Cấu trúc của một nhà nước phát xít
Phần I(b)

2- Ðảng phát xít - "Nhà nước của nhà nước".
Quá trình sát nhập giữa đảng và nhà nước diễn ra sâu sắc và triệt để đến mức, sau khi kết thúc, không còn có thể phân biệt được đảng bắt đầu từ đâu và nhà nước kết thúc ở đâu. Các tổ chức nhà nước mang trong mình linh hồn đảng, còn những tổ chức đảng thì mang tính chất nhà nước, quốc gia và cảnh sát quan liêu. Như C.M. Xlobod đã nhận xét, đảng Phát Xít Italia đã phải trả giá quá đắt cho mối quan hệ thân thuộc với nhà nước. Nó đánh mất cái vỏ ngoài của một đảng chính trị và trở thành một tổ chức quan liêu sơ đẳng: "Ðồng thời với quá trình phát xít hóa bộ máy nhà nước là quá trình nhà nước hóa đảng phát xít, biến đảng này thành một tổ chức nửa vời, ngày càng dựa vào bộ máy quan liêu và lực lượng vũ trang như chính quyền nhà nước."
Nhưng không phụ thuộc vào việc sát nhập này, đảng phát xít vẫn giữ vai trò là đảng độc quyền, tự hình thành như cơ quan cao cấp, đứng trên nhà nước. Như vậy đảng phát xít mang ý nghĩa "nhà nước của nhà nước" chỉ huy và kiểm soát nhà nước. Hitler đã từng hài lòng tuyên bố: "Không phải nhà nước ban hành sắc lệnh cho chúng ta, mà là chúng ta ban hành sắc lệnh cho nhà nước." Rõ ràng nhà nước không có quyền điều hành đảng phát xít.
Tại đại hội đảng ở Niurnberg vào năm 1937, P. Lai đã nêu thành công thức về mối quan hệ giữa Ðảng Công Nhân Quốc Xã và nhà nước như sau: "Ðảng quyết định, còn Nhà nước thực hiện các biện pháp về hành chính."
Với sắc lệnh về các công sở dân sự Ðức ban hành ngày 26.1.1937, Ðảng Quốc Xã có quyền gián tiếp kiểm tra mọi công việc cuả các cơ quan nhà nước. Và, từ ngày 30.9.1938, các cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng được quyền kiểm tra công tác của các tổ chức tòa án. Ðiều này đã được thực hiện ngay từ những ngày đầu của chính quyền quốc xã và giờ đây được pháp luật hóa.
 
A. Ðảng phát xít đứng trên pháp luật nhà nước.
Trong chế độ độc tài, vai trò đặc biệt của đảng phát xít không chỉ được thể hiện ở sự chuyên chính độc tài và quyển kiểm soát nhà nước, mà còn ở chỗ mọi luật lệ nhà nước không có hiệu lực đối với đảng và các đảng viên. Trong chế độ quốc xã, các đảng viên không thể bị xét xử tại các tòa án dân sự thông thường. Khi phạm tội, trước hết đảng viên cần phải được "Tòa án Ðảng" khai trừ khỏi Ðảng, sau đó mới chuyển giao cho tòa án quốc gia xét xử như một tội phạm thông thường của Ðế Chế Ðệ Tam. Các thành viên SS cũng không thể bị xét xử ở những tòa án quân sự, mà phải xử theo luật của Bộ Chỉ Huy SS.
Theo Chỉ Thị được Phó Thống Lĩnh ban hành ngày 17.2.1934, các tòa án đảng "có mục đích giữ gìn sự trong sạch cho đảng và các đảng viên, và nếu cần thiết có thể gạt bỏ công khai những ý kiến phản kháng của các đảng viên... Các tòa án đảng chỉ tuân theo sự chỉ đạo quốc xã và không thuộc quyền bất cứ lãnh tụ chính trị nào; chúng chỉ thuộc quyền của Thống Lĩnh.
Nói cách khác, những đảng viên Ðảng Công Nhân Quốc Xã và thành viên SS được đặt trên các tòa án dân sự, không phụ thuộc vào chúng và có thể thay đổi những văn bản tuyên án chúng. Hiện tượng phổ biến là xóa án cho bọn tội phạm có công lao với chế độ, hoặc các bản tuyên án bị những cơ sở đảng cao cấp sửa đổi.
Những kẻ giết người Do Thái năm 1938 được tha bổng, với lời biện bạch: "Trong trường hợp giết người Do Thái có chủ ý hay không có chủ ý thì vẫn bị xem là không có tội. Tận đáy lòng mình, những người này đã tin tưởng rằng bằng hành động đó họ đã thể hiện nguyện vọng phục vụ Thống Lĩnh và Ðảng."
Những đảng viên quốc xã phạm tội đều được ân xá: "Vào năm 1935, một số cai ngục trong trại tập trung cải huấn Hohstain, bị buộc tội đối xử tàn nhẫn với tù nhân. Những cán bộ quốc xã cao cấp đã thử gây áp lực với các quan tòa, nhưng sau khi xem xét, Hitler đã tha bổng tất cả..."
Việc đình chỉ không xét xử những tội ác do các thành viên SS, SA, và Zetapo gây ra được biện bạch như sau: "Vì những hành vi này không phát xuất từ những mục đích thấp hèn, mà ngược lại, chúng thể hiện lòng yêu nước cao cả và giúp cho sự phát triển của nhà nước quốc xã, việc đình chỉ vụ án không nên xem như những trường hợp bình thường trong khi vận dụng pháp luật."
Những vụ giết người, cướp của và phá hoại trong thời gian các chiến dịch bài trừ Do Thái vào năm 1938, được Zetapo, các tổ chức đảng, các Bí Thư Khu ủy, và các lãnh đạo chính trị cao cấp điều tra và kết luận như sau: "Trong các trường hợp này, khi người Do Thái bị giết không có lệnh hoặc theo lệnh, đều không phát hiện thấy những nguyên nhân xuất phát từ bản tính man dạị" Và mục đích của quá trình điều tra, do "Tòa an Ðảng" tiến hành này là nhằm: "Ðể bảo vệ những đồng chí đảng viên đã hành động xuất phát từ những tình cảm và tư tưởng quốc xã cao đẹp nhất."
Trong đoạn trích dẫn sau cùng này thể hiện rõ ràng tính chất đặc biệt cơ bản về luật lệ trong chế độ độc tài: đảng phát xít đứng trên mọi luật lệ nhà nước, các thành viên và tổ chức đảng không bị pháp luật ràng buộc. ở đây, tòa án không có gì khác hơn là cơ quan trực thuộc của đảng phát xít, có nghĩa vụ phải thi hành nguyện vọng của đảng: thứ nhất, các quan tòa đều là đảng viên; thứ hai, tòa án không có cơ quan ấn loát độc lập với nhà nước và đảng.
Tất nhiên đôi khi, trong những tổ chức "Tư Pháp" có thể có cả những thành viên không đảng phái, song điều đó hoàn toàn không làm thay đổi vấn đề. Những người như thế thường còn tỏ ra cố gắng hơn bọn quốc xã chính hiệu, và về sự cống hiến của họ, đối với chế độ, được thể hiện bằng những hành động còn dã man hơn.
Một "cán bộ lãnh đạo đảng có trọng trách" (Bí thư Khu Ủy hoặc Bí Thư Tỉnh Ủy) có thể gây ảnh hưởng hay đình chỉ vụ án, đặc biệt là sau năm 1938. Nếu bị can là đảng viên phát xít có nhiều thành tích đối với đảng, và nếu lãnh đạo đảng thấy bị can cần phải được ân xá, họ thường chỉ đọc lời tuyên án cho quan tòa qua điện thoại. ở đây, Tính Khách Quan không có gì khác hơn là "ảo ảnh của quyền tự do hình thức." Trước tiên người làm công tác pháp lý cần phải ghi nhớ lời của Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp Cerl: "ảo ảnh của quyền tự do hình thức là, các đồ đệ của công lý cần phải khách quan. Giờ đây chúng ta đã chạm đến cội nguồn của sự khác biệt giữa dân tộc và pháp lý, và về sự khác biệt này, bao giờ pháp lý cũng có sai lầm. Bởi vì, thế nào là khách quan trong cuộc đấu tranh sinh tồn của dân tộc?
Vì lý do này, ta cần tự hiểu rằng pháp lý của một dân tộc đang đấu tranh giữa cái sống và cái chết, không thể dựa trên tính khách quan chết chóc. Mọi luận điểm của quan tòa, công tố viên và luật sư cần phải được xác định triệt để trên một quan điểm.
Không có khách quan vô nguyên tắc- dấu hiệu của trì trệ, xa lạ và khác biệt với dân tộc, mọi biểu hiện của tập thể và cá nhân cần phải phục vụ cho những hy vọng của nhân dân và dân tộc."
Ðây là những nguyên tắc cơ bản của pháp lý tại các nhà nước phát xít - Tính Khách Quan tội lỗi và sự biến đổi của nó dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng phát xít.
Ðoạn trích dẫn trên, dù sao, cũng mới phản ánh vấn đề này trong giai đoạn đầu chế độ quốc xã, khi nguyên tắc khách quan, trong nhận thức đa phần của bọn quốc xã, gắn liền với yêu cầu "lịch sử", với những mục tiêu vĩ đại của "cuộc cách mạng." Vào những ngày cuối cùng của Ðế Chế, yêu cầu tối thiểu này đối với mọi cơ quan tư pháp càng trở nên quỷ quyệt và tráo trở. Trong lời giới thiệu cho tạp chí Dax Raix (tạp chí lý luận cuả Gobelx) vào năm 1942 có viết: "Người quan tòa càng thấm nhuần tư tưởng quốc xã bao nhiêu, thì càng tuyên án khách quan và công bằng bấy nhiêu."
B - Tư tưởng của đảng quốc xã trở thành hệ tư tưởng chính thức của nhà nước.
Thật ngây thơ nếu nghĩ rằng sự thống nhất của đảng phát xít và nhà nước chỉ dừng lại ở việc chỉ sát nhập bộ máy đảng và nhà nước. Thực chất, sự thống nhất này mang nội dung sâu rộng hơn nhiều và bao hàm cả lĩnh vực tư tưởng. Tư tưởng của đảng Quốc Xã, nhằm xây dựng nhà nước theo kiểu đồng mẫu đồng dạng với nó, được chuyển giao cho nhà nước và trở thành tư tưởng quốc gia. Ðiều này cũng giống như lá cờ của Ðảng Công Nhân Quốc Xã trở thành quốc kỳ nước Ðức.
Ðảng Quốc Xã là một đảng độc quyền. Vì vậy tư tưởng của nó không có gì khác hơn là tư tưởng độc quyền, hủy diệt mọi sự cạnh tranh của những quan điểm và những tư tưởng khác nó. Và sự thống trị hợp pháp của chủ nghĩa phát xít vè tư tưởng không tránh khỏi chuyển thành cuồng tín và mê muội.
Hitler tuyên bố: "Khi theo đuổi những mục đích đã định, cần phải tiêu diệt những kẻ cản trở." Gobelx cũng khai phủ nhận mọi tư duy khác với tư duy quốc xã: "Những người quốc xã chúng ta khẳng định, chúng ta có quyền. Do đó chúng ta không thể cho phép kẻ nào đó tự xem là đúng đắn, bởi vì điều đó có nghĩa: người này phải là quốc xã, và nếu người đó không phải là người quốc xã, thì không thể đúng."
Ðể hủy diệt mọi tư tưởng khác và thiết lập sự thống trị tuyệt đối cho hệ tư tưởng cuả mình, nhà nước phát xít xử dụng những công cụ khủng bố đặc biệt. Nó dùng cả khủng bố thể chất và trại tập trung cải huấn. Ðây là dấu hiệu cơ bản của chủ nghĩa phát xít trong tư tưởng. Chỉ ở nhà nước phát xít, mới tồn tại hiện tượng có một không hai trong thế kỷ 20 - giam người ở trong trại tập trung cải huấn chỉ vì người ta nghĩ khác nhà nước phát xít, thậm chí kể cả khi người ta không thể hiện công khai điều đó (cái gọi là "bắt giam triệt để"). Nhà nước độc tài không thể cho phép những công dân "suy nghĩ khác biệt" được tồn tại tự do (nghĩa là ở ngoài trại tập trung). Trên quan diểm nhà nước, nhằm đạt được sự thống trị tư tưởng triệt để, những người này là mối đe dọa thực tế, bởi vì họ tung ra những dư luận có hại, làm "ảnh hưởng đến tinh thần" của nhân dân, làm mai một sự thống nhất chính trị của "nhân dân", làm lung lay niềm tin cuả họ đối với sự đúng đắn cuả sự nghiệp phát xít và sự thông thái của lãnh tụ.
Chúng ta không nên quên rằng nhà nước phát xít là một hệ thống tập trung liên tục và nghiêm ngặt, mọi bộ phận riêng lẻ liên quan chặt chẽ với nhau, và không thể chấp nhận những lệch pha trong quá trình hoạt động. Chỉ cần một chi tiết không hài hòa với hệ thống có thể dẫn đến sự đổ vỡ tổng thể. Thí dụ, chỉ cần có sự tự do in ấn cũng đủ để cho hệ tư tưởng phát xít phá sản, hay tự do bầu cử sẽ phá vỡ toàn bộ hệ thống chính trị. Ðôi khi một phiên tòa công khai cũng làm lung lay đáng kể nền móng của chế độ này.
Vì sự ràng buộc và phụ thuộc tương hỗ đặc biệt nghiêm ngặt giữa các bộ phận, chế độ độc tài phát xít trở nên rất mẫn cảm đối với cả những biến đổi nhỏ nhất. Vì vậy nó phản ứng một cách tàn bạo. Ðây là lý do tại sao chế độ độc tài phát xít không thể chấp nhận và theo dõi gắt gao những người có suy nghĩ và hành động tự do. Ðây cũng là nguyên nhân dẫn đến lòng căm
thù man dại đối với tư tưởng tự do của nền dân chủ tư sản truyền thống được thể hiện trong tất cả những tác phẩm và công trình của các nhà tư tưởng và lý thuyết phát xít. Chế độ phát xít căm thù nền dân chủ tư sản vì nó chấp nhận cái mà đối với chế độ phát xít là vô cùng nguy hiểm: sự khoan nhượng.
Nhà nước phát xít có thể không do bọn phân biệt chủng tộc hay bọn bài Do Thái lãnh đạo, như ở Italia và một vài dạng nhà nước phát xít khác - đó không phải là điều bắt buộc - nhưng nó cần phải căm thù tính đa quan điểm và sự khoan nhượng của chủ nghĩa tự do như một tư tưởng. Thiếu cái đó, nó không thể tồn tại.
Và giống như là điều vẫn thường xảy ra với một đảng chính trị bị tan rã trong điều kiện bị khủng bố gắt gao, một bộ phận các thủ lĩnh và đảng viên xã hội dân chủ đi theo chính quyền, cố gắng phục vụ cho nó hòng chiếm lòng tin và sửa chữa "sai lầm" quá khứ; số khác vẫn bảo vệ quan điểm chính trị của mình, bị chết mỏi mòn trong các trại tập trung cải huấn và nhà tù hoặc phải sống tị nạn ở nước ngoài.
Nhưng điều quan trọng trong trường hợp này là, mặc dù đã tỏ rõ sự đầu hàng, sẵn sàng phục vụ chế độ mới, sẵn sàng tuân theo và phục vụ mọi yêu cầu của nó, Ðảng Xã Hội Dân Chủ Ðức vẫn không tránh khỏi bị hủy diệt. Ðiều đó chứng tỏ, ngay từ đầu bọn phát xít đã có tham vọng giành quyền thống soái chính trị tuyệt đối cho đảng mình, rằng mục đích của chúng là cơ chế một đảng trị, chứ không phải là liên minh chính trị.
