Cấu trúc của một nhà nước phát xít
Phần I(c)

5. Mâu thuẫn giữa đảng phát xít và giới trí thức chân chính.
Tổ chức những người trí thức vào hệ thống hiệp hội quốc gia, nhồi nhét cho họ tư tưởng, tinh thần và thẩm mỹ quốc xã, đảng phát xít thực chất là tước đi của họ mọi quyền tự do, biến họ thành những phần tự lệ thuộc vào đẳng cấp quan liêu.
Ðảng phát xít chỉ trao quyền tự do cho những kẻ sẵn sàng phục vụ và cộng tác đắc lực với nó. Những ai không đồng ý với đảng thì không thể có quyền tự do này và không còn là "trí thức".
Trên đây, đảng phát xít xuất phát từ học thuyết của mình về nhà nước và xã hội, nhà nước và cá nhân. Theo học thuyết này, cá nhân luôn luôn phải phục tùng "tập thể", "cộng đồng". Ðứng ngoài cộng đồng và chống lại cộng đồng thì không thể còn là cá nhân. Tiến sĩ Oto Ditrih, một trong những nhà lý luận của phát xít Ðức viết:
"Cộng đồng là, và bản thân nó là, cái mang đến cá nhân xứng đáng. Con người là cá nhân, không phải vì tự nó thể hiện như vậy. Con người là cá nhân chỉ khi thông qua quá trình sáng tạo trong cộng đồng và vì cộng đồng.
Cá nhân chỉ là cái "tôi" nhỏ nhoi, cô độc. Do đó người nào không tỏ rõ được bản thân mình, thông qua cộng đồng hay thông qua sự công nhận của cộng đồng thì không thể là cá nhân." (36-66,67)
Nói cách khác, người trí thức chỉ là cá nhân khi làm việc cho cộng đồng quốc xã (nhà nước, đảng, nhân dân, tập thể...) và được công nhận có cống hiến cho "cộng đồng". Còn nếu người trí thức chống lại một dạng cộng đồng nào đó, thí dụ đảng phát xít hay nhà nước, thì không thể là cá nhân nữa và cần phải hủy diệt bằng mọi cách. Tất cả những kẻ thù của nhà nước phátt xít đều không còn là những cá nhân: họ là những kẻ phản bội, tráo trở và sa đọa... Từ đây cũng nảy sinh vấn đề về tự do. Oto Ditrih viết tiếp:
"Mọi khái niệm về tự do mà không xuất phát từ cộng đồng là sai lầm và không thể ứng dụng cho bất kỳ nhận thức nào trong mọi lĩnh vực của cuộc sống chung.
Tự do như thế không có tác động khẳng định, mà phá hủy cuộc sống. Do đó cái gọi là "tự do cá nhân" như những đồ đệ của nó khẳng định một cách thiếu suy nghĩ không phải là cái mà thiên nhiên trao cho con người. Thiên nhiên ban cho con người nhận thức về cộng đồng và con người được sinh ra trong cộng đồng."(36-70)
"... Tự do cá nhân là tự do 'từ cái gì', đó là vô trách nhiệm, hỗn độn và sẽ dẫn đến vô chính phủ (tự do cá nhân = vô trách nhiệm và hỗn độn = vô chính phủ! thật là lối tư duy phát xít điển hình! J.J). Tự do sáng tạo là tự do "vì cái gì", đây là tự do của cá nhân, tự do sáng tạo của con người cho cộng đồng. Ðây mới chính là tự do thực sự duy nhất và xứng đáng với tên gọi của nó. Cuộc cách mạng quốc xã về tư tưởng đã mang đến cho chúng ta khái niệm đúng đắn này của tự do và làm cho nó trở thành thực tiễn sống động". (6-70,71)
"... Cái mà bọn cá nhân chủ nghĩa gọi là tự do và một vài kẻ tự do chủ nghĩa tuy không nói ra nhưng thực chất rất mong muốn, không phải tự do mà là vô trách nhiệm.
Tự do 'vì cái gì', tự do sáng tạo cho chế độ quốc xã - ở đất nước chúng ta không cần phải mong ước, bởi vì nó đã có sẵn." (36-74)
Nhưng giả sử có ai đó không muốn sáng tạo cho chế độ quốc xã? giả sử có người mong muốn nhà nước và đảng phát xít trả tự do, người đó có được tự do không? Về những câu hỏi này, Oto Ditrih trả lời công khai: "Nhưng bất kể những phân tích trên, giả sử ở đâu đó vẫn có người đòi hỏi tự do, thì đó nhất định là những kẻ không đồng ý và chống lại cộng đồng quốc xã của chúng ta... Tự do như thế là tự do phá hoại và ích kỷ, và chúng ta không thể cho phép những kẻ đó có quyền như vậy. Chúng ta chỉ mang đến tự do sáng tạo, tự do thực sự có lợi cho cộng đồng." (36-74)
Như chúng ta thấy, những người không muốn cộng tác với nhà nước không những không có quyền tự do sáng tạo mà còn bị xem là "phá hoại" và "ích kỷ" và sẽ bị theo dõi.
Phát xít Italia cũng đặt vấn đề cá nhân - xã hội theo cách đó. "Dân tộc Italia là một cơ thể sống, mà mục đích, sự tồn tại và phương thức sống mạnh mẽ hơn, lâu bền hơn mọi cá nhân và hiệp hội riêng biệt." (36) Guido Bartolto, một trong những nhà lý luận phát xít, trong tác phẩm chế độ phát xít và dân tộc còn xây dựng rõ ràng hơn nguyên tắc cơ bản này: "Ðối với chúng ta sự khác nhau đó là: theo chủ nghĩa cá nhân thì cá thể làm chủ tổng thể, còn theo chủ nghĩa cộng đồng - tổng thể làm chủ cá thể. Giữa hai lĩnh vực này là chủ nghĩa nghiệp đoàn, nhờ đó mà cá thể và tổng thể tồn tại hài hòa." (36-37)
Sự khác nhau giữa chế độ quốc xã và phát xít chỉ là: chế độ phát xít (Italia) dầu sao cũng thử dung hòa giữa tổng thể và cá thể, mặc dù điều đó không bao giờ đạt được trong nhà nước độc tài. Nhà nước độc tài không thể chấp nhận bất kỳ một sự khác biệt nào đối với chính nó, không chấp nhận nhân bản, thậm chí kể cả nhân bản của một nghiệp đoàn.
Vấn đề quan trọng là: nhà nước phục vụ cá nhân, hay cá nhân phục vụ nhà nước, cả Ðức và Italia đều cùng nhất trí hoàn toàn như nhau - sự phục tùng vô điều kiện của cá nhân đối với nhà nước. Từ đây dẫn đến "tự do" của cá nhân để làm việc - cho nhà nước. Ngay từ năm 1933, tên quốc xã Gotfrid Buen, trong bài báo "Nhà nước mới và bọn cá nhân chủ nghĩa", đã nêu chính xác nguyên tắc cơ bản này của chế độ độc tài: "Tự do tinh thần? Trả lời: phục vụ nhà nước." (178-71)
Nhưng mặc những điều kiện khốc liệt trong nhà nước độc tài, mặc dù không có khả năng để tạo nên xu hướng đối lập, sớm hay muộn ở dạng này hay dạng khác, một xu hướng như thế nhất định sẽ xuất hiện. Ðó là quy luật bởi vì ngay cả nền bạo chính dã man nhất cũng không thể tiêu diệt được tư duy. Hơn thế nữa, bản thân nhà nước phát xít, một mặt tiêu diệt tự do tư duy, mặt khác lại bắt buộc phải khuyến khích nó để khỏi lạc hậu so với những nước dân chủ, hay ít ra để khỏi lạc hậu trong lĩnh vực khoa học quân sự. Nhưng tư duy dễ dàng chuyển sang tư duy tự do, thành mâu thuẫn với lối tư duy đang tồn tạị Từ đây tất yếu sẽ sinh ra xu hướng chống lại chế độ.
Trong giai đoạn cực thịnh của nhà nước phát xít, khi nhân dân còn mù quáng tin tưởng vào những tư tưởng của nó và đi theo nó như thời kỳ đầu chiến tranh ở Ðức, xu hướng chống đối này mang tính tiêu cực, bị cô lập, vì không được nhân dân ủng hộ. Khi đó xu hướng này được thể hiện dưới dạng tỵ nạn ở nước ngoài hay "ẩn dật ở trong nước".
