vị của tập đoàn quân xung kích 3 (tư lệnh là tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp; ủy viên hội đồng quân sự - tướng A.I. Lít-vi-nốp) đã chiếm được bộ phận chủ yếu của tòa nhà quốc hội Đức.
Trận đánh chiếm nhà quốc hội là một trận đẫm máu. Án ngữ trên các đường tiếp cận tòa nhà này là một hệ thống các ngôi nhà kiên cố được tổ chức thành tiểu khu số 9 của hệ thống phòng thủ Béc-lanh. Quân phòng ngự là những đơn vị SS tổng số có khoảng 6.000 người, được trang bị xe tăng, pháo tiến công và rất nhiều pháo binh.
Trực tiếp tiến công vào tòa nhà quốc hội là sư đoàn bộ binh I-đrít-xcơ 150 (thuộc tập đoàn quân xung kích 3) do một vị tướng dày kinh nghiệm, Anh hùng Liên Xô V.M. Sa-ti-lốp chỉ huy. Sư đoàn 150 được lữ đoàn xe tăng 23 và những đơn vị khác trong tập đoàn quân yểm hộ.
Tư lệnh tập đoàn quân V.I. Cu-dơ-nét-xốp đích thân theo dõi trận chiến đấu lịch sử quan trọng ấy. Đồng chí luôn luôn giữ liên lạc với tôi
Khoảng 15 giờ ngày 30-4, đồng chí gọi điện thoại đến sở chỉ huy sung sướng báo tin cho tôi:
- Báo cáo đồng chí nguyên soái. Cờ đỏ đã cắm trên nhà quốc hội! Hoan hô.
- Va-xi-li I-va-nô-vích thân mến, - tôi trả lời - chân thành chúc mừng cậu và tất cả anh em trong đơn vị nhân dịp chiến thắng lừng lẫy này. Nhân dân Liên Xô sẽ không bao giờ quên chiến công lịch sử ấy của bộ đội. Tình hình trong nhà quốc hội ra sao?
V.I. Cu dơ-nét-xốp báo cáo:
- Còn chiến đấu ở một số khu vực trên gác thượng và trong các hầm ở tầng dưới.
Đến chiều mồng 1-5, các đơn vị Hít-le còn lại khoảng 1.500 tên, không đủ sức chống cự nữa đã ra đầu hàng. Địch bị hoàn toàn quét sạch khỏi nhà quốc hội.
Đại tá Phê-đo Mát-vây-ê-vích Din-chen-cô, một trung đoàn trưởng của sư đoàn 150 được cử phụ trách quân quản nhà quốc hội.
Cuộc chiến đấu đánh chiếm Béc-lanh là một trận sống mái.
Người Xô-viết chúng ta từ Tổ quốc Mẹ hiền, Mát-xcơ-va, các thành phố anh hùng Xta-lin-grát, Lê-nin-grát, từ U-crai-na, Bê-lô-ru-xi, từ những nước Cộng hòa miền ven biển Ban-tích, Da-cáp-ca-dơ và những nước Cộng hòa khác đã đến đây để kết thúc cuộc chiến tranh chính nghĩa mà họ tiến hành nhằm chống lại những kẻ đã xâm phạm nền tự do của Tổ quốc. Nhiều người còn đem trên mình vết thương chưa lành của những trận chiến đấu trước: Anh em bị thương không chịu rời trận địa. Tất cả đều khát khao tiến về phía trước. Mọi người đều thấy như chưa trải qua 4 năm chiến tranh nặng nề, họ cảm thấy còn đủ sức và đủ tinh thần để hoàn thành một công việc vĩ đại - cắm ngọn cờ chiến thắng tại Béc-lanh.
Tinh thần hăng hái và lòng dũng cảm thể hiện rõ trong mọi hành động của chiến sĩ ta. Sự trường thành của quân đội ta trong những năm chiến tranh được phản ánh đầy đủ trong các trận đánh ở Béc-lanh. Chiến sĩ và cán bộ đã tỏ ra chín chắn, kiên quyết và vô cùng can đảm. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Đảng ta đã đào tạo họ thành những người chiến sĩ dày kinh nghiệm, hiểu biết thông thạo công việc của mình, mà kinh nghiệm và tri thức là miếng đất tốt nhất để phát triển toàn diện nghệ thuật quân sự.
Biết bao ý nghĩ đã xuất hiện trong những giờ phút sung sướng ấy! Nào là chiến dịch Mát-xcơ-va vô cùng vất vả nặng nề, ở đó các chiến sĩ ta đã quyết tử không cho quân giặc tới được Thủ đô. Nào là Lê-nin-grát bị tàn phá nhưng không hề khuất phục, và Lê-nin-grát vẻ vang đứng vững trong thời kì bị vây hãm cực kì khó khăn gian khổ. Đâu là Xê-va-xtô-pôn anh dũng chống lại đội quân tinh nhuệ của Hít-le, đâu là thắng lợi huy hoàng ở vòng cung Cuốc-xcơ, và còn hàng ngàn làng mạc thành phố bị phá hủy và biết bao gương hy sinh của nhân dân Xô-viết đã anh dũng đứng vững trong những năm tháng khắc nghiệt.
Và cuối cùng là cái quan trọng nhất, vì nó mà nhân dân ta phải chịu đựng những đau khổ cực kì to lớn: nước Đức phát-xít đã hoàn toàn bị tiêu diệt, sự nghiệp chân chính của chúng ta đã hoàn toàn thắng lợi.
Mồng 1-5, trong tay quân Đức chỉ có Tia-gác-ten và khu cơ quan chính phủ. Văn phòng đế chính nằm ở đây và ngoài sân nó là chiếc hầm ngầm - tổng hành dinh của Hít-le.
Ngày hôm ấy Mác-tin Boóc-man ghi trong nhật kí của hắn:
“Văn phòng đế chính đã trở thành đống gạch vụn”.
---
[1] Ph.X. Pô-ghiu - Bộ chỉ huy tối cao.
[2] Tài liệu của tòa án Nu-rem-be.
[3] dinh quốc trưởng - ND
[4] Tức phương diện quân U-crai-na 1 – ND.
[5] Tức phương diện quân Bê-lô-ru-xi 2 – ND.
[6] V.X. Vi-snép-xki. Toàn tập, t. 4, tr. 853.