II- Sát nhập giữa đảng và nhà nước phát xít
Sự thống nhất toàn diện của đảng và nhà nước là bước đầu quan trọng thứ hai trong quá trình xây dựng chế độ độc tài của chủ nghĩa phát xít. Nó liên quan chặt chẽ đến bước thứ nhất- thiết lập cơ chế một đảng trị - đến mức có thể xem như sự tiếp diễn của bước này. Không thể khẳng định triệt để sự thống soái chính trị của một đảng phát xít, nếu sau đó đảng này không tự đồng nhất với nhà nước, không biến nhà nước thành sở hữu của riêng mình hay ít ra là thành công cụ thống soái. Lúc đó đảng này có thể chia quyền lợi cho các đảng viên của mình dưới các hình thức công sở nhà nước, trọng trách nhà nước, và khiến họ quan tâm một cách vật chất đến sự thống nhất giữa đảng và nhà nước. Ðây là con đường chắc chắn nhất để sát nhập đảng và nhà nước.
Bọn quốc xã đã nhận thức được giá trị quyết định của nguyên tắc này ngay từ năm đầu tiên nắm chính quyền. Sau khi tiến hành rất nhiều phương cách theo hướng đó, ngày 1.12.1933, nguyên tắc này được củng cố bằng điều luật đặc biệt Sự Cần Thiết Phải Thống Nhất Ðảng Và Nhà Nước, trong đó tuyên bố: "Sau thắng lợi của cuộc cách mạng quốc xã, Ðảng Công Nhân Quốc Xã trở thành người giữ trọng trách nhà nước Ðức và liên quan mật thiết với nhà nước."
1- Sát nhập giữa bộ máy lãnh đạo nhà nước và bộ máy lãnh đạo đảng
Thực chất, việc thống nhất giữa đảng và nhà nước đã được thực hiện ngấm ngầm từ phía dưới bằng cách cho các đảng viên nắm giữ những vị trí và trọng trách nhà nước.
Kết quả là đảng biến thành nhà nước và ngược lạị Các thủ lĩnh phát xít trở thành những cán bộ nhà nước cao cấp. Hitler vừa là Thống Lĩnh- theo trọng trách đảng, vừa là Quốc Trưởng- theo trọng trách nhà nước; Goring vừa là Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Bộ trưởng - Toàn quyền Pruxia - theo trọng trách nhà nước, vừa là Thủ lĩnh SA và SS theo trọng trách đảng; Gobelx vừa là thủ lĩnh trong vùng Berlin, phụ trách tuyên truyền- theo trọng trách đảng, vừa là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, thành viên Hội Ðồng Quốc Phòng Tối Cao- theo trọng trách nhà nước; Himler trong đảng là Uy Viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao về Bảo Tồn Ðặc Tính Dân Tộc Ðức, thủ lĩnh SS, trong nhà nước là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, thành viên Hội Ðồng Quốc Phòng tối Cao; Ạ Rozenberg trong đảng là Uy Viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao về Giáo Dục Tư Tưởng cho đảng viên, trong nhà nước- Bộ trưởng Không Bộ; R. Hex trong đảng là - Phó Thống Lĩnh, Uy Viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao, trong nhà nước- Bộ Trưởng Không Bộ, thành viên Hội Ðồng Quốc Phòng Tối Cao, v.v...
Sát nhập vị trí lãnh đạo của nhà nước và đảng được thực hiện xuống một cơ sở. Tất cả những vị trí quan trọng trong Ðế Chế 3 đều do các đảng viên quốc xã nắm giữ và đặc biệt là những kẻ phục vụ đắc lực cho phong trào quốc xã. Tham gia đảng phát xít là dấu hiệu quan trọng nhất để được phép đứng trên những vị trí trọng trách của nhà nước.
Sát nhập bộ máy lãnh đạo nhà nước và đảng là một hiện tượng tổng thể, đa hình, song một vài biểu hiện mang giá trị cơ bản.
Thứ nhất, các đảng viên phát xít và những kẻ phục vụ đắc lực chiếm giữ những vị trí nhà nước.
Thứ hai, (trong giới lãnh đạo chóp bu) thống nhất quyền lực của đảng và chính quyền cho cùng một số người (Hitller, Goring, Gobelx, Himler, Rozenberg, Hex, v.v...).
Thứ ba, nhà nước hợp pháp hóa quyền kiểm soát của đảng trên mọi tổ chức nhà nước, mọi cán bộ viên chức và mọi biểu hiện của họ.
Thứ tư, trao nhiệm vụ nhà nước cho những tổ chức của đảng phát xít. Thứ năm, thống nhất giữa tổ chức tạm thời của đảng với nhà nước.
Thứ sáu, nhà nước trả lương cho các cán bộ đảng viên.
Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ từng trường hợp riêng biệt của sự sát nhập này.
A- Các đảng viên phát xít chiếm giữ những trọng trách nhà nước.
Cùng với việc Hitler lên nắm chính quyền, hàng nghìn đảng viên quốc xã đã tham gia trong bộ máy nhà nước, "để củng cố chính quyền", đồng thời dần dần chiếm quyền lãnh đạo bộ máy này. Ðối với những người đó, việc chủ nghĩa quốc xã nắm quyền là lễ khải hoàn của "cuộc cách mạng quốc xã". Trong diễn văn ngày 18.5.1933, Goring đã tuyên bố: "Ai chiếm được trọng trách, người đó có thể điều hành." Một tháng sau, Rudolf Hex giải thích thêm: "...Thậm chí trong trường hợp những người có công lao với đảng không đủ khả năng, thì điều đó sẽ được bổ xung bằng lòng nhiệt huyết của họ muốn được cống hiến cho sự nghiệp của nhà nước quốc xã."
Thậm chí cả trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa, các đảng viên cũng giành được sự ưu ái đặc biệt.
Trên thực tế, trước khi kết thúc năm 1933, các đảng viên phát xít đã chiếm giữ tất cả mọi vị trí lãnh đạo ở các cơ quan trung ương, vùng, tỉnh, địa phương. Giới lãnh đạo đảng quan tâm và khuyến khích quá trình này. Ðể củng cố chính quyền, ban lãnh đạo đảng thi hành kế hoạch làm trong sạch bộ máy nhà nước, và bằng 'height:10px;'>
Khi nhấn mạnh sự cần thiết của bảo thủ trong lĩnh vực tư tưởng, Hitler tuyên bố: "Một tư tưởng nếu không muốn bị hủy diệt thì bắt buộc phải trở thành bảo thủ, nghĩa là bảo vệ tính đứng đắn của những quan điểm và chỉ thị của mình trong mọi hoàn cảnh... Ngày nay có một số người không muốn hiểu sự cần thiết cuả bảo thủ quốc xã, nhưng trên thực tế đó là nhận thức về trách nhiệm."
Ðể thiết lập sự thống trị tuyệt đối tư tưởng của mình trong nhà nước, đảng phát xít tiến hành hàng loạt những biện pháp: thứ nhất, với việc hủy diệt những đảng phái khác, đảng phát xít đồng thời tiêu diệt cả những hệ tư tưởng của chúng; thứ hai, kiểm soát tất cả những phương diện tuyên truyền của xã hội và nhà nước (diễn đàn, phim ảnh, nhà hát, phát hành sách..."; thứ ba, tuyên truyền cho hệ tư tưởng phát xít bằng mọi phương tiện và biện pháp; thứ tư, kiểm soát hệ thống giáo dục từ mẫu giáo cho đến năm học cuối cùng trong trường đại học; thứ năm, cách ly hệ tư tưởng quốc gia để các hệ tư tưởng khác không thể xâm nhập được.
Với mục đích hủy diệt mọi hệ tư tưởng khác và thiết lập sự thống trị tuyệt đối cho hệ tư tưởng cuả mình trong nhà nước, đảng phát xít kết hợp chặt chẽ với những tổ chức quần chúng quốc gia tiến hành những chiến dịch sâu rộng, nhằm tiêu hủy những tác phẩm văn học dân chủ tiến bộ, tẩy chay những truyền thống dân tộc dân chủ của nền văn hóa đi ngược lại tinh thần độc tài phát xít.
Trong cuộc tranh giành sự thống trị tư tưởng toàn diện, đảng phát xít còn đi xa hơn nữa. Nó giải tán tất cả những tổ chức tôn giáo, thậm chí cả những tổ chức lành mạnh nhất, không liên quan gì đến chính trị, nếu những tổ chức này chứa trong mình khả năng nào đó, mà trong những điều kiện xác định, có thể sinh ra những tư tưởng hoặc quan niệm khác với tư tưởng cuả đảng phát xít.
Ðảng phát xít, đặc biệt là Hitler rất căm thù đạo Thiên Chúạ Tại biệt thự của mình ở tại Oberzalberg, Hitler đã từng tâm sự với những người thân cận: "Chúng ta có nỗi bất hạnh vô bờ là mang một tôn giáo sai lầm. Tại sao chúng ta không có thứ tôn giáo như những người Nhật Bản, xem việc hy sinh cho tổ quốc là trên hết? Thậm chí cả đạo Hồi vẫn còn tốt cho chúng ta hơn là Thiên Chúa Giáo, với sự nhẫn nhục rồ dại của nó."
Ban lãnh đạo quốc xã tổ chức tấn công nhà thờ Thiên Chúa một cách hệ thống. Trong tài liệu mật của Văn Phòng Trung Ương Ðảng, vào tháng 6.1941 M. Borman viết: "Cần phải cách ly hơn nữa giữa nhân dân với nhà thờ và những tổ chức cuả nó- các mục sư... Không thể để nhà thờ tiếp tục gây ảnh hưởng tới nhân dân và lãnh đạo họ. Ảnh hưởng này cần phải hủy diệt triệt để và mãi mãi. Chỉ có chính phủ, đảng, các cơ sở và tổ chức cuả đảng mới có quyền lãnh đạo nhân dân."
Tên trùm quốc xã này không chấp nhận để các mục sư giáo dục và dạy bảo nhân dân, hoặc đơn giản là làm ảnh hưởng đến cấu thành tinh thần cuả họ. Ðiều này đối với Borman là đi ngược lại sự thống trị tư tưởng cuả đảng, được xem như một tiên đề. Cần phải nói rằng, chỉ có phát xít Ðức mới tấn công nhà thờ Thiên Chúa. Phát xít Italia và Tây Ban Nha không tấn công tôn giáo, mặc dù ở đây nhà thờ và thế giới tinh thần cũng có những vấn đề về giáo dục thế hệ trẻ. Ðó là điểm riêng biệt cuả phát xít Ðức, thể hiện một trong những khía cạnh đặc trưng cuả chế độ độc tài - tham vọng về thống trị tinh thần tuyệt đối, điều mà cả phát xít Italia và Tây Ban Nha đều mong muốn, nhưng các nước này không bao giờ đạt được trường hợp lý tưởng như của Ðức, vì ở Italia và Tây Ban Nha, đạo Thiên Chúa là bá chủ duy nhất, không thể chia cắt.
Ðương nhiên cuộc tấn công tôn giáo của đảng quốc xã dù tàn bạo đến đâu cũng không bao giờ đạt được chủ nghĩa vô thần, bởi vì không một nhà nước phát xít nào có thể hủy diệt được toàn bộ niềm tin. Chống lại tư tưởng Thiên Chúa, nhà nước phát xít nhằm mục đích nhồi nhét một thứ tư tưởng khá c- tư tưởng quốc xã của đảng phát xít.
Ý nghĩa cuả cuộc tấn công tôn giáo này không phải nhằm hủy diệt niềm tin trong nhận thức và tư duy, mà là thay thế niềm tin này bằng một niềm tin khác. Chủ nghĩa vô thần thực sự đồng nghĩa với tự do suy nghĩ, trao quyền tự do tinh thần không hạn chế cho các cá thể, điều mà các nhà nước phát xít không bao giờ có thể cho phép.
III. Ðồng hóa toàn bộ đời sống xã hội
Trong những điều kiện của nhà nước độc tài, khái niệm "đồng hóa" không đơn giản chỉ là đồng nhất đời sống xã hội bằng cách tiêu chuẩn hóa nền kinh tế quốc dân. Ở đây muốn nói đến sự đồng nhất, nhờ đó quyền kiểm soát của đảng đối với nhà nước và tiếp theo - đối với xã hội được thiết lập. Ðây là sự đồng nhất chính trị, thông qua đó đảng phát xít phân chuyển quyền thống trị của mình trên mọi lãnh vực xã hội: nghệ thuật, văn học, thị hiếu, thú vui... thậm chí cả những vấn đề nội bộ của từng gia đình - những lĩnh vực mà ở nền dân chủ truyền thống nằm ngoài khuôn khổ kiểm soát của nhà nước và các đảng phái chính trị.
Sự đồng hóa bao gồm - chúng ta hãy đọc hồ sơ của tòa án Nuernberg - "quyền lực... của đảng được trải khắp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân. Ðảng lãnh đạo nhà nước, đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang, đảng lãnh đạo tất cả mọi cá nhân trong nhà nước. Ðảng hủy diệt mọi tổ chức, mọi nhóm và mọi cá nhân không chấp nhận sự lãnh đạo của thống lĩnh".
(84-570)
Sự đồng hóa bắt đầu trước tiên ở lĩnh vực chính trị thuần túy bằng cách bãi bỏ mọi hình thức tự trị địa phương và chủ nghĩa liên bang. Toàn quyền nằm trong tay chính quyền tập trung đảng - nhà nước, biến bộ máy lãnh đạo ở địa phương thành công cụ sai khiến, thi hành mọi mệnh lệnh cấp trên giao.
Valter Fric, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đầu tiên trong chính phủ Hitler, trong một bài báo năm 1935 đã viết:
"Mối quan hệ giữa Ðế Chế và các tỉnh lẻ giờ đây được xây dựng trên những nguyên tắc mới mẻ, chưa từng thấy trong lịch sử dân ;'>
B- Ban lãnh đạo phát xít trở thành chính phủ quốc gia.
Ngày 30.1.1933, khi Hitler được bầu làm Quốc Trưởng và đứng ra thành lập chính phủ, trong chính phủ mới chỉ có ba phần tử quốc xã: Hitler, Goring và Fric. Hitler giữ trọng trách Quốc Trưởng, Goring- Bộ Trưởng Không Bộ, Fric- Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Còn những thành viên chính phủ khác không phải là đảng viên quốc xã - Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Fon Noirat, Bộ Trưởng Bộ Tài Chính- Bá tước Sverin
Fon Cnizig, Bộ Trưởng Bộ Nông Nghiệp- Hugengerg, Bộ Trưởng Bộ Bưu Ðiện và Giao Thông- Fon Elx Rubenah, Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp Hertner. Những người này thuộc các đảng phái chính trị khác và sau đó một vài tháng, tất cả những đảng này đều tan rã. Bị mất chỗ dựa chính trị, những vị Bộ Trưởng này không thể tránh khỏi bị mất ghế.
Nhờ sự thống soái chính trị của đảng mình, đảng chính trị duy nhất ở Ðức, Hitler đã biến chính phủ thành chính phủ quốc xã. Việc này được thực hiện bằng hai cách: thứ nhất thành lập các Bộ mới, đứng đầu là những phần tử phát xít thủ cựu; và thứ hai, trong đảng chỉ công nhận những Bộ Trưởng có quan điểm quốc xã.
Ngày 13.3.1933, thành lập Bộ Văn Hóa và Tuyên Truyền Nhân Dân, đứng đầu là Gobelx. Ngày 5.5.1933, thành lập Bộ Không Quân, đứng đầu là Goring, và Bộ Giáo Dục đứng đầu là Berigard, Bộ Các Vấn Ðề Nhà Thờ đứng đầu là tên trùm quốc xã Hanarx Kerl.
Sau khi chiến tranh bùng nổ, có hai Bộ mới nữa được thành lập: ngày 17.3.40, Bộ Chiến Tranh và Dự Trữ Quốc Phòng đứng đầu là tiến sĩ Tod (sau này Speer thay thế), và ngày 17.7.41, Bộ Các Vùng Thuộc Ðịa Phía Ðông đứng đầu là nhà tư tưởng của đảng Rozenberg.
Ngoài ra, trong nội các chính phủ còn có Phó Thống Lĩnh của đảng R. Hex (sau này là M Borman) và thủ lĩnh SA Ernxt Rom (sau ngày 30.6.1934 là Sepman)- những người này giữ ghế Bộ Trưởng Không Bộ. Việc này được tiến hành từ ngày 1.12.1933 bằng Luật Thống Nhất Ðảng và Nhà Nước. Trong điều luật ghi cụ thể: "Phó Thống Lĩnh và Thủ Lĩnh SA sẽ tham gia trong nội các chính phủ, để có thể đảm bảo sự cộng tác chặt chẽ giữ đảng và SA với chính quyền nhà nước...".