Ðến đầu chiến tranh, hàng trăm nghìn nhà bác học, nhà văn, nhà thơ tài ba nhất đã rời bỏ nước Ðức, sống tị nạn ở nước ngoài.
Một bộ phận khác trong giới trí thức, vì lý do nào đó mà không thể sống tị nạn và không bị ném vào các trại tập trung cải huấn, chuyển sang sống "ẩn dật trong nước", nghĩa là không làm việc cho nhà nước, mà làm việc cho chính bản thân mình và chờ thời. Trên quan điểm chính trị, kiểu chống đối này, dù không góp phần làm lung lay chế độ, vẫn là biểu hiện của tinh thần dũng cảm. Nó đòi hỏi quyết tâm và sức chịu đựng, vì thế một khi tinh thần đã cạn những người này thường tự kết thúc đời mình.
Tiếp theo, cùng với sự suy yếu dần của nhà nước phát xít, xu hướng chống đối này ngày càng trở nên tích cực hơn. Nhận thức nhà nước quẩn quanh không lối thoát, chuyển từ mê muội sang quỷ quyệt. Lúc này nhân cách con người bị chia thành hai nửa đối kháng - một mang tính xã hội và một mang tính cá nhân. Nửa nhân cách mang tính xã hội vẫn thực hiện những nhu cầu của nhà nước; nửa nhân cách cá nhân chỉ được thể hiện trước những người thân thích. Sự quỷ quyệt là đặc tính xã hội tổng thể trong giai đoạn suy thoái tư tưởng của chế độ phát xít. Mọi người đều nói những điều trái với suy nghĩ, tán thành những việc mà họ không bằng lòng; đồng thời công kích tất cả những vấn đề này trước những người thân thích.
Tuy nhiên, trong trường hợp này sự quỷ quyệt dầu sao cũng là biểu hiện cao nhất trong quá trình tiến hóa của nhận thức xã hội ở chế độ phát xít, bởi vì người ta đã bắt đầu nhận ra sự thật. Nếu như sự cuồng tín là niềm tin mù quáng, thì sự quỷ quyệt là tư duy phản kháng ngấm ngầm, chưa thể hiện công khai.
Trong hoàn cảnh đó, giới trí thức chưa dám thẳng thừng công kích chế độ phát xít, bởi vì người ta chỉ dám nói sự thật ở những nơi kín đáo và tin cẩn, còn ở ngoài xã hội tất cả đều bắt buộc phải nói dối.
Hành động cao nhất mà giới trí thức có thể làm lúc này là, dùng những sự kiện hay hình tượng lịch sử để nói lên những việc hiện tại đang diễn ra. Thí dụ năm 1935, Vener Bergengruen viết tiểu thuyết Bạo Chúa và Quan Tòa thực chất là "kín đáo buộc tội Hitler." (151-234)
B. Breht, năm 1934, đã viết Năm cái khó cho những người viết về sự thật như sau: "Ngày nay, những ai muốn vạch trần sự giả dối và quyết tâm viết về sự thật đều phải vượt qua ít nhất 5 cái khó. Cần phải dũng cảm để viết về sự thật, vì ở đâu người ta cũng cấm; Cần phải có trí tuệ để nhận ra sự thật, vì ở đâu người ta cũng giấu; cần phải thông minh để biến sự thật thành vũ khí đấu tranh; cần phải có khả năng để chọn những người có thể sử dụng vũ khí này; và cũng cần phải khôn ngoan để truyền bá sự thật cho những người này..." (11-27)
Ưu điểm của cách phản kháng kín đáo này là, tác giả của nó có thể luôn luôn tự bảo vệ. Người ta chỉ có thể nghi ngờ, chứ không buộc tội được tác giả, vì bao giờ cũng có thể nói, rằng không có chủ định như thế... Nhược điểm lớn nhất của cách phản kháng này là không phải ai cũng hiểu và dầu sao thì vấn đề này cũng vẫn không được đặt ra một cách công khai như những vấn đề cần giải quyết hay cương lĩnh hành động. Ngoài ra những người viết theo cách này luôn luôn có cảm giác về kiểm duyệt phát xít, dần dẫn đến tự kiểm duyệt và làm giảm khả năng sáng tạo. Nhà văn Bồ Ðào Nha, Fereir Di Kastru, viết: "Một câu hỏi luôn luôn ám ảnh chúng tôi: liệu người ta có cho in không?" (33-53) Chỉ có những người trí thức vượt qua được vòng ma thuật của cách tư duy quỷ quyệt này, dám viết về những điều mà mọi người vẫn trao đổi kín đáo với nhau, mới đạt thành hệ thống như cương lĩnh nhằm chống lại hệ tư tưởng phát xít. Bằng cách đó, họ trở thành người cách mạng, đặt nhiệm vụ cho mình trên bước đường công danh và không quản ngại những nguy hiểm có thể xảy ra. Ðồng thời những người này trở thành những dại diện cho giai đoạn thứ ba trong sự phát triển của cách tư duy lệ thuộc, khi nhà nước độc tài đã trở nên yếu đuối, đến mức không còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng những người chống đối, và khi sự tan rã của nó đã trở nên rõ ràng. Khi đó những người phải sống giả tạo vứt bỏ cái mặt nạ xã hội và thể hiện khuôn mặt thực sự của mình. Giờ đây họ công khai nói những điều mà họ suy nghĩ.
Do những dữ kiện quá dồn dập (chúng ta không nên quên rằng, chế độ quốc xã chỉ tồn tại vỏn vẹn 12 năm và 4 tháng!) nước Ðức không trải qua giai đoạn này. Diễn biến kinh hoàng của chiến tranh đã tạo điều kiện cho bộ máy khủng bố của nhà nước - Zetapo và SS - đàn áp thẳng thừng mọi xu hướng chống đối. Ngoài ra, trong ngọn lửa chiến tranh tàn khốc, những sáng tạo nghệ thuật theo hướng này rất khó có thể trở thành trung tâm của cuộc đấu tranh chống chế độ. Trong những điều kiện như thế, đảo chính quân sự là hình thức thích hợp và hiệu quả nhất.
Giai đoạn thứ ba này của quá trình tư duy lệ thuộc, trong hình thức điển hình nhất, chỉ xảy ra duy nhất tại nước Tây Ban Nha-Franco sau chiến tranh. Trong giai đoạn này, giới trí thức dựa vào các tầng lớp xã hội, bao gồm những đối thủ của nhà nước phát xít, công khai đứng ra chống lại nhà nước. Họ trở thành những nhà cách mạng, hay đúng hơn, những người dân chủ, bởi vì lúc này những nguy hiểm không còn đáng sợ như trước nữa.
IV. Tư duy uy tín với sự sùng bái lãnh tụ dân tộc
Trong lĩnh vực tinh thần, nhà nước phát xít là nhà nước uy tín. Bởi vì nguyên tắc tư duy cao nhất trong đẳng cấp tập trung quan liêu cao độ của nhà nước trở thành uy tín, thành niềm tin mù quáng vào sự đúng đán của nó. Uy tín được xem như tiêu chuẩn cao nhất của sự thật: không phải uy tín phụ thuộc vào sự thật, mà ngược lại - sự thật phụ thuộc vào uy tín.
Người ta ngấm ngầm công nhận rằng, trong hệ thống đảng cấp quan liêu, cấp càng cao thì suy nghĩ càng ít sai lầm và có nhiều khả năng hơn để chứa đựng sự thật. Với cách tư duy này, cấp cao nhất, nắm trong ty mọi quyền lực, được xem là chứa đựng sự thật tuyệt đối, không còn phải bàn cãi hay nghi ngờ và đòi hỏi phải được phục tùng và tin tưởng vô điều kiện. Thiếu niềm tin này, cơ cấu đó không thể tồn tại. Ðây là dấu hiệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà nước độc tài đến mức, sau ngày 20.7.1944 chánh án tòa án "nhân dân" đã định đề xuất đạo luật với mục đích theo dõi những người nghi ngờ Thống lĩnh và thắng lợi cuối cùng...
Nhưng khi nói đến lối tư duy uy tín như một dấu hiệu đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhà nước độc tài, cần thiết phải xác định cụ thể hơn vấn đề này. Tất cả mọi đẳng cấp quan liêu, mọi chế độ quân chủ, chế độ tư bản, chiếm hữu nô lệ đều có mối tư duy này, chứ không phải chỉ riêng nhà nước phát xít. Cái mới, cống hiến "chính hiệu" của chế độ phát xít trong lĩnh vực này là tư duy độc tài, được phân chuyển tổng thể không chỉ tại các cơ quan, công sở nhà nước, mà còn cả trên toàn bộ xã hội, các tổ chức quần chúng, đến tận những cơ sở công nghiệp, nơi mà những ông chủ được xem như "thủ lĩnh" của nhà máy, công xưởng... "Nguyên tắc tập trung" được nâng lên thành nguyên tắc lãnh đạo tối cao trong đời sống chính trị, kinh tế và tinh thần của Ðệ Tam Ðế Chế và được pháp luật bảo trợ.
Ở Italia, dưới hình thức khác - thông qua yêu cầu phục tùng - lối tư duy uy tín được phân chuyển tổng thể.
 
1.Uy tín và sùng bái.
Trong chế độ độc tài không thể tồn tại uy tín chính trị thực sự. Uy tín thực sự chỉ có trong xã hội dân chủ, nơi mọi cá nhân cạnh tranh trong cùng một điều kiện và ai có khả năng hơn, người đó sẽ chiến thắng; Chỉ có trong những xã hội mà tài năng luôn luôn thắng tầm thường và bất tài.
Do cấu trúc đẳng cấp nghiêm ngặt trong nhà nước độc tài, "uy tín" phụ thuộc vào quyền lực của các cá nhân chứ không phụ thuộc vào phẩm chất công tác và trình độ tri thức của người đó. Nhưng vì quyền lực phụ thuộc vào vị trí cao thấp trong đẳng cấp quan liêu, suy ra rằng "uy tín" phụ thuộc vào địa vị chiếm giữ. Như vậy cái quan trọng không phải phẩm chất và khả năng của con người, mà là địa vị chiếm giữ, thậm chí không phụ thuộc vào việc leo lên địa vị đó bằng cách nào, có xứng đáng hay không. Người ta công nhận, một khi đã có vị trí nào đó cũng đồng thời có đủ phẩm cách cần thiết; rằng cấp trên thông minh và công bằng hơn cấp dưới. Ðây là nguyên tắc cơ bản không thể thiếu cho mọi đẳng cấp quan liêu.
Những đặc thù đặc biệt này của nhà nước độc tài che chở cho nó khỏi lộ nguyên hình là chế độ chính trị và phản động.
Ðồng thời chúng giúp chúng ta phát hiện ra một đặc tính đặc biệt khác: không tồn tại những cá nhân, những công dân vĩ đại có vai trò xã hội không phụ thuộc vào nhà nước.
Trong những điều kiện của nền dân chủ truyền thống, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển của nó có thể tồn tại những cá nhân đại diện cho xã hội trước nhà nước. Họ là nhà văn, diễn viên, nhà bác học hay những người hoạt động chính trị tại những xu hướng đối lập. Do sự cống hiến của mình cho xã hội, những người này có vai trò chính trị đối với nhà nước. Bởi vậy họ có thể đại diện cho những bộ phận, những nhóm công dân, đứng ra phê phán nhà nước hay cán bộ lãnh đạo của các cơ sở nhà nước.
Trong nhà nước phát xít không có các công dân, mà chỉ có những kẻ phục tùng, bắt buộc phải phục vụ và thi hành. Nhà nước phát xít phân chuyển những nguyên tắc của đẳng cấp quan liêu trên cả xã hội công dân. Xã hội không có chút quyền tự chủ nào đối với nhà nước, chứ đừng nói gì đến xu hướng đối lập. Trong hoàn cảnh đó, đương nhiên nhà bác học hay người làm công tác nghệ thuật không có thể đại diện cho nguyện vọng xã hội. Trong nhà nước độc tài, có thể có những nhà văn lớn, nhà bác học lớn, nhà triết học lớn, song họ không thể trở thành những Công Dân, mà chỉ là những công dân đáng tiếc, run sợ rước quyền lực của đảng và nhà nước phát xít quan liêu.
Trên thực tế, chỉ có bọn cầm quyền của chế độ phát xít là đại diện duy nhất cho xã hội công dân. Quyền thống trị chính trị bạo tàn trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội cho phép chúng tự khoác cho mình những đặc tính tốt đẹp nhất: thông minh nhất, uy tín nhất, công bằng nhất, nguyên tắc nhất, trong sạch nhất, v.v...
Nhưng đó chỉ là ánh hào quang giả tạo, xuất phát từ quyền lực chính trị vô hạn. Trong nhà nước phát xít có thể nói, cầm quyền không phải vì thông minh, mà- "thông minh" vì có quyền, cầm quyền không phải vì trong sạch, mà- "trong sạch" vì có quyền, cầm quyền không phải vì có nguyên tắc, mà- "có nguyên tắc" vì có quyền, sau cùng- giữ vị trí lãnh đạo không phải vì uy tín, mà- "uy tín" vì là lãnh đạo chính trị.
Trên cơ sở những phân tích trên, chúng ta rút ra một kết luận quan trọn rằng, trong nhà nước độc tài không có và không thể có những uy tín chính trị thực sự, bởi vì con đường duy nhất để đạt được uy tín là tham gia cộng tác với đẳng cấp quan liêu, nghĩa là muốn có uy tín thì trước hết phải là người nhà nước. Trong vấn đề này sự khác nhau giữ nhà nước phát xít và nền dân chủ tư sản truyền thống là, trong nền dân chủ tồn tại con đường khác, không phải là con đường hành chính, cho những người hoạt động chính trị và điều này có tác động ngược lại, làm thay đổi bản thân hệ thống quan liêu.
Vì lý do này, nhà nước phát xít bắt buộc phải thay uy tín thực sự bằng uy tín giả hiệu, đạt được nhờ bộ máy tuyên truyền khổng lồ của đảng, nhà nước và những tổ chức quần chúng. Hành động này không tránh khỏi bị chuyển thành tôn thờ thần tượng hoang dại và vô độ. Nó tô vẽ cho lãnh tụ những đặc tính siêu phàm, mà về nguyên tắc không thể tồn tại trong cùng một con người. Như vậy, thay cho uy tín, nhà nước tạo nên sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ chính trị. Hitler được thể hiện như con người hoàn hảo nhất: "người bạn của thiên nhiên", "người am hiểu nghệ thuật", "người đồng chí kính yêu", "người bạn của công nhân", "người bạn của nông dân", người bạn của thế hệ trẻ", "con người vì sự nghiệp", "người bạn của các vận động viên". Trên một số tranh ảnh trong thời gian này, Hitler được ghi chú như "người cha của dân tộc", "người cha của nhân dân" (69-75), "người cầm lái vĩ đại", "người anh hùng áo vải"... Hay như các tác giả của Ðệ Tam Ðế Chế viết: "Người am hiểu nền kinh tế nông nghiệp, cũng như kỹ thuật, như nghệ thuật và cả kỹ nghệ đóng tàu." (151-292).
Ở Ytalia, cũng có sự sùng bái tương tự đối với Muxolini. Người ta cũng tô vẽ cho ông những phẩm chất vĩ đại: Ðutre, trong bộ quân phục, đang dùng cuốc chim phá vỡ hòn đá tảng; với thanh gươm trong tay đang chuẩn bị luyện võ; điều khiển máy giặt, lái máy kéo, cỡi ngựa...
Franco ở Tây Ban Nha cũng được giành một sự sùng bái vô độ: "xung quanh tên tuổi ông ta được bao bọc sự sùng bái chưa từng thấy trong lịch sử Tây ban Nhạ Tất cả những gì tốt đẹp đều được gắn cho Tướng Franco: chiến thắng Tây Ban Nha "đỏ", "sự nghiệp xây dựng" nhà nước Tây Ban Nha mớị" (20- 280) Hoxe Garxia đã viết như vậy.
Trong thời gian này ở Ðức, có một số lượng khổng lồ những bài thơ ca ngợi Hitler, ví ông ta như ngọn cờ, như vì sao, như mặt trời... Chúng tôi xin dịch một số khổ thơ như thế.
 
°Trích từ bài "Kính Tặng Thống Lĩnh" của Herman Harder viết năm 1936:
Chúng con yêu người như yêu nước Ðức
Chiến đấu cho Người, cho nước Ðức thân yêu
Và sẵn sàng hy sinh vì Người.
Bởi có Người nước Ðức thành vĩ đại.
............................
Giờ đây chúng con càng yêu thêm nước Ðức và yêu Người - lãnh tụ kính yêu Trong áo vải giản đơn ánh hào quang vẫn tỏa.