Ngày 30.2.1937, Hitler kết nạp tất cả những thành viên không đảng phái của chính phủ vào đảng của mình: Fon Noirat, Fon blomberg, Zeldte, v.v...
Duy nhất chỉ Bộ Trưởng Bộ Bưu Ðiện và Giao Thông- Elx Rubenarh, là từ chối đề nghị này của Hitler. Lý do từ chối không vào Ðảng Quốc Xã có vẻ như không mang màu sắc chính trị, nhưng thực chất là tỏ rõ sự bất đồng quan điểm với hệ tư tưởng phát xít: "Tôi tin vào những nguyên tắc của đạo Thiên Chúa," Elx Rubenah viết cho Thống Lĩnh, "và tôi cần phải giữ niềm tin vào Ðức Chúa và bản thân mình. Tham gia Ðảng có nghĩa là, tôi không thể chối cãi, rằng đã công nhận và ủng hộ những hành vi chống lại những quan niệm tôn giáo của các viên chức đảng viên, chống lại những người muốn bảo vệ quan niệm tôn giáo của họ.
Trên thực tế, đó cũng là đơn xin từ chức của Fon Elx Rubenah và nó được chấp nhận ngay lập tức.
Vào đầu năm 1937, nội các của chính phủ đã được quốc xã hóa hoàn toàn, các thành viên của chính phủ đều là đảng viên quốc xã, các thủ lĩnh phát xít đều trở thành những người lãnh đạo chính phủ. Nội các chính phủ lúc này bao gồm những người: Hitler, Goring, Gobelx, Himler, Hex, Rozenberg, Ðare, Fric, Fon Noirat, X. fanc, Ribentrop.
Tất cả những người này đều là đảng viên quốc xã và là thành viên Ban Lãnh Ðạo Tối Cao (chỉ trừ Fon Noirat là đảng viên thường).
Ở Italia, những quá trình tương tự cũng xảy ra. Lúc đầu, trong chính phủ của Muxolini, ngoài ông ta cũng chỉ còn có ba thành viên phát xít khác: nhà kinh tế Xtefan, hai đại biểu nhân dân, năm thủ lĩnh của những xu hướng chính trị khác nhau, và hai anh hùng của cuộc nội chiến: Tướng Ðiiax "Hoàng Tử Chiến Thắng" và Ðô Ðốc Toan De Revel "Hoàng Tử Biển Cả".
Trong nội các đầu tiên, Muxolini, ngoài trọng trách Thủ Tướng chính phủ còn giữ cả ghế Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ.
Ðến năm 1925, Muxolini vẫn chưa thành lập được "chính phủ phát xít thuần nhất" và vẫn phải biện minh với các đại diện của những đảng phái chính trị khác.
Mãi sau vụ bê bối xung quanh cái chết của nghị sỹ Xã Hội Mteoti, vụ bê bối này kéo dài suốt cả năm 1924, Muxolini mới thành lập được chính phủ phát xít thuần chủng. Một nhà sử học Italia đã viết về sự kiện này như sau: "Toàn bộ chính phủ là những người phát xít. Các thủ lĩnh chính trị khác hoặc trở thành đảng viên phát xít, hoặc phải từ bỏ vũ đài chính trị. Những kẻ chống đối đều phải trốn ra nước ngoài, hoặc bị bắt buộc phải sống tị nạn chính trị ở nước ngoài...".
Các sự kiện này xảy ra cùng một thời điểm, khi những Luật Phát Xít Ðặc Biệt được ban hành, thông qua đó, bọn phát xít cấm tất cả các đảng phái hoạt động và khống chế toàn bộ bộ máy nhà nước. Việc thành lập "chính phủ phát xít thuần nhất" là dấu hiệu kết thúc quá trình hình thành cơ chế một đảng trị của nhà nước phát xít.
Tại Tây Ban Nha, Ðảng Falanga đã biến quyền điều hành chính phủ và biến Ban Lãnh Ðạo Ðảng thành chính phủ quốc gia. Ða phần các Bộ trong chính phủ và đặc biệt là những Bộ quan trọng đều do các thủ lĩnh Falanga chiếm giữ.
Thí dụ, thành phần chính phủ vào tháng 7.1939 bao gồm: Franxix Franco: trong Ðảng là Thủ lĩnh Tối cao của Falanga, trong chính phủ là Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng; Ramon Xerano Xuner: trong Ðảng Chủ Tịch tập Ðoàn Chính trị Falanga, trong chính phủ- Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, và năm 1940-1942 kiêm luôn chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao; Munox Gradex- trong Ðảng: Bí Thư Tập Ðoàn Chính trị Falanga, Trùm Công An Falanga, trong chính phủ- Bộ Trưởng Không Bộ; Gamero Del Caxtilio: trong Ðảng- Thành viên Tập Ðoàn Chính Trị Falanga, trong chính phủ- Bộ Trưởng Không Bộ; R. Xantrex Maxax: trong Ðảng- Thành Viên Tập Ðoàn Chính Trị Falanga, trong chính phủ Bộ Trưởng Không Bộ; Hoxex Ibanex Martin: trong Ðảng- đảng viên thường, không giữ trọng trách, trong chính phủ Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Nhân Dân; Alono Penia Boeuf: trong Ðảng- đảng viên thường, trong chính phủ- Bộ Trưởng Bộ Các Vấn Ðề Xã Hội.
Bốn Bộ Trưởng còn lại thuộc giới quân sự, không phải là những người phát xít: Tướng Hoxex Enrice Varela- Bộ Trưởng Bộ Lục Quân; Huan Lague- Bộ Trưởng Các Lực Lượng Không Quân; Ðô Ðốc xavador Moreno- Bộ Trưởng Các Lực Lượng Hải Quân; Ðại tá Baigbeder Atienxa- Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao.
Tất nhiên sau đó, trong chính phủ Franco, đại diện Falanga thay đổi sao cho phù hợp với tình hình chính trị trong nước và thế giới. Nhưng trên nguyên tắc, Ðảng Falanga chi phối chính phủ theo ba cách:
1- Nắm giữ những Bộ quan trọng nhất;
2- Kiểm soát những Bộ còn lại thông qua các đảng viên Falanga đang giữ những chức vụ quan trọng trong các Bộ này;
3- Thông qua Tướng Franco- vừa là Thủ Lĩnh của Ðảng, vừa là Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng, với quyền lực vô hạn thường xuyên thay đổi nội các.
Ở đây nổi bật lên một hiện tượng là, kẻ nào đánh mất vị trí trong Ðảng cũng đồng thời mất luôn trọng trách trong chính phủ và ngược lại. Thí dụ, Xerano Xuner, khi mất ghế Bộ Trưởng Nội Vụ và Ngoại Giao, "cần phải từ bỏ vị trí lãnh đạo trong Ðảng"; Hoxe Luis Areze (đã nhiều năm giữ vị trí lãnh đạo trong Ðảng), khi mất ghế Bộ Trưởng Cải Tạo Thành Phố, đồng thời mất luôn chức vụ trong Ðảng Falanga, v.v...
Trên quan điểm "Những Mối Liên Quan Chặt Chẽ Giữa Ðảng Và Nhà Nước" (Hitler), hiện tượng trên đây hoàn toàn logic. Nếu một Bộ Trưởng bị mất ghế trong chính phủ mà vẫn giữ vai trò lãnh đạo trong Ðảng, người đó có thể như là một "kẻ bất mãn" và trong một thời điểm nào đó xúi Ðảng chống lại chính phủ, hoặc ít nhất- trở thành kẻ tập trung những ý đồ chống chính phủ trong Ðảng. Nhưng điều này mâu thuẫn với một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của nhà nước độc tài: sự thống nhất giữa Ðảng và nhà nước, thiếu cái đó nó không thể tồn tạị Vì vậy, mất trọng trách trong chính phủ cũng đồng thời phải từ bỏ vị trí lãnh đạo trong Ðảng.
 
C- Sự kiểm soát của đảng phát xít đối với nhà nước
Sự kiểm soát tổng thể của đảng quốc xã đối với nhà nước, được luật hóa bởi nhà nước, là một trong những hình thức quan trọng của việc sát nhập bộ máy nhà nước và đảng. Sự kiểm soát này được thể hiện không chỉ trong vấn đề, rằng việc bổ nhậm các vị trí hành chính sẽ không có hiệu lực, nếu không được sự đồng ý của cơ sở đảng tương ứng, cũng không chỉ trong vấn đề rằng các thủ lĩnh đảng phát xít đồng thời nắm giữ những trọng trách nhà nước, mà còn vì nó được phân chuyển trên pháp luật quốc gia. Không một điều luật hoặc sắc lệnh nào được ban hành trong Ðế Chế 3 nếu như trước đó không có sự đồng ý của giới lãnh đạo đảng quốc xã.
Tất nhiên mọi luật lệ ban hành đều được Quốc Hội thông qua, nhưng đó chỉ là hình thức bởi vì bọn quốc xã chiếm đại đa số trong Quốc Hội. Trong trường hợp như thế, Quốc Hội bao giờ cũng đồng tâm nhất trí giống như trong các Ðại Hội Ðảng: tất cả đều được chấp nhận bằng cách hô: "Hail Hitler!" Hơn thế nữa, trước khi đệ trình Quốc Hội, những điều luật này phải được văn phòng Trung Ương Ðảng Quốc Xã bổ xung.
Ngày 27.7.1934, Hitler ký sắc lệnh cho phép Hex, người thay thế ông ta, được quyền kiểm tra mọi luật lệ ban hành trong Ðế Chế, và thậm chí được tham gia mọi công việc quốc gia - Sắc lệnh nêu rõ: "Hiện nay tôi giao cho Phó Thống Lĩnh- Bộ Trưởng Ðế Chế Hex- được quyền tham gia giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến công tác dự thảo luật lệ trong tất cả các cơ sở hành chính đế chế. Mọi luật lệ do các Bộ trong Ðế Chế dự thảo cần phải được sự đồng ý của Hex".
Quyền lực này của Hex còn được phân chuyển xuống tận các tỉnh lẻ trong Ðế Chế. Trong công văn gửi các Bộ của Tiến sĩ Lamerx ngày 12.4.1938, có đoạn viết: "Phó Thống Lĩnh sẽ tham gia cùng các Bộ trưởng chuẩn y những sắc luật quốc gia và những văn bản pháp luật tại các tỉnh lẻ theo điều của sắc lệnh ban hành ngày 2.2.1934, do sự thay đổi cơ cấu của Ðế Chế...".
Sau năm 1941, khi Hex bí mật trốn sang Anh, toàn quyền kiểm soát đối với các cơ sở nhà nước và mọi văn bản pháp luật của chúng được trao lại cho Martin Borman - Thư ký của Thống Lĩnh và Chủ Tịch Văn Phòng Trung Ương Ðảng.
Sự kiểm soát của Ðảng Quốc Xã độc quyền về chính trị - "người giữ trọng trách nhà nước" - không chỉ được phân chuyển trên lĩnh vực pháp lý của các cấp chính quyền quốc gia, mà còn được củng cố trên mọi thứ bậc hình kim tự tháp của đảng và nhà nước, xuống đến tận cơ sở- tận làng xã. Trong lãnh thổ một khu vực, không một vấn đề quốc gia nào được giải quyết nếu không được sự đồng ý cuả Bí Thư Khu Ủy, đại diện của Ðảng Quốc Xã và là người lãnh đạo chính trị cao nhất trên lãnh thổ này.
Bản thân Ðảng Quốc Xã được tổ chức nhằm kiểm soát các cơ quan nhà nước, và đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của nó. Trong tài liệu "Hướng Dẫn Xây Dựng Ðảng" nêu rõ: "Chúng ta xây dựng sự lãnh đạo của đảng trên cơ sở lãnh đạo chính trị quốc gia".
Tại Ðại hội Ðảng ở Niurnberg vào năm 1935, Hitler còn tuyên bố công khai và chính xác hơn về quyền kiểm soát của đảng quốc xã đối với các cơ quan nhà nước: "...Không phải nhà nước ban hành sắc lệnh cho chúng ta, mà là chúng ta ban hành sắc lệnh cho nhà nước".
Ở Italia, vấn đề kiểm soát của đảng đối với cơ quan nhà nước- một hình thức sát nhập đảng và nhà nước- còn được thể hiện rõ ràng hơn, chính hiệu hơn. Tại đây chúng ta bắt gặp cái gọi là "Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao" - cơ quan đảng nhà nước cao nhất- chịu trách nhiệm "mọi vấn đề tư tưởng về nhà nước phát xít và chăm lo bảo vệ chế độ."
Hội Ðồng này được hình thành như cơ quan đảng cao cấp ngay từ tháng 10 năm 1922 và mãi sau này mới trở thành tổ chức chính quyền. Với sắc lệnh ban hành ngày 28.9.1928, ba cơ quan cao cấp- Hội Ðồng Bộ Trưởng- Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện- quyết định Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao từ tổ chức đảng thuần túy trở thành tổ chức chính quyền. Như vằng trên nguyên tắc tự nguyện, không ai bắt buộc phải tham gia vào đảng, và điều này được ghi rõ trong điều lệ. Nhưng với sự sát nhập giữa đảng và nhà nước, đảng trở thành một tổ chức quốc gia, chi phối số phận của mọi công dân; đảng chia quyền, chia ân huệ, và nguyên tắc trên, vì thế mà bị phá vỡ hoàn toàn. Vấn đề chỉ riêng các đảng viên mới có thể trở thành công chức của nhà nước quốc xã đã khiến hàng loạt quần chúng phải vào đảng, và những ai đã vào rồi thì không thể bỏ được nữa. Bị khai trừ khỏi đảng là vô cùng nguy hiểm, còn hơn cả khi không tham gia sinh hoạt đảng. Vì sự ràng buộc chặt chẽ giữa đảng và nhà nước, "bị khai trừ khỏi đảng cũng đồng thời mất luôn phương tiện để tồn tại." (89-392)
Những công chức đảng viên phải chịu hai tầng áp bức: từ phía cán bộ đảng và từ phía các thủ trưởng hành chính, cũng là đảng viên và có quan hệ mật thiết với Ban lãnh đạo đảng.
Ðây là một trong những trường hợp cụ thể, khi đảng phát xít độc quyền sát nhập với bộ máy nhà nước, trở thành một tổ chức quân sự quan liêu, loại bỏ nguyên tắc tự nguyện và không còn là một đảng chính trị theo ý nghĩa đặc trưng của từ này. Bởi vì mọi đảng phái chính trị đều phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện và quan điểm; Một đảng, thành lập với ý đồ lãnh đạo nhà nước, không thể không chấp nhận những nguyên tắc muôn thuở của nhà nước: quan liêu, tập trung quan liêu, uy tín, bảo thủ, cưỡng ép và khủng bố.
Ðây cũng là bối cảnh mâu thuẫn của đảng phát xít trong những điều kiện của nhà nước độc tài. Về hình thức, trong điều lệ, đảng được xây dựng trên một thứ nguyên tắc - tự nguyện, còn nguyên tắc trong cuộc sống và tinh thần nội bộ của đảng lại hoàn toàn khác, thậm chí đối ngược. Theo điều lệ, vào đảng là tự nguyện, còn trên thực tế là bắt buộc. Bởi vì muốn có vị trí xác định trong công sở nhà nước thì bắt buộc vào đảng. Phẩm chất công tác, khả năng, bậc thợ còn đứng sau một yêu cầu căn bản: có phải là đảng viên không?
Trong chế độ phát xít, do việc sát nhập với nhà nước, đảng cầm quyền đánh mất cả những tàn dư dân chủ cuối cùng trong cuộc sống nội bộ, trở thành một tổ chức cảnh sát quân sự, giải quyết mọi mâu thuẫn bằng nhà tù và tử hình. Trong đảng không còn tranh luận, bàn bạc chính trị, nguyện vọng công khai, mà chỉ có sự thống nhất mù quáng, sự phục tùng đồng loạt câm lặng, do thám và tố cáo lẫn nhau. Thay cho dân chủ là bè phái chính trị, thay cho công khai là mờ ám. Ðảng trở thành hội những người chung ý nghĩ, cùng một tư duy, vì họ không dám nghĩ.
Vì lý do này, Ban lãnh đạo đảng không bao giờ bị thay đổi theo nguyện vọng và ý muốn của quần chúng đảng viên - một điều bình thường đối với một đảng chính trị. Trong lịch sử của chủ nghĩa phát xít, chưa từng có trường hợp nào mà các đảng viên có thể lật đổ Ban lãnh đạo đảng và thay thế bằng những người mới. Nếu có sự biến đổi nào đó trong thành phần Ban lãnh đạo thì thường là do cấp trên tiến hành. Mọi ý đồ thay đổi lãnh đạo bị giới cầm quyền chóp bu xem như dấu hiệu thiếu tin tưởng, làm lung lay nền móng của đảng và bị trừng phạt dã man. Giới cầm quyền chóp bu nắm giữ mọi phương tiện kiểm soát và trừng phạt, trong khi quần chúng đảng viên hoàn toàn không có chút quyền hạn gì, và thực tế không có khả năng chống đối lại đảng. Quần chúng đảng viên thậm chí không có cả quyền được phát hành báo chí, để trong trường hợp không đồng ý với ban lãnh đạo có thể nói lên ý kiến của mình. Cơ quan ngôn luận của đảng chỉ cho phép quần chúng đảng viên được quyền sử dụng khi họ bảo vệ đảng mà thôi. Trong lời khai tại tòa án Nuernberg, Goring nêu rõ: "Chúng tôi thấy cần thiết không thể để bất kỳ xu hướng chống đối nào được phép tồn tại. Nếu ai cũng biết rằng, nếu chống đối lại đảng sẽ phải vào tập trung cải huấn... điều đó đối với chúng tôi rất có lợi." (90-60)
Ðặc thù cảnh sát trong đảng phát xít còn được thể hiện đặc biệt rõ ở vấn đề rằng, đảng viên không được tự ý rời bỏ đảng, mà chỉ được ra khỏi đảng khi ốm nặng hoặc chết. Trong trường hợp vẫn cố tình từ bỏ đảng, người đó cần phải bị khai trừ.
Việc từ bỏ đảng là không thể cho phép vì đối với quan điểm quốc xã, cá nhân đó có thể không còn phụ thuộc vào đảng, thậm chí chống lại đảng.
2. Cấu trúc của Ðảng Công Nhân Quốc Xã.
Cấu trúc của Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức được xác định từ mục tiêu chiến lược của nó - lãnh đạo nhà nước và nhân dân. Vì thế đảng được xây dựng trên nguyên tắc lãnh thổ. Ðế Chế được chia thành vùng(khu), khu chia thành tỉnh, tỉnh chia thành huyện, huyện chia thành xã, xã chia thành thôn. Ðứng đầu một đơn vị lãnh thổ là một lãnh đạo đảng: Thủ lĩnh vùng (Bí thư khu ủy), Thũ lĩnh tỉnh (Bí thư tỉnh ủy), Thủ lĩnh huyện (Bí thư huyện ủy), Thủ lĩnh xã (Bí thư đảng bộ), Thủ lĩnh thôn (Bí thư chi bộ). Lãnh đạo đảng ở Trung ương gọi là Thủ lĩnh Ðế Chế (Raihxlaiter). Thủ lĩnh Ðế Chế gồm: Himler, Gobelx, Rozenberg, Hex, Lai, Dare... Mỗi Thủ lĩnh Ðế Chế phụ trách một bộ phận của đảng. Thí dụ: Gobelx phụ trách tuyên truyền, Rozenberg - giáo dục tư tưởng và chính trị cho các đảng viên...
Ðứng đầu đảng là Thống Lĩnh. Nguyện vọng của Thống Lĩnh là pháp luật trong đảng. Vì Thống Lĩnh đồng thời là Quốc Trưởng (người đứng đầu nhà nước) nên cần bổ nhiệm Phó Thống Lĩnh. Phó Thống Lĩnh lãnh đạo đảng theo cương lĩnh và hướng dẫn của Thống Lĩnh. Trong tạp chí của đảng năm 1941, đã nói về toàn quyền của Phó Thống Lĩnh như sau:
"Theo sắc lệnh của Thống Lĩnh ban hành ngày 21.4.1933, Phó Thống Lĩnh có toàn quyền trên danh nghĩa Thống Lĩnh, quyết định mọi vấn đề về lãnh đạo đảng. Như vậy, Phó Thống Lĩnh là đại diện cho Thống Lĩnh với toàn quyền lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã Ðức. Văn phòng Phó Thống Lĩnh cũng chính là văn phòng Thống Lĩnh.
Nhiệm vụ của Phó Thống Lĩnh là lãnh đạo những vấn đề chính trị cơ bản, ban hành những chỉ thị và chăm lo sao cho công tác đảng được tiến hành dựa trên những nguyên tắc quốc xã. Phó Thống Lĩnh nắm giữ mọi đầu mối của công tác đảng. Phó Thống Lĩnh là người quyết định cuối cùng về mọi vấn đề trong những kế hoạch nội bộ của đảng và về tất cả những gì liên quan đến sự tồn tại của dân tộc Ðức..." (84-705)
Như vậy cấu trúc của Ðảng Quốc Xã mang hình dáng kim tự tháp, đáy là những cán bộ cấp thấp nhất và đỉnh là Thống Lĩnh của đảng. Ðáy của kim tự tháp này rất rộng. Ðiều này có thể minh họa bằng số liệu trong hồ sơ của Ðảng Công Nhân Quốc Xã cho năm 1935-1939.
Lãnh đạo đảng:
Thủ lĩnh vùng: 33 (năm 1935); 41 (năm 1939)
Thủ lĩnh tỉnh: 855 (năm 1935); 808 (năm 1939)
Thủ lĩnh huyện: 21283 (năm 1935); 28376 (năm 1939)
Thủ lĩnh xã: 55764 (năm 1935); 89378 (năm 1939)
Thủ lĩnh thôn: 213737 (năm 1935); 463048 (năm 1939)
Các cán bộ lãnh đạo đều có bộ máy dưới quyền. Bộ máy lãnh đạo của vùng và tỉnh có những bộ phận sau: tổ chức, tuyên truyền, học tập, cán bộ, hành động. Những người cộng tác trong các bộ phận này đều được trả lương. Trong thành phần các bộ máy này còn có kế toán, nhưng kế toán này không thuộc quyền cai quản của cán bộ đảng có trách nhiệm, mà chịu sự chỉ đạo trực tiếp của kế toán trưởng của đảng.
Trong Ðảng quốc xã còn có "những cán bộ danh dự", bao gồm số lượng đáng kể các chuyên gia, phần lớn là luật sư, bác sĩ, giáo viên. Họ được xem như cán bộ danh dự vì làm việc cho các đầu mối xã hội. Con số này vào khoảng 140 nghìn ngườị (89-394)
Tất cả mọi cơ sở đảng đều có quyền hạn và nghĩa vụ, thể hiện rõ nét đặc thù hành chính của nó, sau khi sát nhập với nhà nước.
Ðối với Thống Lĩnh, điều lệ ghi rõ: "Thống Lĩnh có quyền bổ nhiệm các Thủ Lĩnh Ðế Chế và tất cả những lãnh đạo chính trị, kể cả Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Ðế Chế" (89-9). Thống Lĩnh chỉ có quyền, không có nghĩa vụ.
Thủ Lĩnh Ðế Chế không chỉ có quyền, mà còn có cả nghĩa vụ. Thủ Lĩnh Ðế Chế do Thống Lĩnh bổ nhiệm và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thống Lĩnh. Vai trò của các Thủ Lĩnh Ðế Chế là: "Nắm giữ mọi đầu mối các tổ chức nhân dân và nhà nước Ðức." (89-9)
Trong điều lệ của đảng quốc xã về các Thủ Lĩnh Ðế Chế và nhiệm vụ của chúng được ghi như sau: "Cấu trúc Ban lãnh đạo Ðế Chế cần phải thiết lập, sao cho hệ thống liên kết giữa những tổ chức đảng đầu tiên và Ban lãnh đạo có khả năng nhận biết được những yếu điểm và biến đổi nhỏ nhất trong tinh thần nhân dân".
Một nhiệm vụ khác của Ban lãnh đạo Ðế Chế là tuyển chọn cán bộ lãnh đạo và nhồi nhét hết khả năng tư tưởng quốc xã trong mọi lĩnh vực đời sống. (89-13)
Bí thư Khu ủy cùng bộ máy dưới quyền và lãnh đạo các cơ sở có nghĩa vụ, đảm bảo sự lãnh đạo của đảng quốc xã trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đảng và nhà nước, hướng dẫn những hành động của đảng và các cơ sở đảng, tăng cường ảnh hưởng chính trị và tư tưởng của đảng trong nhân dân thuộc vùng của mình.
Bí Thư Tỉnh ủy phải phục tùng Khu ủy, nhưng được Thống Lĩnh trực tiếp bổ nhiệm. Trong điều lệ đảng ghi: "Bí Thư Tỉnh ủy chịu trách nhiệm toàn diện trước Khu ủy về nhận thức chính trị và tư tưởng của đảng viên và quần chúng trên lãnh thổ của mình." (89-14)
Bí Thư Huyện uy phải phục tùng Tỉnh ủy và được Bí Thư Khu ủy tương ứng bổ nhiệm. "Bí Thư Huyện ủy chịu trách nhiệm toàn diện về nhận thức chính trị của các cơ sở, tổ chức và những chi nhánh của đảng. Bí Thư Huyện ủy có quyền phê phán mọi quyết định của Bí Thư Tỉnh ủy, nếu như những quyết định này mâu thuẫn với quyền lợi của đảng..." (89-14,15)
Bí Thư Ðảng Bộ là mắt xích trung gian giữa các Bí Thư Tỉnh ủy và cán bộ đảng thấp nhất - Bí Thư Chi Bộ. Thông thường Bí Thư Ðảng Bộ chịu trách nhiệm về bốn hoặc tám phố (thôn) và đảm nhiệm việc giám sát các Bí Thư Chi Bộ. Theo điều lệ, Bí Thư Ðảng Bộ có nhiệm vụ như Bí Thư Chi Bộ.
Bí Thư Chi Bộ thực tế là cán bộ đảng duy nhất thường xuyên tiếp xúc với quần chúng. Bí Thư Chi Bộ chịu trách nhiệm về phố (thôn)
vào khoảng 40 đến 60 gia đình. Theo điều lệ, "Bí Thư Chi Bộ không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ tư tưởng quốc xã và mang tư tưởng này đến với các đảng viên và dân chúng, mà còn phải xây dựng sự hợp tác hỗ tương giữa các đảng viên trong khu vực của mình... Bí Thư Chi Bộ có nhiệm vụ thường xuyên nhắc nhở cho các đảng viên về nghĩa vụ thiêng liêng của họ đối với nhà nước và nhân dân..." (89-16)
Vị trí lãnh đạo càng cao bao nhiêu, quyền lực trong đảng và trong nhà nước càng lớn bấy nhiêu.
Theo điều lệ của Ðảng Quốc Xã, Thống Lĩnh, Bí Thư Khu ủy, Bí Thư Tỉnh ủy, Bí Thư Huyện ủy, Bí Thư Ðảng Bộ và Bí Thư Chi Bộ là "những cán bộ đảng có trọng trách" (89-389), họ có toàn quyền và còn được gọi là "giới lãnh đạo chính trị" hay "tập đoàn lãnh đạo chính trị".
Ðảng phát xít Italia và Falanga Tây Ban Nha cũng được xây dựng nhằm mục đích lãnh đạo chính trị nhà nước và xã hội. Tổng Bí Thư Ðảng Phát Xít Italia có những bộ phận dưới quyền sau: Ban Bí Thư Chính Trị, Ban Bí Thư Hành Chính, các hiệp hội tự quản, các cơ quan in ấn, tuyên truyền, các tổ chức thanh niên, Hiệp Hội Phụ Nữ, Hội Các Gia Ðình Liệt Sĩ Phát Xít, Hội Sinh Viên Ðại Học, Ban Bí Thư Chính Trị kiểm tra hoạt động của những hiệp hội sau: giáo viên phát xít, công nhân đường sắt phát xít, bưu điện - điện tín phát xít...
Các cơ sở trong bộ máy của Falanga cũng thâu tóm quyền lực như thế: Ban đối ngoại, giáo dục nhân dân, diễn đàn và tuyên truyền, phụ nữ, xã hội, công đoàn, thanh niên, cựu chiến binh, tài chính - hành chính...
Mục đích của đảng phát xít - lãnh đạo nhà nước và toàn bộ xã hội - xác định nguyên tắc tổ chức của nó và nguyên tắc cơ bản là tập trung quan liêu. Nguyên tắc này có thể tóm tắt như sau:
(a) Cấp dưới phục tùng vô điều kiện cấp trên;
(b) Cấp trên bổ nhiệm cấp dưới, tổ chức cao bổ nhight:10px;'>
Những việc tương tự cũng diễn ra ở Italia. Sau năm 1923, công an phát xít được thành lập - công an của đảng được trang bị vũ khí của nhà nước và thi hành những nhiệm vụ quốc gia. 
 
E- Thống nhất những tổ chức tạm thời của đảng và nhà nước phát xít.
Trước khi nắm chính quyền, Ðảng Quốc Xã đã thành lập lực lượng cảnh sát riêng (SS) và quân đội riêng (SA). Như chúng ta đã biết, những năm đầu SS và SA là những tổ chức của đảng nhưng thi hành những nhiệm vụ quốc gia: tổ chức những vụ khủng bố "kẻ thù của nhân dân và nhà nước", tiến hành các cuộc bắt giam triệt để, tấn công các đảng phái chính trị, kiểm soát những trại tập trung cải huấn, v.v...
Những năm về sau, khi chế độ quốc xã đã bền vững, "Ðảng đã trở thành Nhà Nước", những tổ chức này cần được thống nhất với cảnh sát quốc gia để tập trung sức mạnh cho chính quyền.
Ngày 1.3.1933, 50 nghìn lính SS và SA được biên chế cho cảnh sát quốc gia để "củng cố ngành cảnh sát".
Ngày 17.6.1936, Hitler sát nhập Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Ðức và thủ lĩnh SS.
Việc sát nhập giữa SA và quân đội có phần khác biệt. Trước đây Ðảng Quốc Xã đã sử dụng đội quân này trong nhiệm vụ kiểm soát các đường phố. Vào năm 1934, SA phát triển rất nhanh và đạt tới con số 4,5 triệu. Các sĩ quan SA: Rom, Haincxt, Siretl, C.Ernxt, v.v... muốn SA được sát nhập với quân đội để trở thành chỉ huy của nó. Nhưng điều này đe dọa toàn quyền của các thủ lĩnh chính trị. Họ không an tâm với sức mạnh tiềm tàng của đội quân đông đảo này.
Ðiều đó gây nên mâu thuẫn giữa các thủ lĩnh chính trị (Hitler, Goring, Gobelx, Himler...) và Ban Lãnh Ðạo SA, nên đã trở thành nguyên nhân gây ra sự kiện ngày 30.6.1934 (Ðêm Của Những Lưỡi Gươm Dài- ND). Các thủ lĩnh chính trị đã thủ tiêu toàn bộ Ban Lãnh Ðạo Quân Sự SA, và đẩy vai trò của đội quân này xuống hàng thứ hai. Từ đó lực lượng SA rơi rớt dần, và đến năm 1940, con số này chỉ còn 1,5 triệu.
Trong chiến tranh, về hình thức SA vẫn là đội quân riêng của Ðảng, song thực chất là đã sát nhập với quân đội chính quy. SA tham chiến trong cùng điều kiện với quân đội chính quy, chịu sự chỉ huy của các tướng lĩnh, không còn được hưởng ưu ái và những quyền lợi đặc biệt trước đây. Tạp chí bí mật De Lage của Gobelx viết: "Vào mùa thu năm 1944, quân số SA là 1,7 triệu. Trong đó 1,2 triệu đã được động viên vào quân đội".