(180 - 359)
 
°Trích từ bài "Ðêm Thanh Bình" do Frix Fon Rabenau viết năm 1934:
"Ðêm thanh bình, đêm trong sáng
Tất cả ngủ yên rồi,
Riêng Người vẫn thức thôi
Người
trăn trở nỗi niềm hạnh phúc
Cho chúng con, cho nước
Ðức thân yêu.
Ðêm thanh bình, đêm trong sáng
Tất cả ngủ yên rồi,
Riêng Người vẫn thức thôi
Aldolf Hitler với số phận nước Ðức trong tay
Dẫn chúng con đến vinh quang, bình yên và hạnh phúc
Cho chúng con niềm tin."
(180-346)
 
°Trích từ bài "Vĩ Ðại" do Fon Sirah viết năm 1937 như sau:
Người là hiện thân của vĩ đại lãnh tụ của chúng con, vị anh hùng sao thân thiết và vô cùng giản dị, Người nắn giữ cội nguồn vũ trụ vạch đường đi cho những vì sao, và vẫn hiện nguyên Người mộc mạc, giản đơn, bình dị dường nào.
(180 - 365)
 
° Hay trích từ "Khi Thống Lĩnh Nói" do Carl Emil Ufof viết 1935:
Thống Lĩnh nói! Lời nói thành sự nghiệp và những câu từ bình dị. bỗng trở nên có sức mạnh siêu phàm. Thống Lĩnh nói: lời Người thành pháp luật.
(180 - 366)
 
°Trích từ "Hình Ảnh người Trong Trái Tim Chúng Con" của Hainrih Anacer:
Chúng con mang hình người trong trái tim, Chúng con nâng người trên biểu ngữ! Người vẫn cùng chúng con trên mọi gian lao, dẫn dắt chúng con qua hiểm nguy, giông tố
(180 - 104)
 
°Trích trong bài "Bài Ca Tự Do của Adolf Hitler" do Luxca Irenau viết năm 1933:
Chúng con trao cho Người tất cả mọi trái tim!
Luôn đứng bên Người trong niềm vui và đau khổ!
Hitler muôn năm!
Ðó là bài hát tự do!
Chúng con sẽ chiến đấu như Người hằng mong muốn!
Bình minh đến rồi, tự do vẫy gọi!
Hãy ca vang bài ca nước Ðức tự hào!
Cầu Thượng Ðế!
Xin giúp người tất cả!
Người sẽ chiến đấu và đời đời sống mãi với chúng ta!
°Trích từ bài thơ của Volfarm Crupca (báo Fanalgedihte, Berlin, 1933:
Người đứng đó với đôi mắt sáng
(Hitler không bao giờ có đôi mắt sáng! J.J.)
Dẫn dắt chúng con, dìu dắt chúng con đi, Từ trận thắng này tiếp kề theo trận khác, cờ Ðảng bay quanh Người. Người khẳng định: nước Ðức luôn chiến thắng! Giản dị, đơn sơ, mà vô cùng vĩ đại Người dẫn đầu thế hệ đấu tranh.
Tất nhiên, những khổ thơ như trên chỉ là một phần không đáng kể trong số khổng lồ các bài thơ ca ngợi Hitler. Nhưng chừng đó cũng đủ nói lên rằng, trong nhà nước độc tài, sùng bái cá nhân đã đạt đến mức tôn thờ thần tượng chính trị vô độ. Những nhà thơ tài ba nhất là những người viết được những vần thơ đẹp nhất về lãnh tụ đảng và nhà nước.
Trong lãnh vực báo chí cũng có thể quan sát thấy một hiện tượng tương tự. Chỉ cần Thống Lĩnh đọc một vài lời nào đó, là đủ để cho toàn bộ diễn đàn, như có người chỉ huy, phân tích, diễn giải hàng tuần sau đó. Những lời của Thống Lĩnh được xem như "bước ngoặt số phận" hay "cuộc đảo chính cách mạng" trong lĩnh vực tương ứng.
Adolf Xigler Chủ Tịch Ban Nghệ Thuật Ðức, đã đánh giá bài diễn văn do Hitler đọc nhân kỷ niệm Ngày Nghệ Thuật Ðức năm 1937 như sau:
"Kính thưa Thống Lĩnh kính yêu! Nhân dịp kỷ niệm Ngày Nghệ Thuật Ðức, người đã đến dự; và bằng hành động trong sáng này, Người không chỉ khai mạc cuộc triển lãm này, mà còn chỉ ra con đường đúng đắn cho nền nghệ thuật Ðức. Mỗi người trong chúng con, được vinh dự sống trong những ngày này, là nhân chứng cho bước ngoặc quyết định trong đời sống văn hóa nước nhà. Cuộc triển lãm đầu tiên này được tổ chức theo nguyện vọng và với sự tham gia của người, là khẳng định không còn bàn cãi, rằng cần phải chọn riêng ra những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại. Ngoài ra cuộc triển lãm "Nghệ Thuật Thoái Hóa" đã làm sáng tỏ nguyện vọng của người trước thế giới. Như vậy Ngày Nghệ Thuật Ðức năm 1937 nhờ sự sáng tạo của Người đã trở thành một bước ngoặc quyết định cho nền nghệ thuật Ðức, mà sự vĩ đại cùng tầm cỡ của nó ngày nay chúng con chưa thể cảm nhận được đầy đủ. Song chúng con biết rằng, lúc nào đó lịch sử sẽ viết về sự kiện này như mở đầu cho sự phục hưng mới của nền nghệ thuật Ðức. Chúng con, những họa sĩ Ðức chân chính, xin chân thành cảm ơn Người và chúng con xin hứa với Người là sẽ phấn đấu hết sức mình để xứng đáng với ngày hôm nay." (178- 339)
Báo chí Ðức ngày 20 và 21-7-1937 đăng hàng loạt những bài tán dương diễn văn của Quốc Trưởng đến tận mây xanh.
Diễn văn của Thống Lĩnh hàng tháng sau vẫn được các nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật quan tâm. Nó trở thành chuẩn mực để đánh giá các tác phẩm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tạo của người nghệ sĩ trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, thành cương lĩnh nghệ thuật và phải theo đó mà thực hiện và lãnh đạo.
Khi chiến tranh bắt đầu xảy ra, báo chí Ðức đặc biệt viết rất nhiều về "thiên tài Quân sự" của Thống Lĩnh. Ngày 20-4-1941 Hitler tròn 52 tuổi. Toàn bộ diễn đàn chúc mừng ngày sinh nhật của Thống Lĩnh bằng những bài viết dài, trong đó Hitler được vẽ lên như "vị tướng soái" vĩ đại nhất trong tất cả mọi thời đại. Thiên tài của Thống Lĩnh được tô vẽ bằng những chiến thắng ở Ba Lan, Hà Lan, Pháp...
Ðương nhiên, sự sùng bái Thống Lĩnh được những lãnh tụ đảng khác châm ngòi. Thí dụ, Fon Sirah, Thủ Lĩnh Ðế Chế về vấn đề thanh niên, là tác giả bài thơ "Vĩ Ðại". Sau này tại tòa án Niurnberg, Fon Sirah công nhận: "Tôi tôn thờ Hitler và tôi làm theo tất cả những gì ông ta nói và ông ta viết, như đối với một thần tượng." (88- 320)
Trong diễn văn nhân dịp thành lập Ban Ca Kịch Quốc Gia, Gobelx đã phát biểu như sau: "Ngày nay các ngài được sống trong giai đoạn hạnh phúc và vĩ đại. Các ngài có vinh dự nhìn thấy trước mắt mình một lãnh tụ của nhân dân và nhà nước, đồng thời là người am hiểu và che chở cho nghệ thuật. Người yêu mến các nghệ sĩ bởi vì bản thân Người cũng là nghệ sĩ. Dưới cánh tay thiên thần của Người, một luồng hào quang sán lạn và mới mẻ đang tỏa sáng trên bầu trời nước Ðức." (179-49)
Sùng bái lãnh tụ như mọi sùng bái khác đều có nghi lễ của nó. Trong mọi công sở, văn phòng, giảng đường, trường học, trong từng nhà, từng gia đình, chân dung của Thống Lĩnh được đặt nơi trung tâm trang trọng nhất. Xung quanh chân dung Thống Lĩnh luôn luôn có hoa tươi, thể hiện tình yêu và lòng tôn kính vô hạn của nhân dân đối với lãnh tụ. Thống Lĩnh khai mạc những cuộc triển lãm nghệ thuật lớn, những ngày hội quốc tế và dân tộc long trọng, bổ nhát cuốc đầu tiên và cắt băng khánh thành cho những công trình quan trọng...
Trong nghi thức sùng bái Hitler bao hàm cả cách thể hiện hình ảnh ông ta. Ông ta không thể mệt mỏi, buồn rầu hay chán nản, không thể có yếu điểm và khuyết tật thể chất. Ngược lại, Thống Lĩnh cần trong sạch một cách lý tưởng và thẳng thắn như tia sáng. Mọi họa sĩ và nghệ sĩ nhiếp ảnh có nghĩa vụ phải thể hiện Thống Lĩnh theo những phẩm chất đó.
Nghi thức sùng bái trở nên nghiêm ngặt đến mức bản thân Hitler cũng bắt buộc phải quan tâm đến nó. Các tác giả của Ðệ Tam Ðế Chế định công bố ảnh của Thống Lĩnh, chụp khi ông ta đang viết với cặp kính trên mắt. Nhưng vì hình dáng ông ta với cặp kính hoàn toàn không ăn nhập, bản thân Thống Lĩnh đã xé tấm hình này và cấm không được công bố. Ðồng thời để khỏi phải mang kính, mỗi khi ra trước công chúng, các thư ký của Hitler viết những bài diễn văn hay bài phát biểu cho ông ta bằng kiểu chữ in to. Tuân theo nghi thức sùng bái của mình, nghi thức đòi hỏi Thống Lĩnh phải khiên tốn và gần gũi với những người dân thường, Hitler không bao giờ dùng trang phục trang trọng. Trang phục thường xuyên của ông ta, sau khi nắm chính quyền, là bộ đảng phục, không có dấu hiệu gì khác biệt, so với những đảng viên thường.
Những câu nói, không phải bao giờ cũng liên quan lôgic của Thống Lĩnh, được xem là mở đầu cho thời đại mới của nghệ thuật hùng biện.
"Như mọi thiên tài bẩm sinh, Hitler mang trong mình một thứ văn mỹ hoàn toàn mới mẻ. Những lời của Người không ngọt ngào và đối xứng như bàn cờ. Những câu nói và suy nghĩ của Người giống như những khối nặng, như dung nham thổi bùng lên từ ngọn núi lửa và rơi tự do quanh đây, rồi bằng vẽ đẹp hùng tráng đầu tiên của mình, chinh phục và điều khiển nhận thức con người.
... Những lời nói của Thống Lĩnh giống như những nhát búa gõ vào cánh cửa đóng kín của nhận thức và trái tim chúng ta. Mục đích của Người không phải an ủi, mà là thâm nhập và điều khiển chúng ta." (128- 130)
Những địa danh liên quan đến tên tuổi của Thống Lĩnh cũng trở thành linh thiêng. Người ta còn giữ được cuốn phim quay cảnh Fon Sirah - Thủ Lĩnh Thanh Niên- đang dẫn những thành viên ưu tú của "Thế Hệ Hitler", với ngọn đuốc trong tay đến thăm nhà tù Landberg, nơi Hitler đã viết Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi. (72- 102)
Việc toàn dân học tập Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi, thông qua cơ sở đảng và những tổ chức quần chúng, là một trong những hình thức đặc trưng cho sự sùng bái Hitler. Ðảng phát xít xem nó như cẩm nang cho chế độ quốc xã, còn trong lần tái bản Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi được xem như triết tác của các chiến sĩ lão thành. (78- 142)
Trong những năm cầm quyền của chế độ quốc xã, Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi được xuất bản tới 6,5 triệu cuốn. Thậm chí có những lúc chính quyền với danh nghĩa đảng đã dùng no làm quà tặng cho những đôi vợ chồng mới cưới như quà tặng quý giá nhất cho gia đình tương lai.
Người ta còn tìm được những thước phim trong tài liệu của bọn quốc xã, kể về một bản sao Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi, được gọi là Sách Của người Ðức. Bản sao này được đặt trong hộp đặc biệt, có thể giữ được 1000 năm, thời gian dự trù tồn tại của Ðệ Tam Ðế Chế. Giấy của bản sao được làm từ da trâu theo kỷ nghệ và dụng cụ đặc biệt của thế kỷ XVIII. Một đội thợ mỏ được cử xuống lòng đất đào quặng, và người ta dùng quặng này để luyện kim loại đặc biệt làm chữ viết cho bản sao này!... /72- 10)
2. Biến nhân dân thành quần thể không tính cách.
Rõ ràng, Hitler đã được tôn thờ như thần tượng. Theo lời Hamsic: "Niềm say mê cuồng nhiệt đối với ông ta đã đạt tới đỉnh điểm, mà không một nhà tiên tri tôn giáo nào dám mong ước." (125) Albert Speer, trong hồi ký viết tại nhà tù Spandaux, khẳng định rằng nhân dân "bị ông ta mê hoặc, như chưa từng có dân tộc nào trong lịch sử bị mê hoặc đến mức đó." (125). tất cả những điều này là sự thật. Rất nhiều tài liệu khẳng định như thế.
Tất nhiên khả năng đó của Hitler là do chế độ độc tài mang lại. Trong chế độ độc tài không tồn tại xu hướng đối lập, các đảng phái đối lập, không cho phép công kích, ý kiến xã hội khác với nhà nước; ngược lại, mọi phương tiện tuyên truyền (diễn đàn, đài phát thanh, phim ảnh, nhà hát...) đều đồng loạt tô vẽ cho sự thông thái của đảng quốc xã và lãnh tụ đảng. Ðây là cách giải thích khoa học cơ bản cho việc tôn thờ Hitler vì một nhân cách chính trị không thể không liên quan đến hệ thống chính trị được thiết lập.
Một vài tác giả giải thích khả năng đặc biệt này của Hitler bằng nghệ thuật hùng biện của ông ta và bản thân ông ta cũng tin như thế. Những đúc kết của Hitler về vấn đề này là:
1.Lãnh đạo quần chúng "là nghệ thuật theo ý nghĩa đúng đắn nhất của từ này. Và cũng giống như mọi nghệ thuật khác, cái hoàn hảo chỉ đạt được bằng lao động miệt mài." (90- 130)
2. "Tôi khuấy đảo quần chúng và chưa đi vào vấn đề, trước khi họ bị biến thành quần thể." (99- 131)
3. "Quần chúng như một động vật, chỉ phục tùng bản năng của nó. Ðối với quần chúng, lôgic và lý lẽ là hoàn toàn vô nghĩa." (99- 131)
4. "Tôi mê hoặc quần chúng để từ đó tạo ra những công cụ chính trị."
(99-131)
Và đây là nguyên văn lời bàn của Hitler về vấn đề này với Rausing, Bí Thư Khu ủy Ðanxig:
"Những đối thủ của tôi nhìn tôi nghi ngờ. Họ tự hỏi một cách ghen tị: Làm thế nào mà con người này thành công được trước công chúng? Theo những người xã hội và cộng sản thì quần chúng là một thể độc đoán, chặt chẽ. Quần chúng khống chế các phòng họp và lá những ông chủ trên đường phố. Thế mà tự nhiên có một người chạm đến và ngay lập tức sinh ra một phong trào quần chúng rộng lớn. Ðây là ngẫu nhiên hay do sai lầm của quần chúng? Chúng ta hãy tha lỗi cho các ngài đáng kính đó, nhưng rõ ràng là họ đi lạc vấn đề. và bản thân chúng ta cũng phải trả giá cho những cách thức và biện pháp của chúng ta.