Một thí dụ minh họa khác là việc sát nhập giữa SD và Zetapo. Ban đầu SD được thành lập như là một tổ chức mật thám cuả SS, và sau ngày 4.6.1934 trở thành đội quân đặc biệt của Ðảng Quốc Xã; còn Zetapo là tổ chức cảnh sát nhà nước. Ngày 26.6.1936, Haidrex- thủ lĩnh SÐ được bổ nhiệm là Giám Ðốc Cảnh Sát An Ninh, bao gồm Zetapo và mật thám SS.
Năm 1937, tổ chức đối ngoại của Ðảng Quốc Xã (AO) cũng được sát nhập vào Bộ Ngoại Giao: "Mối liên quan chặt chẽ giữa AO và Bộ Ngoại Giao cho phép các đại sứ quán Ðức kiểm soát được những hoạt động của những công dân Ðức sống ở nước ngoài".
F- Nhà nước bảo vệ đảng phát xít.
Kết quả của việc sát nhập bộ máy Ðảng và Nhà Nước là Ðảng Phát Xít trở thành Nhà nước, thành hạt nhân tổ chức của nhà nước, vì vậy nhà nước cần bảo vệ đảng. Ðảng Phát Xít được pháp luật nhà nước bảo vệ. Mọi hành động chống đảng được pháp luật xem như là chống lại nhà nước. Bọn quốc xã ban hành điều luật đặc biệt về những hành vi chống lại nhà nước, đảng và bảo vệ tổ chức đảng. Theo luật này, những người có biểu hiện chống lại Ðảng Quốc Xã và giới lãnh đạo Ðảng sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề, bởi vì do sát nhập giữa đảng và nhà nước, lãnh đạo đảng cũng là lãnh đạo nhà nước; xử tù những người phát ngôn có hại nhằm chống lại chế độ quốc xã.
Có thể hiểu rõ mức độ liên quan mật thiết giữ Ðảng Quốc Xã và Nhà Nước, sự quan tâm của các cấp chính quyền nhà nước đối với đảng và quyền lợi của đảng, thông qua một chỉ thị của Martin Borman gửi các cơ sở đảng, trong đó cho phép những cơ sở này có thể sử dụng sự bảo vệ của Zetapo: "Ðể hiện thực sự liên quan mật thiết giữa các cơ sở đảng và những tổ chức của đảng trong Ban Lãnh Ðạo Cảnh Sát Bí Mật Quốc Gia (Zetapo), Phó Thống Lĩnh đề nghị Ban Chỉ Huy Zetapo được mời tham dự tất cả những cuộc mít tinh quan trọng của đảng và các cơ sở đảng."
Một chỉ thị khác yêu cầu các chính quyền nhà nước, đặc biệt là những chính quyền cao cấp, phải giúp đỡ các Bí Thư Khu Ủy trong vấn đề sử dụng sức lao động: "Các cán bộ trong những cơ sở kinh tế nhà nước cao cấp có nghĩa vụ phải giúp đỡ cho các Bí Thư Khu Ủy và thông báo với họ những vấn đề quan trọng nhất trong việc sử dụng sức lao động".
Ðể bảo vệ Ðảng Phát Xít không bị các công dân công kích, nhà nước quốc xã theo dõi gắt gao những người làm công tác nghệ thuật. Những nghệ sĩ có tư tưởng chống đối đảng và nhà nước đều bị đuổi khỏi nghành nghệ thuật. Báo Folcser Beobachter, số ra ngày 4.3.1939 thông báo: "Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền Và Giáo Dục Nhân Dân - Gobelx, thải hồi khỏi ngành văn hóa nhà văn Vener Finc, nhà đạo diễn sân khấu Peter Zahe (Curt Pabxt) và Bộ Ba Puland: Xelmut But, Vilelm, Maixner và Marnfred Dlugị Và đồng thời cấm những người này không được công bố tác phẩm của mình ở Ðức".
Tất cả mọi chuyện cười, tiếu lâm chính trị, nhằm công kích Ðảng Quốc Xã và giới lãnh đạo đảng đều gặp sự cản trở của pháp luật. Ngày 20.12.1934, điều luật đặc biệt về sự phản bội trong đảng được ban hành, những kẻ "phản bội" phải chịu những hình phạt nặng nề nhất: trước hết bị khai trừ khỏi Ðảng Quốc Xã thông qua tòa án của đảng, sau đó bị đuổi việc, bị bắt giam vào trại tập trung hoặc bị tử hình, phụ thuộc vào mức độ phạm tội.
Ở Italia, trong thời gian phát xít cầm quyền, cũng tồn tại điều luật đặc biệt bảo vệ Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao và những thành viên của nó (nghĩa là Ban Lãnh Ðạo Ðảng Phát Xít).
Những người có biểu hiện chống lại Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao sẽ bị xử tử hoặc phạt tù khổ sai. 
 
G- Nhà nước trả lương cho bộ máy đảng phát xít.
Nắm quyền điều hành nhà nước, Ðảng Phát Xít tự đảm bảo cho mình những khả năng tài chính vô hạn. Nó không chỉ trao vị trí trọng trách cho những đảng viên của mình, mà còn trực tiếp sử dụng ngân sách nhà nước cho những nhu cầu thuần túy của nó: thứ nhất, trả lương cho các cán bộ đảng; và thứ hai, cấp kinh phí cho những hiệp hội và tổ chức của đảng.
Các cán bộ đảng nhận lương như những công chức về những nhiệm vụ mà họ hoàn thành, và bị mất lương nếu như cấp lãnh đạo đảng cao hơn đánh giá là không xứng đáng.
Lương của cán bộ đảng không chỉ cao hơn, so với mức lương lao động trung bình, mà còn cao hơn cả lương của những chuyên gia (kỹ sư, bác sỹ, giáo viên, họa sỹ...), bởi vì đối với chế độ, những người này được xem là có giá trị hơn nhiều so với các chuyên gia; chế độ dựa vào họ chứ không dựa vào các chuyên gia. Do đó về vật chất, các cán bộ đảng được ưu đãi hơn nhiều so với quần chúng nhân dân, họ tách khỏi quần chúng và tạo thành một tầng lớp lãnh đạo xã hội đặc biệt mà ở Ðức gọi là "tập đoàn lãnh đạo chính trị".
Ðặc điểm của tầng lớp này không chỉ thể hiện ở chỗ nó lãnh đạo và điều hành đất nước, mà còn ở cách sống tư bản hãnh tiến với khả năng ưu đãi về tài chính. Trong bối cảnh đó, đảng cầm quyền phát xít bị mua chuộc, còn các cán bộ đảng không tránh khỏi trở thành những kẻ quan liêu, gắn bó với ban lãnh đạo đảng nhiều hơn là với tư tưởng của đảng, gắn bó với tài chính của đảng nhiều hơn là với quần chúng đảng viên.
Ðiều này giải thích một hiện tượng, mới thoạt nhìn tưởng như khó hiểu, rằng trong cuộc sống tinh thần phát xít nghiêm ngặt, những người trong giới cầm quyền chóp bu, được quảng đại quần chúng xem như những tấm gương trong sáng về lòng tận tụy: Hitler, Goring, Gobelx, Himler, Rozenberg, Laị.. - sau thất bại của nhà nước quốc xã mới lộ ra mức giàu có khủng khiếp qua những khoản tiền khổng lồ gửi ở nhà băng nước ngoàị Những người đã từng khơi dậy những tình cảm tốt đẹp trong nhân dân và thế hệ trẻ, khơi dậy lòng căm thù trước những biểu hiện lạc loài (không Ðức), đã đánh cắp tiền của dân đi gửi ở... nước ngoài, chủ yếu là ở các nhà băng Thụy Ðiển! Chỉ với việc xuất bản cuốn sách Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi (Main Kampf), phát hành gần như bắt buộc, Hitler nhận được 4 triệu Dola vào thời kỳ đầu chiến tranh; Gobelx có tài sản ở nước ngoài trị giá 4,6 triệu Dola; Himler có khoảng 6 triệu; người giàu có nhất trong giới cầm quyền chóp bu là Goring, với những biệt thự và lâu đài nguy nga, với nhà tắm lát bằng vàng tấm.
Ðương nhiên, ngân sách của đảng không phải là nguồn làm giàu duy nhất cho bộ máy lãnh đạo. Cùng với ngân sách của Ðảng Công Nhân Quốc Xã, bọn này còn có những vị trí, trọng trách nhà nước tại những cơ sở công- nông nghiệp then chốt, những cơ sở mà vì vai trò đặc biệt của Ðảng Phát Xít cần phải có đại diện được trả lương của đảng. 78 vị trí trong các Ban Quản trị và Cố Vấn quan sát của 24 tập đoàn công nghiệp lớn nhất đều do các thành viên phát xít chiếm giữ.
Nắm trong tay một vài trọng trách đảng, nhà nước cộng với vị trí đại diện danh dự cho một tập đoàn kinh tế nào đó, cho phép bọn chóp bu phát xít làm giàu nhanh chóng. Ðiều này chỉ đặc trưng cho giới lãnh đạo lớn, hơn là các cán bộ đảng cấp thấp. Khi công ty công nghiệp lớn nào đó chọn cán bộ đảng, để đại diện cho quyền lợi của nó trước đảng và nhà nước phát xít, lẽ đương nhiên nó cần những cán bộ cao cấp hơn cán bộ bình thường. Bởi thế trong vấn đề tài chính, giới lãnh đạo đảng chóp bu và những Bí Thư Khu Ủy được ưu ái hơn hết.
Trong vấn đề này càng thể hiện rõ nét bản chất ăn bám của đảng phát xít. Song song với bộ máy nhà nước, bộ máy đảng- bộ máy trên nhà nước (ở Ðức, con số này vào khoảng 800 ngàn người) cũng được thành lập như chỗ dựa xã hội của chế độ. Vì ngay từ đầu đã không có những nhiệm vụ cụ thể, bộ máy ăn bám này hoạt động tích cực một cách giả tạo bằng cách tổ chức những cuộc diễu binh, mít tinh, diễu hành, tuần hành dân chủ, tưởng niệm những địa danh có các chiến sĩ phát xít hy sinh, các chuyến bay tập thể, các cuộc thi thể thao, quân sự, những ngày hội dân tộc, làm tổn hại rất nhiều cho ngân sách nhà nước. Chỉ cần dẫn chứng ra đây "những ngày hội" của Ðảng Quốc Xã tại "Thủ Ðô Ðại Hội" - Nuernberg. Trong suốt cả tuần lễ, Ðảng Quốc Xã phải chịu toàn bộ phí tổn về tàu, xe, ăn, ở... cho hành trăm ngàn người đến từ mọi miền đất nước.
Nếu như ở nền dân chủ tư sản có nguyên tắc cơ bản: "Ai có tiền, người đó có quyền lực", thì tại chế độ phát xít- hoàn toàn ngược lại: "Ai có quyền lực, kẻ đó có tiền", và "quyền lực càng lớn, thì tiền càng nhiều".
Ðiều này giải thích nguyên nhân tranh giành quyền lực điên loạn của các cán bộ đảng và nhà nước, khác xa với cách nhìn nhận về quyền lực tại các nước tư sản dân chủ. Ở các nước này, những người làm chính trị có tài sản riêng (nhà máy, hãng, công tỵ..), bởi thế, về mặt tài chính họ không phụ thuộc vào nhà nước và không phải bao giờ cũng liên quan chặt chẽ đến quyền lợi nhà nước, còn với đảng quốc xã và bộ máy lãnh đạo của nó, thì nhà nước là nguồn thu nhập quan trọng duy nhất. Như vậy đảng phát xít, và đúng hơn bộ máy lãnh đạo đảng, đã biến nhà nước thành công cụ để cùng nhau bóc lột xã hội và nền kinh tế quốc dân.

Việc các tổ chức quần chúng bị đặt dưới sự lãnh đạo, hay đúng hơn - dưới sự kiểm soát của đảng phát xít, không tránh khỏi biến chúng thành những tổ chức quốc gia (vì đảng thống nhất với nhà nước). Từ đó suy ra rằng, các tổ chức này bảo vệ quyền lợi cho nhà nước phát xít, chứ không phải cho những thành viên của mình. Chúng ta hãy lấy ví dụ về Mặt Trận Lao Ðộng Ðức. Trước đây trong nền Cộng Hòa Vaimar, tổ chức tương ứng (những tổ chức công đoàn) bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân trước nhà nước của giới tư sản thông qua các cuộc biểu tình, bãi công, đòi tăng lương, thay đổi điều kiện làm việc, chống việc đuổi công nhân, v.v...
Tất cả những vấn đề này bị thay đổi hoàn toàn sau khi Mặt Trận Lao Ðộng Ðức được thiết lập. Trước hết, là tư tưởng bá chủ của đảng không công nhận bất kỳ mâu thuẫn nào trong quyền lợi nhà nước và các thành viên của tổ chức này. Bãi công, biểu tình, v.v... bị cấm hoàn toàn vì như thế là chống lại nhân dân và nước Ðức. Theo hệ tư tưởng quốc xã, nhân dân, nhà nước, quê hương và lãnh tụ được ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và vì vậy, nếu ai chống lại một mắt xích bất kỳ nào trong chuỗi này, cũng đồng thời chạm tới toàn bộ dây chuyền. Nếu một cuộc bãi công nhằm chống lại chính sách kinh tế nhà nước, thì theo cách suy luận logic quốc xã, nó đồng thời cũng chống lại quê hương và nhân dân. Do đó, trên danh nghĩa nhân dân và quê hương, cần phải đàn áp thẳng thừng cuộc bãi công này.
Trong một tài liệu đặc biệt, việc chống bãi công được vạch rõ: "... Ðàn áp thẳng thừng cuộc bãi công đầu tiên là phương pháp tốt nhất để ngăn chặn và làm gương cho những vụ tái diễn khác." (103-180). Trong diễn văn ngày 17.5.1953, R.Lai, Chủ tịch Mặt trận Lao động Ðức, khi nói về tính chất và nhiệm vụ của tổ chức này đã không quên nhấn mạnh rằng, không thể cho phép các cuộc bãi công xảy ra, "... chỉ có kẻ thù mới quan tâm đến bãi công." (103-127)
Không còn bãi công, tranh luận, bàn cãi. Ðảng Công Nhân Quốc Xã sắp xếp tất cả; hơn ai hết đảng biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Ðảng được công nhận một cách hiển nhiên là không thể sai lầm và bao giờ cũng dẫn dắt nhân dân Ðức (trong đó có Mặt Trận Lao Ðộng Ðức) đi theo con đường đúng đắn nhất. Và nếu con đường này yêu cầu sự hy sinh, thì nhân dân phải sẵn sàng.
Tính chất quốc gia của Mặt Trận Lao Ðộng Ðức không chỉ thể hiện ở chỗ lãnh đạo của tổ chức này là đảng viên quốc xã, và cũng không chỉ riêng trong lĩnh vực tư tưởng, mà còn cả trong chính sách kinh tế hiện thực của nó.
Với sắc luật "Về Trật Tự Trong Lao Ðộng", các hội đồng công nhân từ thời Cộng Hòa Vaimar đều bị xóa bỏ và thay vào đó bằng cái gọi là "Hội Ðồng Tin Tưởng". Chỉ có chủ xướng và lãnh đạo đảng quốc xã tại cơ sở đó mới được quyền đề cử thành viên của những hội đồng này. Tháng 2.1935, hệ thống "sổ lao động" được thiết lập. Trong sổ lao động ghi rõ nơi làm việc, nơi cư trú của người công nhân. Nếu không được sự đồng ý của lãnh đạo nhà máy tương ứng thì người công nhân không thể tự ý bỏ việc làm, vì không còn nơi nào nhận anh ta nữa.
Như vậy nhà nước độc tài phát xít đã đẩy lùi xã hội về sau thời đại của nền dân chủ tư sản tự do, bãi bỏ quyền tự do lao động - quyền lợi đầu tiên lớn nhất của nền dân chủ sau sự sụp đổ của chế độ phong kiến; đồng thời tái lập chính sách lao động cưỡng bức kinh tế ngoại lệ đối với những người lao động.