Quần chúng không có đầu óc phê phán, điều này không cần bàn cãi, nhưng không phải theo cách hiểu của các nhà mácxít và những kẻ ngốc nghếch của chúng ta. Quần chúng cũng có những cơ quan công kích, chỉ có điều chúng khác với những cơ quan tương ứng của một con người. Quần chúng như một động vật chỉ phục tùng bản năng của nó. Ðối với quần chúng, logic và lý lẽ là hoàn toàn vô nghĩa. Nếu như tôi đã thành công trong việc tạo ra một phong trào quần chúng rộng lớn nhất trong mọi thời đại, là vì không bao giờ tôi sử xự mâu thuẫn với tâm lý của quần chúng và mạt sát những mẫn cảm của họ. Những mẫn cảm này có thể là nguyên thủy nhưng chúng luôn mang trong mình một sức mạnh thiên nhiên không đổi. Khi quần chúng phải chịu đựng những gì không thoải mái, như ở những giai đoạn đói kém hay lạm phát, họ không bao giờ còn có thể quên được nữa. Quần chúng có bộ máy cảm nhận và suy nghĩ đơn giản. Tất cả những gì họ không hiểu đều làm cho họ sợ. Chỉ khi tôi làm chủ được những quy luật tự nhiên, tôi mới có thể điều khiển được quần chúng. Người ta buộc tội tôi là đã mê hoặc quần chúng. Những nhà tâm lý kinh nghiệm khuyên nên vỗ về quần chúng, giữ ho trong trạng thái mơ màng về quyền bình đẳng. Không, thưa ngài, vấn đề là phải làm ngược lại. Tôi chỉ có thể lãnh đạo được quần chúng khi họ đã bị mê hoặc mà thôi. Quần chúng thờ ơ là mối nguy hiểm ghê gớm nhất cho mọi thứ chính trị. Sự thờ ơ bảo vệ cho quần chúng, là nơi cư trú tạm thời, tích lũy sức mạnh và sẽ bùng nổ những phản kháng bất ngờ, hoàn toàn không mong đợi. Người lãnh đạo nhà nước, mà không thi hành những biện pháp khẩn cấp, một khi thấy quần chúng đã trở nên bình đẳng, thì xứng đáng đưa ra tòa xét xử...
Tôi mê hoặc quần chúng - Hitler nói tiếp - để từ đó tạo ra những công cụ chính trị. Tôi thức tỉnh quần chúng, bắt họ tự nâng mình lên, trao cho họ chức năng và ý nghĩa. Người ta buộc tội tôi là, đã khuyến khích cả những thú tính thấp hèn nơi quần chúng. Hoàn toàn không phải như vậy. Nếu tôi tỏ ra thông minh trước quần chúng, họ sẽ không hiểu tôi; nhưng nếu tôi kích thích được những mẫn cảm mà họ có, họ sẽ chấp nhận ngay lập tức khẩu hiệu do tôi nêu ra. Trong một cuộc họp quần chúng không có chỗ cho nghĩa lý. Và vì tôi cần đến môi trường này, bởi đó là nơi bảo đảm cho những lời nói của tôi có trọng lượng, tôi tập họp càng nhiều càng tốt những thính giả và biến họ thành một quần thể: Trí thức cũng như công nhân. Tôi khuấy đảo quần chúng và chưa đi vào vấn đề, trước khi họ bị biến thành quần thể - Hitler suy nghĩ một lát rồi nói tiếp - Tôi tự khẳng định rằng, trong nghệ thuật chinh phục quần chúng, không ai có thể sánh được với tôi cả, ngay cả Gobelx. Cái đạt được bằng trí khôn là lĩnh vực riêng của Gobelx. Nhưng điều khiển thực sự được quần chúng là điều không thể học được. Và ngài đừng quên rằng, quần chúng càng đông bao nhiêu, càng dễ điều khiển bấy nhiêu. Hỗn hợp quần chúng càng đa dạng bao nhiêu: nông dân, công nhân,viên chức thì càng dễ mang đặc thù quần thể bấy nhiêu. Sẽ không đạt được gì trong cuộc họp những người có văn hóa, những đại diện các tổ chức công đoàn... Ðiều mà ngài khẳng định hôn nay bằng những giải thích lôgíc, ngày mai sẽ bị phủ nhận với những minh chứng đối ngược. Nhưng những gì mà ngài nói với nhân dân, khi họ đã là một quần thể trong trạng thái dễ cảm nhận và hy sinh cuồng nhiệt, sẽ chịu được những công kích lôgíc. Nhưng ngài chớ quên rằng, cũng như trong hệ thần kinh của một cá thể có những điểm mà các bác sĩ không dám động đến, quần chúng có những chỗ đau riêng không thể mạt sát. Một trong những điều tối kỵ này là các vấn đề liên quan đến lạm phát và đói kém. Tôi có thể dễ dàng đòi hỏi quần chúng những hy sinh to lớn, song đồng thời phải chuẩn bị tinh thần cần thiết để giúp họ chịu đựng.
... Ngài hãy làm tất cả những gì ngài muốn, nhưng đừng nói với tôi thêm về mất giá hay lạm phát. Bởi vì quần chúng không thể phân biệt được sự khác nhau giữa chúng." (99-130. 132, 134)
Cái cho phép Hitler biến được nhân dân thành quần thể vô bản sắc, không biết suy nghĩ, không thể công kích, là xuất phát từ nhà nước độc tài, chứ không phải từ khả năng hùng biện của ông ta. Nhà nước độc tài đã làm cho nhân dân thành quần thể, tước đi của họ các đảng phái và tổ chức chính trị, diễn đàn đối lập, tính công khai, ý kiến xã hội, tự do bầu cử, cưỡng ép họ vào các tổ chức quần chúng quốc gia và đặt những tổ chức này dưới sự kiểm soát tổng thể của nhà nước. Nhà nước độc tài đã biến nhân dân thành quần thể, tiêu diệt mọi suy nghĩ, thị hiếu và tư tưởng của họ.
Như vậy ảnh hưởng đặc biệt của Hitler đối với quần chúng không phải là do tài hùng biện của ông ta, mà xuất phát từ bản chất của nhà nước độc tài. Và nếu cần phải đánh giá thiên tài quái đản Hitler thì đó không phải là nghệ thuật lãnh đạo quần chúng, mà là việc đã tạo ra nhà nước độc tài.
Không phải bản thân nhà hùng biện, mà là chế độ chính trị này đã biến các tầng lớp nhân dân khác nhau thành quần thể. Nếu trong một cuộc họp quần chúng lẫn lộn hàng chục nghìn công nhân, nông dân, nhà văn, kỹ sư, bác sĩ... là do họ bị các tổ chức quần chúng, mà trong đó họ là thành viên và không thể không là thành viên, cưỡng ép đến. Tất cả đều hiểu rằng, sự tham gia của mình trong cuộc họp thể hiện tư cách chính trị và cấp trên nhìn vào đó để đánh giá quan điểm của họ. Ðây là đặc thù tự nguyện- cưỡng ép của chế độ phát xít. Nhà nước độc tài thi hành khủng bố và kiểm soát tổng thể và toàn diện, đến mức mọi công dân đều sử xự đúng như nhà nước mong muốn. Người ta đã quen xem mọi hành động của nhà nước là đúng đắn nhất, luôn luôn tán thành với chúng, không hề nghĩ là không ai cho phép họ sử xự khác hơn. Kết quả là họ bắt đầu tự lừa dối rằng. luôn luôn hành động một cách tự nguyện, trong chừng mực cưỡng ép và tự nguyện còn có thể dung hòa với nhau.
Hitler xem việc mê hoặc quần chúng là một trong những điểm cơ bản của nghệ thuật chinh phục quần chúng, nhưng cả điều này cũng chỉ là kết quả của nhà nước độc tài hơn là khả năng hùng biện của ông. Toàn thể nhân dân không thể bị mê hoặc nếu chế độ độc tài không được xây dựng. Chế độ này đã sử dụng mọi công cụ tuyên truyền, cưỡng ép nhận thức của quần chúng một cách có hệ thống, theo một đối tượng nhất định; đồng thời mọi vấn đề chỉ đưa thông tin theo một chiều, phủ nhận và phỉ báng mọi ý kiến phản đối. Sự thật, không một lãnh tụ chính trị nào có thể mê hoặc được quần chúng trong những điều kiện của nền dân chủ tự do, là một minh chứng hùng hồn rằng, nếu không có sự thống trị tuyên truyền thì không thể tồn tại những kẻ mị dân như Hitler, vì các đảng và diễn đàn đối lập ngay lập tức sẽ vạch mặt và đả kích chúng. Nơi nào có công kích và tiếng cười công khai, nơi đó không thể có sự mê muội. Thực chất, bản thân Hitler cũng chỉ mê hoặc được quần chúng và biến họ thành quần thể hoang dại mãi sau khi nắm chính quyền và xây dựng bộ máy nhà nước của mình.