Về vấn đề này, hệ thống nghiệp đoàn mà phát xít Italia sáng lập ra còn hoàn thiện hơn nhiều. Muxolini đã từng nói: "Nhà nước nghiệp đoàn là hệ thống điển hình và là niềm tự hào của cuộc cách mạng phát xít."(10-53). Bằng 12 liên hiệp ngành nghề của công nhân và chủ xưởng, nhà nước phát xít thâu tóm toàn bộ xã hội công chúng (công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông đường biển, hàng không, đường bộ và đường sông); và kể cả những ngành nghề tự do là liên hiệp thứ 13. Tham gia các nghiệp đoàn này là bắt buộc, bằng cách thu đoàn phí thông qua hệ thống hành chính.
Việc lãnh đạo và kiểm soát của Nhà nước đối với hệ thống nghiệp đoàn được thực hiện nhờ "sắc luật nghiệp đoàn" ban hành ngày 3.4.1926. Theo luật này, "mỗi một dạng chủ xưởng, công nhân, nghệ sĩ, v.v... chỉ được công nhận một hiệp hội hợp pháp" (112-133). Không được phép nhiều hơn, vì như thế sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát của nhà nước và đi ngược lại mục đích cơ bản của nó - đồng nhất xã hội.
Ðối với những hiệp hội được nhà nước công nhận, điều luật đưa ra hàng loạt hạn chế khiến chúng phải phụ thuộc tuyệt đối vào nhà nước:
"(1)Các hiệp hội không được liên kết với những tổ chức quốc tế, nếu không được sự đồng ý của cơ quan nhà nước;
(2)Việc bổ nhiệm hay bầu cử chủ tịch và thư ký các hiệp hội cơ sở sẽ không có hiệu lực, nếu không có công văn xác nhận của bộ chủ quản và sự đồng ý của Bộ Nội Vụ." (112-133)
Thậm chí từ ngày 20.3.1930 Hội Ðồng Dân Tộc Nghiệp Ðoàn đã trở thành cơ quan hợp pháp của nhà nước, đứng đầu là Thủ Tướng chính phủ. Ðiều này đã khẳng định toàn quyền của nhà nước đối với các tổ chức và hệ thống nghiệp đoàn.
Thực chất, phát xít Italia là thí dụ điển hình về việc đảng điều hành bộ máy của nhà nước và thông qua đó mà khống chế toàn bộ xã hội. Những nghiệp đoàn thăng tiến của Tây Ban Nha chỉ là bản sao của hệ thống nghiệp đoàn ở Italia. Chúng chỉ khác nhau một điểm nhỏ là ở Italia các nghiệp đoàn phụ thuộc vào nhà nước nhiều hơn là vào đảng, còn ở Tây Ban Nha Những Nghiệp Ðoàn Thăng Tiến bị đặt dưới sự kiểm soát và giám sát trực tiếp của đảng Falanga.
Nhưng dù có sự khác nhau trong việc thành lập các tổ chức quần chúng tại ba nhà nước phát xít, nguyên tắc chung chỉ là một - nguyên tắc độc tài.
Theo những tài liệu chính gốc, việc đảng phát xít sắp xếp thanh niên vào một tổ chức duy nhất không chỉ nhằm mục đích thâu tóm và kiểm soát họ như một bộ phận nhân dân, mà còn xem tổ chức thanh niên như một công cụ dùng để giáo dục thế hệ trẻ theo tinh thần tư tưởng và ý thức sẵn sàng phục vụ cho sự nghiệp phát xít.
Cũng giống như những tổ chức quần chúng khác, "Thế Hệ Hitler" không có cương lĩnh riêng ngoài cương lĩnh của Ðảng Quốc Xã. Trong tác phẩm Thế Hệ Hitler, Fon Sirah viết: "Nhiệm vụ của tôi là giáo dục tinh thần thế hệ trẻ theo những mục đích, tư tưởng và chỉ thị của Ðảng Công Nhân Quốc Xã, đồng thời lãnh đạo và tổ chức họ." (84-700)
Giới lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã chú trọng đặc biệt đến vấn đề giáo dục tư tưởng cho các thành viên của "Thế Hệ Trẻ" theo tinh thần tư tưởng quốc xã. Trong một bài báo về giáo dục chống tôn giáo cho "Thế Hệ Hitler", Rozenberg viết: "Chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trong sự nghiệp truyền bá tư tưởng quốc xã cho thanh niên Ðức. Tổ chức thanh niên Thiên Chúa Giáo chỉ còn lại những nhóm nhỏ và sắp tới sẽ được sát nhập vào các cơ sở của "Thế Hệ Hitler..." (84-701)
Tổ chức "Thế hệ Hitler" tiến hành nhiều biện pháp đặc biệt nhằm nhồi nhét tư tưởng quốc xã cho thanh niên Ðức; trong đó có việc mở các trường Aldolf Hitler mà chỉ những thành viên xuất sắc được tuyển chọn của tổ chức Người Công Dân trẻ mới có quyền được vào học (84-700).
Ban lãnh đạo Ðảng Quốc Xã tổ chức "Thế hệ Hitler" như lực lượng cán bộ dự bị cho bộ máy nhà nước. Ðảng Quốc Xã chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những đoàn viên thanh niên "Thế Hệ Hitler" ưu tú nhất, và những người có khả năng làm công tác tổ chức thì được gửi vào học tại trường đảng cao cấp Adolf Hitler. Sau khi tốt nghiệp, những người này được đảm nhận công tác lãnh đạo trong bộ máy đảng và nhà nước.
Nếu tin vào những băng ghi âm của X. Rausing thì bản thân Hitler cũng quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo dục thanh niên theo tinh thần quốc xã. Hitler xem số phận tương lai của chế độ quốc xã liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp giáo dục này:
"Tôi cần phải trở thành một nhà giáo dục nghiêm khắc... Chúng ta sẽ bắt đầu một sự nghiệp giáo dục thanh niên vĩ đạị Chúng ta đã già rồi. Chúng ta không còn bầu nhiệt huyết nóng hổi. Chúng ta đã trở nên hèn nhát và mẫn cảm. Nhưng còn thế hệ trẻ tuyệt vời của tôi! Liệu trên thế giới này có gì đẹp hơn không?
Các ngài hãy nhìn những chàng trai và những cô gái trẻ này. Họ tuyệt vời làm sao. Tôi sẽ dùng họ để xây dựng một thế giới mới...
Biện pháp giáo dục của tôi rất nghiêm khắc. Tôi sẽ dùng búa để đẽo gọt và vứt bỏ những gì bị hư hỏng. Chúng ta sẽ tạo nên một thế hệ trẻ mà thế giới nhìn vào phải run sợ. Một thế hệ trẻ hùng mạnh, quyền thế, dũng cảm và không hề biết run sợ. Tôi muốn một thế hệ như thế. Thế hệ trẻ có thể mang được những gánh nặng
bất hạnh trên vai. Tôi không muốn thế hệ trẻ có những biểu hiện yếu đuối và ủy mi.... Tôi sẽ huấn luyện cho họ những bài tập thể lực. Trước hết cần mạnh mẽ: Ðó là điều quan trọng nhất" (52-57).
Theo điều luật về thanh niên, từ tháng 12.1936 "Thế Hệ Hitler" được tuyên bố là tổ chức thanh niên duy nhất ở Ðức có quyền tổ chức và giáo dục thanh niên. Ðiều luật nêu rõ: "Toàn bộ thanh niên Ðức tham gia tổ chức "Thế Hệ Hitler". Ngoài gia đình và nhà trường, thanh niên Ðức còn được giáo dục thể lực, tri thức và đạo đức theo tinh thần quốc xã để phục vụ cho nhân dân và tổ quốc của mình. Sự nghiệp giáo dục này được thực hiện thông qua "Thế Hệ Hitler" (84-699).
Tính chất quốc gia của "Thế Hệ Hitler" được thể hiện rõ ràng hơn trong mối quan hệ của nó với các tổ chức nhà nước phản động nhất như cảnh sát (SS và SA) và quân đội. "Thế Hệ Hitler" tuyển chọn hàng trăm ngàn thành viên của mình cho quân đội. Giáo dục quân sự cho thanh niên được chú trọng cho tất cả mọi hình thức và tùy
thuộc sở thích từng người. "Trong các trường đào tạo cán bộ của "Thế Hệ Hitler" và đặc biệt là tại hai trường cao cấp đều có môn tập bắn súng và huấn luyện trên hiện trường..." (88-298).
Nhà nước độc tài không chỉ quan tâm đến việc thâu tóm mọi công dân vào một tổ chức nào đó, mà còn kiểm soát chặt chẽ từng giai đoạn trong cuộc đời của họ theo lứa tuổi.
Ở Ðức:
Từ 10-14 tuổi thuộc tổ chức Người công dân trẻ.
Từ 14-18 tuổi - "Thế Hệ Hitler".
Từ 18-20 tuổi - các tổ chức đảng SS, SA, v.v...
Từ 20-21 tuổi: Mặt trận lao động.
Từ 21-23 tuổi - tham gia nghĩa vụ quân sự.
Từ 23 tuổi trở đi - tham gia những tổ chức khác nhau của chế độ quốc xã và Ðảng Quốc Xã.
Ở Ytalia:
Từ 8-15 tuổi thuộc tổ chức Balila.
Từ 15-21 tuổi - Abangard.
Từ 21-30 tuổi - công an phát xít.
Sau đó tham gia Ðảng phát xít hay những tổ chức quốc gia cho đến hết đời.
Ở Tây ban nha:
Từ 7-17 tuổi thuộc tổ chức Mặt trận thanh thiếu niên, gồm 3 bậc: con trai - "Mũi tên", "Pelalox", "Thiếu sinh quân"; con gái - "Hạt xoàn", "Mũi tên" và "Mũi tên xanh". Sau đó những người theo học đại học thì tham gia các tổ chức nghiệp đoàn sinh viên quốc gia, còn những người trực tiếp sản xuất - "Nghiệp đoàn thăng tiến".
Với tham vọng thâu tóm và kiểm soát tổng thể xã hội, bọn phát xít còn thành lập những câu lạc bộ quần chúng, kiểm soát mọi hoạt động của con người trong cả thời gian nghỉ ngơi. ở Ðức, tổ chức này mang tên "Sức mạnh niềm vui". "Sức mạnh niềm vui" tổ chức những cuộc gặp gỡ, tọa đàm, những chuyến bay tập thể, những nhóm nghiên cứu va tất cả những gì mà con người có thể làm trong thời gian rỗi, nhưng bắt buộc phải theo tinh thần và nguyên tắc của cộng đồng quốc xã.
Ở Ytalia, tổ chức tương tự được gọi là "Dopolavoro" (nghĩa đen là "sau công việc"). Ðây là tổ chức lớn nhất được thành lập từ năm 1926 như một bộ phận không thể tách rời còn nhà nước nghiệp đoàn phát xít Italia.
4. Ðồng hóa cuộc sống tinh thần.
Sau khi nắm quyền lãnh đạo nhà nước và các tổ chức quần chúng, đảng phát xít phân chuyển sự kiểm soát của mình trên toàn xã hội và cuộc sống tinh thần của nó. Việc kiểm soát này được thực hiện theo hai cách:
(1) Thông qua "tổ chức", "thâu tóm" tất cả những người trí thức vào những hiệp hội sáng tạo dưới sự quan sát của nhà nước;
(2) Thông qua áp đặt tính đảng về cái đẹp, cái tốt, cái xấu, sự công bằng... trong văn học và nghệ thuật.
 
A. Thâu tóm tổng thể giới trí thức vào các hiệp hội.
Với tham vọng kiểm soát tổng thể toàn bộ cuộc sống tinh thần, đảng phát xít cưỡng ép tất cả những người làm công tác sáng tạo trong lĩnh vực lao động trí óc (bác học, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, điêu khắc, kiến trúc, đạo diễn, v.v...) tham gia những hiệp hội tương ứng. ở ngoài các tổ chức, hiệp hội này thì không ai có thể còn là trí thức: nhà văn không còn là nhà văn, diễn viên không còn là diễn viên, nhạc sĩ không còn là nhạc sĩ, v.v...
Vào mùa xuân năm 1935, P. Toliati đã viết: "Hiện nay ở Italia, không ai có thể trở thành nhà văn, giáo viên, giảng viên nếu không phải là đảng viên phát xít. Ðiều này còn được thể hiện ở cả những nghề tự do như luật sư, nhà báo... Tất cả đều bắt buộc phải tham gia đảng phát xít, thâm chí cả bác sĩ: không phải là đảng viên, thì không thể là bác sĩ công chính." (116-80).
Tại nước Ðức phát xít, nguyên tắc này còn được thể hiện triệt để hơn nhiều.
Chỉ thị số 112 của Ủy Ban Văn Hóa Ðế Chế ngày 20.8.1937 vạch rõ sự cần thiết "phải thuộc một hiệp hội nào đó" (178-107). Thực ra vấn đề này đã được tiến hành sớm hơn nhiều bằng sắc luật ngày 22.9.1933: "Mọi sáng tác văn hóa cần được tổ chức lại." (151-195)
Cơ cấu thâu tóm này được thể hiện như sau: "Toàn bộ cuộc sống tinh thần tập trung tại Ủy Ban Văn Hóa Ðế Chế dưới sự kiểm soát của Bộ Trưởng Tuyên Truyền và Giáo Dục Nhân Dân - Tiến sĩ Gobelx. Ủy Ban Văn Hóa có bảy ban: Ban nhà hát, Ban thể hiện nghệ thuật, Ban văn học, Ban điện ảnh... Các ban văn hóa này thâu tóm những hiệp hội tương ứng. Thí dụ Ban nhà hát có những hiệp hội: Hội Sân Khấu Ðức, Hội Diễn Viên Ðức...
Cần phải hiểu chính xác ý nghĩa của những hiệp hội trí thức mà chế độ phát xít tạo ra. Vấn đề không phải là sự tồn tại các hiệp hội trí thức - xã hội nào cũng có những tổ chức như thế, cũng không phải ở việc bắt buộc phải tham gia các tổ chức này, mà là ở vai trò của chúng, bị nhà nước sử dụng như công cụ nhằm kiểm soát giới trí thức. Cũng tương tự như các tổ chức quần chúng quốc gia, những hiệp hội trí thức được thành lập không phải để bảo vệ quyền lợi cho các thành viên của chúng trước hệ thống nhà nước quan liêu, mà ngược lại - đặt quyền lợi nhà nước lên trên quyền lợi của những người trí thức. Thông qua những tổ chức này, nhà nước phát xít bắt giới trí thức phải quy phục. Bởi vì các hiệp hội cũng được xây dựng dựa trên những nguyên tắc quan liêu như nhà nước và đảng phát xít: tập trung cao độ, phục tùng vô điều kiện cấp trên, giao vị trí lãnh đạo cho những kẻ có công lao chính trị, dễ sai... Kết quả là trình độ, khả năng, tài năng và thiên tài bị đẩy lùi. Một hiệp hội trí thức, mà nhiệm vụ chỉ phục tùng, nghe lời nhà nước, theo dõi những tư tưởng và suy nghĩ tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ tư tưởng quốc gia, là một hình thức hủy diệt giới trí thức. Ðiều này thật có lợi cho nhà nước, vì đã không cần dùng chính tay mình để thực hiện mưu đồ đó.
Tập trung cưỡng ép tất cả những người trí thức trong một lĩnh vực vào một hiệp hội, đặt trí tuệ và dốt nát, tài năng và tầm thường vào cùng một vị trí, nhà nước phát xít tiếp tay cho bọn bất tài chống lại những bộ óc thông thái, giúp bọn tầm thường chống lại các tài năng. Hơn thế nữa, nhà nước trao tổ chức vào tay những kẻ dốt nát và tầm thường để chống lại tài năng và thiên tài. Trong các hiệp hội, bọn tầm thường, dốt nát là những kẻ cộng tác đắc lực với nhà nước chống lại tư duy và những biểu hiện tự do của người trí thức. Nhà nước quan liêu và sự dốt nát liên quan chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực tinh thần, vì nâng đỡ sự tầm thường và vô bản sắc là một trong những nguyên tắc cơ bản của đẳng cấp quan liêu.