Trước khi Hitler tuyên bố là được thiên mệnh cử xuống làm Thống Lĩnh cho nhân dân Ðức, rất nhiều người đã tin như thế. Ngay từ năm 1933, khi Hitler mới chân ướt chân ráo lên nắm chính quyền, Fon Papen đã tiên đoán như sau: "Trong những thời kỳ khó khăn này, Thượng Ðế nhân từ đã gia ơn đã ban cho nước Ðức một lãnh tụ, để dẫn dắt nước Ðức vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm đến tương lai hạnh phúc huy hoàng." (88- 397)
Các nhà thơ cũng sáng tác dựa trên tinh thần này. Ðảng Quốc xã và Hitler khuyến khích những tâng bốc vô độ, vì chúng nhìn thấy trong đó công cụ thống nhất nhân dân để xây dựng sự thống nhất tinh thần- chính trị bền vững. Kết quả là không chỉ đảng và nhân dân, mà ngay cả Hitler cũng tin vào "sự thật" này.
Trong vấn đề này, những suy nghĩ của Ialmar Saht về Hitler tại tòa án Niurnberg rất tinh tế:
"Tôi nghĩ rằng, ban đầu ông ta không có những tính cách xấu xa như vậy; rõ ràng ông ta là nhà tư tưởng, mong muốn những điều tốt lành, nhưng dần dà ông ta trở thành nạn nhân cho sự tôn thờ của quần chúng nhân dân, bởi vì những kẻ làm tha hóa quần chúng đều kết thúc bằng việc bị quần chúng tha hóa.
Những mối quan hệ tương tự giữa người lãnh đạo và những người dưới quyền, dẫn đến việc người lãnh đạo bắt đầu sai lầm phục tùng bản năng của quần chúng, điều mà tất cả những lãnh tụ chính trị cần phải tránh xa." (80- 164)
3. Tôn thờ các lãnh tụ đảng và nhà nước khác của chế độ phát xít.
Cấu trúc hình kim tự tháp của nhà nước phát xít tạo ra sự tôn thờ cá nhân cán bộ lãnh đạo chính trị, vì người này không thể bị thay đổi từ phía dưới, không bị kiểm soát và có quyền lực vô hạn đối với những kẻ thừa hành của mình. Vấn đề chỉ còn là mức độ của sự sùng bái này, rõ ràng là phụ thuộc trực tiếp vào khả năng quyền lực mà người đó nắm giữ. Quyền lực càng nhiều bao nhiêu, sùng bái càng lớn bấy nhiêu. Như vậy sùng bái không có gì khác hơn là uy tín giả tạo, mà sức mạnh ghê gớm của quyền hành sinh ra chung quanh một cá thể, chỉ có điều cả người này và những người xung quanh đều tin là thật. Vì vậy uy tín này chỉ tồn tại khi quyền lực bạo tàn và vô hạn còn nằm trong tay cá thể đó. Mất quyền lực hay chính quyền sụp đổ, cũng đồng thời mất luôn uy tín và sự tôn thờ.
Trong đẳng cấp tôn thờ của Ðệ Tam Ðế Chế, Hitler chiếm vị trí cao nhất. Ông ta là tuyệt đối và lý tưởng, tương ứng với quyền hành tuyệt đối và vô hạn của Thống Lĩnh. Ông ta ở khắp nơi và biết hết mọi điều như Ðức Chúa Trời.
Sau Hitler đến các thủ lĩnh chính trị khác.Trong các công sở, trường học... chân dung của Goring, Himler, Hex... được treo bên cạnh chân dung của Thống Lĩnh ở những vị trí trang trọng nhất. Ðường phố, trường học, nơi công cộng... thường mang tên một thủ lĩnh vĩ đại nào đó. Quỹ giúp đỡ những người làm công tác nghệ thuật mang tên "Herman Goring"...
Các bài phát biểu và "những công trình" của lãnh đạo đảng và nhà nước được xuất bản ngay tức khắc với số lượng khổng lồ. Huyền Thoại Thế Kỷ XX của Rozenberg được xuất bản tới hai triệu cuốn.
Các nhà báo thường nhân cách hóa những thủ lĩnh đế chế như những nhân vật thơ mộng. Hanx Frixrih Blunc, trong bài báo "Các Nhà Lãnh Ðạo Chính Trị mới", đã mô tả như sau: "Cách đây 20 năm, họ là những họa sĩ trẻ hay nhà thơ mơ mộng, đã từng rung cảm về tình yêu và tự do của dân tộc và từng hạnh phúc về một buổi dạo chơi với người bạn gái ngây thơ." (180- 168)
Báo chí thường xuyên công bố long trọng ngày sinh của các Thủ Lĩnh chính trị. Bằng vách đó, nhắc nhở một cách hệ thống vai trò của đảng quốc xã như lực lượng lãnh đạo trong Ðệ Tam Ðế Chế, luôn luôn nhồi nhét vào ý thức của mọi công dân rằng, nước Ðức không thể tồn tại nếu không có đảng quốc xã. Thí dụ báo Nasional Xaitung trong số ra ngày 24- 4-1941 đã viết về Rudolf Hex được gọi là "linh hồn của đảng". Nếu như chúng ta hỏi tái sao Phó Thống Lĩnh lại được tặng danh hiệu cao quý này, thì câu hỏi này có thể trả lời không chút khó khăn: không một sự kiện nào trong cuộc sống chúng ta mà lại không liên quan đến tên tuổi của Phó Thống Lĩnh. Người vô cùng năng động và sáng tạo trong công tác và mọi lĩnh vực, đến mức không thể nói lên bằng một vài lời... Rất nhiều biện pháp được chính phủ triển khai, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quân sự và trong đảng là do sáng kiến của Phó Thống Lĩnh." (90- 211)
Và đây là lời chúc mừng của báo chí nhân dịp Alfret Rozenberg, nhà tư tưởng của đảng quốc xã, nhận giải thưởng Dân Tộc Ðức năm 1937: "Alfet Rozenberg với những tác phẩm của mình đã giúp đỡ đặt nền móng cho những cơ sở tinh thần và khoa học, củng cố và phát triển triết học quốc xã... Chỉ tương lai mời có thể đánh giá được đầy đủ cống hiến của Alfet Rozenberg cho những cơ sở triết học của nhà nước quốc xã." (90- 231)
Như chúng ta đã nhiều lần nhấn mạnh, cơ sở của sự sùng bái nằm trong quyền lực ghê gớm và vô biên mà nhà nước quốc xã trao vào tay giới cầm quyền chóp bu.
Bản thân cấu trúc quan liêu tự tiến dần đến tập trung quyền lực. Do đó, các cán bộ trong đẳng cấp này luôn có tham vọng thâu tóm quyền lực về tay mình. Ðây là một trong những điều kiện quan trọng nhất, để có thể đứng vững trước những cuộc tranh giành quyền lực ngày càng nhiều.
Lúc đầu, Hitler chỉ mới là lãnh tụ tối cao và Thủ Tướng chính phủ. Bằng sắc luật ra ngày 1.8.1934 Hitler sát nhập trọng trách Tổng Thống và Thủ Tướng, thâu tóm quyền lực Tổng Thống vào tay mình. Ngày 4-2-1936, Hitler tự phong làm Tổng Chỉ Huy Tối Cao các lực lượng võ trang Ðức. Như vậy, Hitler vừa là lãnh tụ tối cao của đảng, nhà nước và các lực lượng vũ trang (Thống Lĩnh, Thủ Tướng, Tổng Chỉ Huy Tối Cao), nghĩa là không còn chút quyền hành nào lọt qua khỏi tay ông ta.
Goring mới đầu chỉ là Bộ Trưởng Bộ Không Bộ của chính phủ Hitler, dần dần biến thành Bộ Trưởng Bộ Không Quân, Tướng Lĩnh SS và SA, Toàn Quyền Ðặc Biệt của Kế Hoạch Bốn Năm, Nguyên Soái Ðế Chế, Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Phòng, Giám Ðốc Sở Mật Thám Zetapo tại Pruxia.
Albert Speer là Bộ Trưởng Vũ Trang và Công Nghiệp Quân Sự, đại diện trong văn phòng đảng về những vấn đề kỹ thuật, Hội Trưởng Hội những Nhà Kỹ Thuật Ðức, Tướng Lĩnh SS, SA...
Ðiều này chỉ ra, thực chất quá trình tập trung quyền lực vào một số người, đứng trên pháp luật và lương tâm, nhưng lấy danh nghĩa là theo nguyện vọng của Thống Lĩnh, quyền lợi của đảng và nhân dân, mang hình dáng hoàn thiện của nhà nước độc tài phát xít.