Ở đây nhà nước phát xít và bọn tầm thường có cùng chung quyền lợi. Nhà nước phát xít quan tâm đến việc hủy diệt tự do suy nghĩ và tính độc lập của giới trí thức, bởi vì điều đó đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản của nó. Nếu nhà nước độc tài cho phép tự do công kích, bản thân chế độ sẽ bị tan rã vì trong công cuộc đấu tranh công khai, những nguyên tắc quan liêu không thể đứng vững trước sức phản kháng của tư tưởng tự do dân chủ. Do đó nhà nước độc tài cần phải hủy diệt giới trí thức chân chính với tính tự chủ, công kích và độc lập của họ. Rõ ràng bọn tầm thường cũng quan tâm đến những vấn đề này, bởi vì trong điều kiện cạnh tranh tự do, chúng không thể thắng các tài năng.
Như vậy với việc thâu tóm tổng thể giới trí thức vào những hiệp hội quốc gia, dựa vào bọn tầm thường như những hạt nhân cơ bản, nhà nước phát xít hủy diệt giới trí thức chân chính và tạo nên một giới trí thức giả danh - tự xem là chiếm được lòng tin cao nhất đối với nhà nước và lãnh tụ dân tộc.
Tuy nhiên đối với nhà nước, quá trình này được nhìn nhận dưới một góc độ khác hoàn toàn. Theo các nhà tưởng phát xít, nhà nước không hủy diệt giới trí thức mà ngược lại chỉ đuổi những phần tử "vô chính phủ" và "hư vô" - những kẻ ngăn chặn và cản trở giới trí thức trong công tác sáng tạo. Khi nâng đỡ bọn bất tài - những kẻ sẵn sàng cộng tác hoặc đã thể hiện được lòng trung thành của mình đối với nhà nước, nhà nước phát xít cho rằng đã sáng tạo được một giới trí thức mới ("chân chính") - giới trí thức sẵn sàng phục vụ nhân dân và nhà nước; đồng thời trao quyền lãnh đạo các hiệp hội cho bọn bán trí thức này.
Ðứng đầu các hiệp hội trí thức ở Ðức là những kẻ bất tài nhất. Chủ nhiệm Ban nghệ thuật là giáo sư A. Sigler, kẻ được Hitler ngưỡng mộ, một họa sĩ dưới mức tầm thường. Hai bức họa điển hình của Sigler - "Nữ Thần Nghệ Thuật" và "Bốn Cơ Cấu" - với tính thực dụng thô thiển và những chi tiết hủ lậu, gây nên nỗi thất vọng vô bờ cho bất cứ người am hiểu nghệ thuật nào. Hội trưởng hội Giáo sư là giáo sư - tiến sĩ Sulxe, kẻ không có tiếng tăm gì trong khoa học nhưng có nhiều công lao chính trị... Và sau hết Chủ tịch Ủy Ban Văn Hóa Ðế Chế là tiến sĩ Gobelx.
B. Nghệ thuật và văn học phải phục tùng đảng phát xít.
Tổ chức những người trí thức vào các hiệp hội không chỉ là mục đích mà trước hết là công cụ, nhằm nhồi nhét tư tưởng và tiêu chuẩn của đảng cho nghệ thuật và văn học. Sau khi đạt được sự thống trị chính trị tuyệt đối trên mọi lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội, đảng phát xít không thể cho phép văn học và nghệ thuật đi ngược lại những quan niệm của đảng về cái hay, cái đẹp, cái xấu, cái tốt, anh hùng, lẽ công bằng... Ngược lại đảng cần phải thấy những tư tưởng thẩm mỹ và tinh thần của mình bao trùm trên mọi sáng tạo nghệ thuật.
Trên cơ sở lập luận như vậy, đảng phát xít tự cho là có quyền giao nhiệm vụ cho những người trí thức; đồng thời đòi hỏi những tác phẩm nghệ thuật của họ phải phù hợp với thị hiếu của đảng. Ðảng phát xít xem văn học và nghệ thuật như những thứ vũ khí đấu tranh hay sự nghiệp giáo dục. Văn học và nghệ thuật chỉ có lợi cho đảng phát xít trong trường hợp duy nhất: dùng những phương tiện nghệ thuật để giáo dục nhân dân theo tinh thần và ý nghĩa của tư tưởng phát xít, nghĩ là mang đến cho nhân dân những tư tưởng quốc xã dưới hình thức nghệ thuật. ở đây văn học và nghệ thuật được xem như công cụ tuyên truyền, chỉ khác tuyên truyền thông thường là có tính lâu bền và tác động sâu sắc hơn. Bí thư Bộ Tuyên Truyền Valter Func đã từng tuyên bố: "Tuyên truyền và lãnh đạo văn học là không thể tách rời." (151-257). Nhưng để có thể thực hiện được chức năng này, văn học và nghệ thuật được giao nhiệm vụ trước tiên phải đi sâu đi sát quảng đại quần chúng, tác động đến quần chúng thông qua việc lựa chọn chủ đề sáng tác và phương pháp thể hiện. Nhiệm vụ đầu tiên này được gọi là Sự Gắn Bó Của Nghệ Thuật Với Nhân Dân. Tiến sĩ Hanx Ciner viết:
"Thống lĩnh muốn nghiệ thuật Ðức phải từ nhân dân mà ra và vì nhân dân phục vụ. Người muốn tác động giáo dục và luân lý của nghệ thuật cần phải được trau dồi hơn nữa.
... Thống lĩnh muốn người họa sĩ Ðức phải từ bỏ tính không cởi mở và phải gần gũi với nhân dân; và điều này cần được phản ánh trong việc lựa chọn chủ đề sáng tác: cần phải mang tính nhân dân, dễ hiểu và phải nằm trong khuôn khổ tư tưởng quốc xã và dũng cảm và anh hùng." (178-200)
Chức năng xã hội mà bọn phát xít giao cho nghệ thuật (giáo dục nhân dân theo tinh thần tư tưởng của đảng), còn được thể hiện rõ ràng hơn trong tờ báo SS Ðội Quân Ðen số ra ngày 25.2.1937: "Chức năng giáo dục của nghệ thuật là dạy bảo nhân dân theo ý nghĩa lành mạnh nhất của từ này, bởi vì nó thức tỉnh trong con người những tình cảm tốt đẹp, khẳng định cuộc sống". (178-200)
Các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật của Ðệ Tam Ðế Chế đều viết trên tinh thần này. Thậm chí cả nhà thợ Nhà thơ Herbert Miulanbah viết: "Nhà thơ chân chính lớn lên cùng với hạnh phúc của dân tộc, và có thể đồng thời mang cả nỗi đau dân tộc trong trái tim mình". (180-317)
Ðể có thể gắn bó với nhân dân, người nghệ sĩ trước tiên phải thông suốt sự nghiệp của Ðảng Quốc Xã, sự nghiệp mà theo tư tưởng của đảng là phản ánh đầy đủ nhất quyền lợi của nhân dân. Vì vậy người nghệ sĩ phải là nghệ-sĩđdảng. Riharg Oringer viết vào năm 1935, "Nền thơ ca quốc xã, và trước tiên là những luật lệ cơ bản của nó, không phải tính cá nhân mà là tính quốc xã đơn giản và thuần túy. Tôi không sợ khi nói rằng, tôi mong đợi một nền thơ ca từ đảng. Ðảng là thể xác của linh hồn quốc xã, và linh hồn quốc xã sống trong thể xác của quốc xã sẽ sinh ra nền thơ ca điển hình của mình". (180-318)
Vấn đề chính trị và tư tưởng được ưu tiên trước tiên, so với nghệ thuật và thẩm mỹ, có thể minh họa bằng những dẫn chứng sau. Trong bài báo nhan đề "Nền kịch nói trong nhà nước quốc xã" đăng trên tạp chí Biune tháng 4.1936, tiến sĩ Vahter Smit viết: "Cái mới nhất là: tư tưởng chính trị được ưu tiên và thể hiện rõ ràng trong văn học và nghệ thuật. Thể hiện trên thực tế những yêu cầu tư tưởng quốc xã trong đời sống ca kịch Ðức là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, mà ngày nay nền ca kịch Ðức phải thực hiện trước tiên". (178-142)
Một nhà phê bình sân khấu khác, tiến sĩ Valter Sang, viết trên báo Berliner Localanxaiger số ra ngày 17.1.1934: "Bằng cách nào để chúng ta thể hiện được những tư tưởng quốc xã trong lĩnh vực ca kịch, đó là vấn đề thời sự nóng hổi... Thay cho thẩm mỹ, ngày nay nội dung tư tưởng cần phải là tính chất quyết định. Mọi tác phẩm nghệ thuật đều có chủ ý, đó là điều không thể chối cãi. Ngày nay những tư duy anh hùng và lý tưởng về thế giới đang trị vì...(179.159)
Tư tưởng chính trị trong nghệ thuật phát xít được coi trọng đến mức ngay cả mốt cũng bị can thiệp. Năm 1941 có tác giả đã viết: "Trong quá khứ nước Ðức chưa hiểu hết ý nghĩa chính trị của mốt. Ðã không nhìn thấy rằng, đồng thời với việc hấp thụ những mốt nước ngoài, một cách sống và ngôn ngữ ngoại lai cũng xâm nhập vào đất nước. Mốt đã được xem như là vô chính trị".(178-255)
Ðương nhiên trong hội họa và điêu khắc, những tư tưởng quốc xã có thể hiện dễ dàng hơn trong ca kịch. Có vô kể những tranh, tượng minh chứng cho điều đó. Một trong những tư tưởng quốc xã là mối quan hệ tinh thần sâu sắc giữa nhân dân và lãnh tụ dân tộc. Bức tranh "Chúng Con Muốn Ðược Gặp Thống Lĩnh" của Doroteia Hauer thể hiện niềm phấn khởi của nhân dân khi Thống Lĩnh xuất hiện. Các em nhỏ đang túm quanh chân những chiến sĩ SS đáng yêu, các chiến sĩ sánh vai nhau tạo thành hàng, và tất cả đều đứng lặng trước Thống Lĩnh kính yêu.
Thể hiện tình yêu của nhân dân đối với đảng quốc xã cũng là một trong những nhiệm vụ của nền nghệ thuật Ðế Chế. Có hàng loạt tác phảm điêu khắc về chủ đề này: người mẹ và con trai đang đứng nhón chân hướng về bầu trời quốc xã.
Một bức tranh thể hiện niềm tin của nhân dân vào chế độ được đặt tại phòng làm việc của Hitler như biểu tượng cho phong trào quốc xã có nội dung như sau: Một cánh đồng trống, phía chân trời đang xuất hiện mặt trời dưới hình chữ thập gãy; nhân dân đang phấn khởi chạy về phía mặt trời quốc xã với cánh tay giơ về phía trước.
Trong lĩnh vực kiến trúc, nguyến tắc thống trị là hình khối thô thiển và "những đường nét lỗi thời" (178-228), thể hiện rõ nét tư tưởng và tham vọng của nhà nước độc tài về vĩ đại. Ðây là sự lạc hậu không thể chấp nhận, vì Ðức là nơi nghệ thuật kiến trúc tân tiến xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu. Ngay từ năm 1932, nghĩa là trước khi bọn phát xít nắm quyền, theo thiết kế của giáo sư Valter Gropiux, "Ngôi nhà Xây Dựng" nổi tiếng đã được thi công tại Dexau. Những đường nét đơn giản, hài hòa và đặc biệt nhẹ nhàng, thanh cảnh đã biến nó thành hình ảnh kiểu mẫu cho kiến trúc tân tiến.
Mặc dù vậy, nền kiến trúc quốc xã vẫn hết sức lạc hậu với những nguyên tắc hình khối thô thiển và cổ điển giả mạo. Những nguyên tắc này được thể hiện trong tất cả các công trình kiến trúc cho đảng và nhà nước, chúng mang dáng dấp lâu đài, thành quách thời phong kiến, nhưng được xây dựng trong xã hội công nghiệp.
Các khái niệm về anh hùng và bi kịch cũng bị thay đổi do những nguyên tắc cơ bản của học thuyết quốc xã về mối liên quan giữa cá thể và xã hội, giữa tự do và trách nhiệm. Về vấn đề này, trong bài báo "Bước ngoặt trong bi kịch" vào tháng 9.1935, báo Baustaine Xur Doitren Nasionalteater, tiến sĩ Herman V.Anderx viết: "Việc phủ nhận bi kịch cá nhân thực sự là một bước ngoặt cách mạng về khái niệm bi kịch. Bi kịch xã hội sinh ra trong quá trình quật khởi và thăm dò, từ những nguyên tắc tư tưởng quốc xã cơ bản và từ những khát vọng vĩ đại về những giá trị tinh thần sâu sắc nhất của nhân cách.
Rõ ràng nó khác xa bi kịch ảo tưởng cổ truyền và bi kịch cá nhân muôn thuở. Bản thân con người không phải là đối tượng của thông tin, không phải là cuộc sống thế giới trong bức tranh vũ trụ. Ý nghĩa và bản chất của bi kịch là nhân dân và cộng đồng; những người Ðức tồn tại trong những phẩm chất và giá trị của dân tộc Ðức. Chế độ quốc xã, như nguyện vọng về giá trị tối cao, chính là bi kịch - bi kịch khẳng định cao nhất cho cuộc sống." (179-159)
Cá nhân riêng biệt không thể là bi kịch, bởi vì trước khi đạt được điều đó, cá nhân cần phải là anh hùng. Mà anh hùng cá nhân thì mâu thuẫn với nhà nước và đảng phát xít, mâu thuẫn với cộng đồng quốc xã. Ðối với con người quốc xã, điều này cấm kỵ, thậm chí không được phép nghĩ tới, bởi vì đảng và nhà nước là những giá trị cao nhất trong nhận thức của các cá nhân. Cá nhân nào chống lại nhà nước phát xít là vô nghĩa và xứng đáng bị hủy diệt như kẻ phạm tội và không bao giờ có thể là anh hùng hay bi kịch. Cá nhân chỉ có thể anh hùng như một phần tử trong cộng đồng (nhà nước, đảng, nhân dân) và chỉ khi phục vụ cho cộng đồng này.
Vì lý do đó, bọn quốc xã công nhận bi kịch tập thể và phủ nhận bi kịch cá nhân. Ở ngoài tập thể và chống lại tập thể thì không thể có anh hùng và bi kịch cá nhân. Từ đây suy ra một cách logic rằng, những đối thủ chính trị của nhà nước độc tài và đảng cầm quyền không thể là những nhân vật bi kịch, vì họ không thể là những người anh hùng. Từ đây cũng dẫn đến những đạo luật man rợ của nhà nước độc tài: làm nhục, buộc tội những tội nhân là phản bội trước khi giết họ.
Ðể có thể thực hiện được những chức năng xã hội và chính trị của mình - giáo dục nhân dân theo tinh thần tư tưởng của đảng quốc xã - nghệ thuật cần phải gần gũi quần chúng, rõ ràng, dễ hiểu, dễ tiếp thu, nói được chính xác với tất cả mọi người theo một ý nghĩa nhất định, không có chỗ cho những cách hiểu bóng gió.
Nói cách khác, yêu cầu của đảng phát xít đối với văn hóa và nghệ thuật không chỉ giới hạn trong việc lựa chọn chủ đề sáng tác phải mang tính đảng, mà còn ở cách thể hiện chủ đề này: quan trọng không chỉ là thể hiện cái gì, mà phải thể hiện thế nào cho thành một tác phẩm nghệ thuật. Tính thực dụng thô thiển và chi tiết vụn vặt được coi trọng hơn cả. Ðây là nguyên nhân dẫn đến lòng căm thù man dại của bọn cầm quyền quốc xã đối với những tư tưởng và mọi hình thái nghệ thuật hiện đại (chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa tân thời, chủ nghĩa hình khối, chủ nghĩa hoài nghi). Năm 1937 những xu hướng nghệ thuật này bị xem là "nghệ thuật thoái hóa" và bị theo dõi gắt gao. Màn giáo đầu cho cuộc bài xích nghệ thuật hiện đại là "Triển lãm Nghệ Thuật Thoái Hóa" tại Miunhen vào tháng 7.1937 theo sáng kiến của giới lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã. Nhân dịp này, Hitler đọc diễn văn, trong đó có đoạn:
"Như vậy tôi đi đến kết luận, rút ra con đường vững chắc cho nền nghệ thuật Ðức và giao cho nông dân một nhiệm vụ duy nhất: bắt nó đi theo con đường mà cuộc cách mạng quốc xã đã mở ra cho nhân dân Ðức.
Ðây là giai đoạn của những sự nghiệp vĩ đại trong mọi lĩnh vực vì sự tiến bộ của con người, quan tâm không chỉ đến những nhu cầu tinh thần cấp thiết mà cả cái đẹp lý tưởng cũng không còn là biểu tượng phô trương điên rồ và hoang dại trong nghệ thuật, của những tàn dư từ thời kỳ đồ đá, của sự mù quáng màu sắc, của những phác thảo thử nghiệm ngờ nghệch bởi những kẻ khùng điên vô tích sự trên đây. Nước Ðức của thế kỷ XX là nước Ðức của nhân dân, những dân tộc Ðức trong thế kỷ này đã được thức tỉnh về cuộc sống, hấp dẫn bởi sức mạnh và vẻ đẹp, và là một dân tộc khỏe mạnh và yêu đời.
Vì mục đích này, toàn bộ gia sản nghệ thuật dân tộc cần được giữ trên nền tảng vững vàng và chắc chắn, để cho những thiên tài thực sự có thể phát triển. Thiên tài không phải là không suy nghĩ" (178-388).
Ðây là lời phê chuẩn của đảng cho nghệ thuật hiện đại. Diễn văn chống "nghệ thuật thoái hóa" được các cán bộ đảng lớn nhỏ, các lãnh đạo những hiệp hội trí thức nhắc đi, nhắc lại. Toàn bộ diễn đàn, đài phát thanh, phim ảnh đưa những phân tích và đánh giá về diễn văn của Quốc trưởng. Một số người gọi bài diễn văn này là lịch sử, số khác - cương lĩng, số khác nữa - mở đầu cho thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn hóa nước Ðức...
Các họa sĩ hiện đại bị gọi là "những kẻ giết nghệ thuật", "những kẻ điên rồ", "những kẻ thối nát", "chậm tiến", còn những tac phẩm của họ - "những tư tưởng thoái hóa vô ý thức". (Ạ Sigler)
Năm 1937 và cả nhiều năm sau đó, xuất hiện hàng loạt bài viết chống "nghệ thuật thoái hóa" dưới nhiều hình thức khác nhau: phê bình, nghiên cứu... Sau khi cuộc tấn công chống "nghệ thuật thoái hóa" trở thành nhiệm vụ quốc gia, toàn bộ bộ máy nhà nước bị thu hút và hưởng ứng chiến dịch này.
Thí dụ trong một bài báo có đoạn viết: "Từ nay chúng ta sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh triệt để nhằm quét sạch những phần tử cuối cùng nghệ thuật thoái hóa."(178-312). Sự thật là bọn quốc xã đã dùng nhiều biện pháp "hiệu quả" để chống lại nghệ thuật hiện đại.
Chiến dịch khủng bố nghệ thuật hiện đại kết thúc bằng sắc luật thu hồi những tác phẩm nghệ thuật "thoái hóa" ban hành ngày 31.5.1938. Theo luật này, "những tác phẩm nghệ thuật thoái hóa được lưu trữ trong các viện bảo tàng trước khi sắc luật này ban hành và theo
nhận xét của Quốc Trưởng là nghệ thuật thoái hóa, có thể sẽ bị tịch thu vô điều kiện vì lợi ích quốc gia... Ðối với những trường hợp đặc biệt có thể áp dụng những biện pháp cương quyết hơn..." (178-337)
"Những biện pháp cương quyết hơn" được thể hiện bằng cách cấp "sổ lao động" cho những họa sĩ hiện đại không muốn sửa chữa sai lầm và vẽ Sự Thật theo thị hiếu của giới lãnh đạo đảng Quốc Xã; tước bằng họa sĩ của họ và biến họ thành những người lao động thể lực thông thường.
Thật ngây thơ nếu nghĩ rằng những hành vi kỳ quặc chống nghệ thuật này ở Ðức chỉ được tiến hành do ban lạnh đạo chính trị chóp bu. Những hành vi này còn được bọn tầm thường trong các hiệp hội trí thức ủng hộ triệt để. Cụ thể là trong những tổ chức quốc gia này, đảng và nhà nước phát xít đã huấn thị cho bè lũ gián điệp của mình - bọn tầm thường và thông qua chúng, chà đạp nền nghệ thuật tự do và chính hiệụ ở đây quyền lợi và sự cộng tác giữa bọn tầm thường và đảng phát xít liên quan chặt chẽ đến mức, dưới con mắt của người quan sát bên ngoài, mọi vấn đề được thể hiện như sau: những nghệ sĩ "chân chính" sáng tạo nghệ thuật, còn những người tân tiến cản trở họ, dẫn đến cần có sự can thiệp của nhà nước; nhà nước liền gạt bỏ những trở ngại này và nền nghệ thuật lại được phát triển theo con đường do Ðảng Quốc Xã vạch rạ
Một câu hỏi lớn được đặt ra: tại sao nhà nước độc tài phát xít lại theo dõi và căm thù vô độ nghệ thuật hiện đại? Ðôi khi người ta đã thử giải thích hiện tượng này bằng chủ nghĩa bài Do Thái, đặc biệt ở Ðức vì một phần trong các họa sĩ hiện đại là người Do Thái. Cách giải thích này không thỏa đáng, bởi vì phần lớn những đại diện của nghệ thuật "thoái hóa" là người Ðức thuần chủng. Thậm chí một vài người trong đó còn là đảng viên quốc xã với những cống hiến nhất định cho đảng này. Thí dụ: Emil Nolde vào đảng cùng thời với Hitler và là một trong những người sáng lập đảng này. Mặc dù vậy, ông ta vẫn bị xem là "thoái hóa" và bị chính quyền theo dõi. Thực chất một vài người trong những họa sĩ hiện đại bị theo dõi vì họ đã vén tấm màn che sự thật. Nhưng cũng chỉ có vài người như thế. Oto Dicx bị xem là "thoái hóa" vì vẽ "màu xám của chiến tranh như màu xám" (151-208), G.Grox - "thoái hóa" vì lên án chủ nghĩa bành trướng, Paul Clei "thoái hóa" vì các "nhà độc tài nghệ thuật" không hiểu được nghệ thuật của ông. (151-208)
Nguyên nhân thực sự là, nghệ thuật hiện đại vượt ra ngoài những khuôn phép mà bọn phát xít áp đặt cho nghệ thuật nói chung - bắt nghệ thuật phải mù quáng phục tùng những tư tưởng chính trị và nhiệm vụ giáo dục của tư tưởng này. Ðặc trưng của nghệ thuật hiện đại là, tự do chủ thể rộng lớn của người họa sĩ trong việc diễn giải chủ đề với những tính chất chủ quan không tránh khỏi, khiến người họa sĩ trở nên ít phụ thuộc vào nguyện vọng và ý muốn của giới lãnh đạo chính trị, nghĩa là tác phẩm của họa sĩ trở thành xu hướng chống đối lại chế độ. Nhưng điều này mâu thuẫn với một trong những nguyến tắc cơ bản của nhà nước phát xít: không cho phép bất kỳ xu hướng chống đối nào.
Ngoài ra nghệ thuật hiện đại không thể trùng lặp với những tiêu chuẩn của nhà nước độc tài, vì nó không thể mang chức năng xã hội - chính trị nhằm giáo dục nhân dân theo tinh thần tư tưởng phát xít. Ðiều này hoàn toàn không thể thực hiện được, bởi vì người họa sĩ có quyền tự do rộng lớn khi thể hiện chủ đề, có thể cho chủ đề những nội dung không lợi cho chế độ chính trị; hơn nữa nghệ thuật hiện đại để cho người xem tự do phân tích, phụ thuộc vào trình độ, cảm hứng và kinh nghiệm cá nhân của họ; và điều này rõ ràng không phù hợp với lối tư duy bất biến của đảng.
Ðể làm sáng tỏ vực sâu ngăn cách giữa những tư tưởng chính trị - văn hóa của nhà nước phát xít và bản thân nghệ thuật, chúng ta sẽ dịch một số lời phát biểu của các nhà văn hóa quốc xã về những yêu cầu đối với nghệ thuật. Vào năm 1937, Gobelx đã nêu quan điểm của mình như sau: "Nghệ thuật Ðức trong những thập kỷ tới cần phải anh hùng, sắt thép, thơ mộng, không mềm yếu, thiếu nội dung, cần mang tính dân tộc, với bầu nhiệt huyết nóng hổi, nghệ thuật hoặc đồng thời vừa có nghĩa vụ và trách nhiệm, hoặc sẽ trở nên vô nghĩa."(151-203)
Tiến sĩ Adolf Fiolner đã trả lời như sau về câu hỏi nghệ thuật mới cần phải như thế nào: "Hình thái phải dễ hiểu và rõ ràng. Nội dung phải nói được với tất cả mọi người. Nội dung nghệ thuật phải phục vụ mục đích giáo dục tư tưởng cho nhân dân. Nghệ thuật cần phải mang sức sống như trước đây. Nghệ thuật cần phải mang tư tưởng đến cho nhân dân. Nghệ thuật cần phải phát hiện những biểu tượng mới mẻ của dân tộc."(178-156)
Dưới đầu đề "Văn học Ðức - Thể hiện Cảm hứng Yêu đời Quốc Xã", báo Filmcurner viết: "Chế độ quốc xã giao cho các nhà văn nhiệm vụ củng cố sức mạnh. Nó đòi hỏi tinh thần trách nhiệm vô điều kiện trước cuộc sống."(120-317)
Tóm lại, yêu cầu của bọn quốc xã đối với nghệ thuật là: nghệ thuật không được xa rời quần chúng, vô chính trị, cá nhân, hoài nghi, hư vô, mềm yếu, tân tiến, vô chính phủ; và nghệ thuật cần phải liên quan mật thiết với quần chúng (Hitler), đi theo con đường mà cuộc cách mạng quốc xã vạch ra (Hitler), anh hùng, thơ mộng (Gobelx), đồng thời vừa có nghĩa vụ và trách nhiệm, hiện thực, phục vụ mục đích giáo dục tư tưởng cho nhân dân, rõ ràng và dễ hiểu cho tất cả mọi người, khẳng định cuộc sống, có hy vọng.
Tác phẩm nghệ thuật nào không đáp ứng được những tiêu chuẩn thẩm mỹ trên của đảng và chế độ quốc xã thì không có quyền tồn tại. Ủối với nhà nước phát xít, những tác phẩm như thế không phải nghệ thuật, mà là chống đối chính trị và cần phải hủy diệt.
Gyom Vaix, một trong những kẻ cộng tác đắc lực cho Gobelx, đã từng phát biểu như sau: "Nếu một tác phẩm nghệ thuật được thể hiện vì những tư tưởng quốc xã, chúng ta cần phải khích lệ. Còn ngược lại, không những chúng ta có quyền, mà còn có nghĩa vụ phải hủy diệt nó. Phê bình nghệ thuật không phải là vấn đề thẩm mỹ, mà là chính trị thuần túy."(155-160)
 
  C. Chấn chỉnh khoa học và đội ngũ cán bộ khoa học.
Trong lĩnh vực khoa học, đảng quốc xã cũng thi hành những chính sách như trong văn học và nghệ thuật. Nguyên tắc cơ bản là, nền khoa học và sự nghiệp nghiên cứu khoa học phải phục vụ cho sự nghiệp của đảng, và chỉ như thế mới có lợi cho xã hội. Từ đây suy ra những kết luận cụ thể như sau:
(1) Toàn bộ nền khoa học và sự nghiệp nghiên cứu khoa học phải được xây dựng theo tinh thần tư tưởng và nhiệm vụ của đảng;
(2) Tất cả những cán bộ khoa học không đáp ứng được vai trò này cần phải sa thải khỏi trường đại học và các cơ sở nghiên cứu, đồng thời bổ nhiệm thay thế những cán bộ quốc xã từng trải.
Tháng 7. 1934, Hội đồng Ðại học gồm những cán bộ đảng dưới sự lãnh đạo của Alfred Rozenberg được thành lập "với nhiệm vụ: kiểm tra tư cách của tất cả cán bộ khoa học trong các trường đại học và nếu có nhận xét tốt thì gửi danh sách cho Hội đồng Bộ trưởng."(151-214) Bằng cách đó, việc bổ nhiệm cán bộ trong các trường đại học phụ thuộc hoàn toàn vào đảng phát xít. Kết quả là hàng loạt cán bộ khoa học bị sa thải vì quan điểm chính trị hay vì nguồn gốc "không thuần chủng". Ðến giữa năm 1937 con số này lên tới 1684 người (103-218), trong đó có các giáo sư Guxtax Fon Berman, Emel Lederer, Edauard Norden... Ngoài ra còn có năm người đã từng được giải Nobel: hai nhà vật lý - Albert Ainstain và Macx Born, và ba nhà y học.
Chỉ riêng trường Tổng Hợp Berlin đã có tới 230 giảng viên bị thải hồi.
Sau khi vấn đề cán bộ đã được giải quyết bằng phong trào "làm trong sạch" đội ngũ, đảng phát xít chuyển sang phần công việc tiếp theo: nhồi nhét tư tưởng quốc xã cho sinh viên và cán bộ giảng dạy, và chấn chỉnh lại công tách nghiên cứu khoa học cho phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nó.
Trong các trường đại học, môn chính trị toàn cầu trở thành mộn học bắt buộc, và nhờ đó mà một loạt bộ môn "khoa học" xuất hiện: kinh tế toàn cầu, chiến lược toàn cầu, pháp luật toàn cầu... và như vậy, cái gọi là "đồng hóa chính trị toàn cầu" (thuật ngữ này do bọn quốc xã sử dụng đầu tiên) các môn khoa học được hình thành.
Nội dung giảng dạy trong các trường học cũng được cải cách theo tinh thần "lý thuyết" chủng tộc. Hitler dạy: "Sự nghiệp giáo dục cần tiến hành làm sao cho trẻ em Ðức ngay lập tức hiểu được nguồn gốc thượng đẳng của mình". (103-205)
Trong công tác nghiên cứu khoa học, khẩu hiệu cao nhất là: phục vụ chế độ quốc xã và tư tưởng quốc xã là trên hết. (155-215)
Kết quả cuối cùng là, trong tất cả các giảng đường và cơ sở nghiên cứu, sự thống trị toàn diện và không thể tách rời của đảng quốc xã được thiết lập - thống trị kể cả về vấn đề cán bộ, cũng như mục đích, ý nghĩa và bản thân nền khoa học.
"Tự do sáng tạo" và "quyền tự trị của các trường đại học" bị hủy diệt hoàn toàn. Hơn thế nữa, các trường đại học còn bắt đầu bị cưỡng ép. Nhà tư tưởng của đảng - Alfred Rozenberg, khi trả lời những công kích ở nước ngoài về những hành động chống "tự do sáng tạo" trong nước Ðức đã nói như sau: "Không bao giờ đảng đe dọa quyền tự do nghiên cứu! Trong công tác nghiên cứu khoa học không hề có đổ máu. Những binh sĩ SA rõ ràng đã mang lại cho sự nghiệp nghiên cứu của nước Ðức nhiều hơn, so với một vài giáo sư trong các trường đại học. Do đó phong trào cách mạng có quyền ấn định những luật lệ của mình cho thế giới mới." (151-213)
Ða phần giới trí thức cộng tác với chế độ và tự thanh minh rằng, như thế cũng là phục vụ cho nhân dân. Những nguyên tắc dân chủ tốt đẹp như tự do ngôn luận, quyền độc lập cho các nhà bác học bị đẩy lùi và bị hy sinh cho những quyền lợi "dân tộc".
Ðó gần như là sự quy phục của giới trí thức trước nhà nước phát xít.