4. Sùng bái đảng phát xít.
Việc đảng phát xít được xem là thông thái tuyệt đối và không thể sai lầm cũng xuất phát từ quyền lực vô hạn của nó. Tất cả đều phải phục tùng vô điều kiện nguyện vọng của đảng: nhà nước, các tổ chức quần chúng, những cơ sở văn hóa... thậm chí cả những vấn đề riêng tư của gia đình và cá nhân. Cuộc đời người chỉ được xem là có nghĩa nếu có cống hiến gì đó cho sự nghiệp của đảng quốc xã.
Ðảng là uy tín tối cao về chân lý, sự thông thái, lẽ công bằng. Ðảng không cần phải giải thích với bất cứ người nào về những hành động của mình, mà xem đó như thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả. Chân lý là những gì phù hợp với quyền lợi của đảng và giới lãnh đạo chóp bu. Ðối với chế độ phát xít, không tồn tại chân lý khách quan, không phụ thuộc vào nguyện vọng và mục đích của đảng.
Tại đại hội đảng tháng 9-1935, Hitler tuyên bố, "Uy tín của đảng cần được chấp nhận như tòa án tối cao, như cấp kiểm soát và quyết định cuối cùng. Ai không hiểu được điều đó thì không có quyền suy nghĩ về lịch sử, sáng tạo và cấu trúc... ở đây, không thể nêu vấn đề sai lầm hay không sai lầm. Giống như một tướng lĩnh, một cấp chỉ huy, một đội quân hay thậm chí một người lính không có quyền nghi ngờ về sự đúng đắn của các mệnh lệnh được giao trong lãnh đạo chính trị và đeo đuổi mục đích, một cá nhân riêng biệt không thể hành động theo những quan điểm mà mình cho là đứng đắn và xem những quan điểm, chỉ thị và mệnh lệnh của đảng là sai lầm." (128- 270,271)
Từ cách "nhận thức" như trên về đảng dẫn đến không ít những luân lý độc tài, rằng đảng luôn luôn quang minh chính đại. Do đó mọi hành động xa rời đường lối của đảng đều là sai lầm và cần phải loại bỏ.
Trong điều lệ đảng ghi rõ: "Phục vụ cho phong trào (phong trào quốc xã- J.J.) là đúng đắn và cũng là phục vụ cho nước Ðức." (89-25) Gobelx năm 1933 còn xây dựng rõ ràng hơn nguyên tắc tinh thần cơ bản này của đảng: "Tất cả những gì phục vụ cho chế độ quốc xã là đúng đắn, tất cả những người làm hại đến chế độ quốc xã là xấu xa và cần phải gạt bỏ." (119-126)
"Ðứng ngoài phong trào quốc xã thì không thể phục vụ cho nước Ðức và nhân dân Ðức, bởi vì- như chúng ta đã nhiều lần nhấn mạnh- trên quan điểm tư tưởng của chế độ quốc xã, đảng đồng nhất với nhà nước, nhân dân và quê hương. "
Theo cách suy luận lôgíc này, đảng quốc xã có quyền lấy danh nghĩa nhân dân để loại bỏ tất cả những gì không phù hợp với thị hiếu và nguyện vọng của nó. Trong tập san lý luận của đảng quốc xã, Gương Mặt Ðảng, có đoạn viết: "Cần phải sử dụng những biện pháp, và nếu cần - cả những biện pháp trừng phạt - nếu như cá nhân có những hành động làm tổn hại đến bản thân và những người xung quanh." (89-16)
Cá nhân không có quyền và không thể đánh giá, khi nào thì những hành động của mình có hại đến bản thân và những người xung quanh. Chỉ có đảng quốc xã mới có quyền đó và sử dụng những biện pháp tương ứng để "giúp đỡ", không cần quan tâm đến việc người đó có yêu cầu hay không. Theo quan điểm của đảng phát xít, cá nhân cần phải cảm thấy hạnh phúc trong những điều kiện mà đảng cho phép. Cá nhân có thể có cách nhìn nhận về hạnh phúc, khác với kiểu hạnh phúc tập thể quần chúng- kiểu hạnh phúc cơ bản của mọi nhà nước phát xít, nhưng điều đó là vô nghĩa.
Sự sùng bái đảng phát xít còn được thể hiện trong những cống hiến đối với đảng.Trong lý lịch cá nhân cần phải nêu bật đã có những cống hiến gì cho đảng quốc xã, có phải là đảng viên không, vào đảng từ bao giờ, trước hay sau khi đảng nắm chính quyền được đặc biệt chú trọng.
Trong đơn xin việc, hay xin tham gia một tổ chức nào đó, nhất thiết phải nêu rõ những vấn đề như trên, đồng thời phải khai những chi tiết tương tự về cả những người thân thích của mình.
Tóm lại, đảng quốc xã là giá trị cao nhất trong nhà nước phát xít. Vì vậy một khi đã có những cống hiến cho đảng, thì điều đó được xem là cơ sở chính trị tốt nhất và những người như thế có thể xứng đáng cho bất kỳ vị trí công tác nào, thậm chí cả những nơi đòi hỏi phải có trình độ học vấn caọ Vấn đề quan trọng không phải bằng cấp, khả năng tri thức, bậc thợ, mà là sự hy sinh và những cống hiến cho đảng phát xít và lãnh tụ.
Ðể "củng cố" uy tín chính trị và bảo vệ sự sùng bái cho đảng, hàng loạt tượng đài, ghi nhớ công lao những chiến sĩ đã hy sinh vì thắng lợi của "cuộc cách mạng quốc xã", đã được xây dựng.
Nhưng vì đảng là một khái niệm tổng thể không biết suy nghĩ, đồng thời lại phải trao tư duy cho những thành viên không biết suy nghĩ của mình, nên tư duy tổng quát này cần được chấp nhận một cách chung nhất. Trong thứ bậc của đảng quốc xã, tư duy này không thể là của người nào khác ngoài lãnh tụ của đảng. Như vậy, tư duy của lãnh tụ trở thành tư duy của đảng, và tinh thần của lãnh tụ cũng trở thành tinh thần của đảng. Những đặc tính cá thể của một nhân cách trở thành của chung và đặc tính chung của đảng nằm trong nhân cách của lãnh tụ. Từ đó, suy ra đảng và lãnh tụ không thể tách rời, hay đúng hơn- đảng là lãnh tụ. Lãnh tụ ca ngợi đảng, cũng chính là ca ngợi mình; và đảng tô vẽ cho lãnh tụ thêm vĩ đại, cũng chính là khẳng định giá trị của mình.
Tại đại hội đảng ngày 16-9-1935 ở Niurnberg, chính Hitler đã nêu rất chính xác nguyên tắc này:
"Ở đây, cần phải chấn chỉnh lại một quan niệm sai lầm của một số công dân khi họ nói: "Lãnh Tụ đúng đắn, nhưng còn đảng là chuyện khác". Hoàn toàn không thể như thế, thưa các ngài! Lãnh Tụ là Ðảng và Ðảng là Lãnh Tụ. Tôi có cảm giác mình như một bộ phận của đảng, thì đảng cũng phải là một bộ phận của tôi. Tôi không biết bao giờ mình sẽ từ giã cõi đời. Nhưng đảng thì tiếp tục sống mãi. Và đảng, thông qua mọi cá nhân, yếu đuối cũng như dũng cảm, sẽ làm nên tương lai huy hoàng cho dân tộc Ðức; tôi tin tưởng và tôi biết như thế!" (128-272,273)
Sự khác nhau giữa một đảng chính trị thông thường và đảng phát xít là, đối với một đảng chính trị thông thường, các đảng viên giữ được nhân cách, suy nghĩ và trách nhiệm của mình, còn đảng phát xít thì tước đoạt toàn bộ những cái đó và biến những thành viên của mình thành công cụ vô bản sắc. Ðiều này giải thích tại sao đảng phát xít có tất cả, trong khi các đảng viên của nó không có gì. Nếu các đảng viên muốn có được quyền lợi nào đó, họ chỉ có thể nhận được thông qua đảng: Ðiều này đúng cho cả lĩnh vực vật chất cũng như tinh thần. Từ đó sinh ra niềm tin của các đảng viên, rằng cái gì đảng cũng có thể làm, cái gì cũng có thể biết, sinh ra thần tượng đảng và sự tôn thờ.
Sự sùng bái đảng phát xít đòi hỏi đảng được công nhận không chỉ là vĩ đại, mà còn đồng thời phải thân thiết và gia ơn cho những người tin tưởng vào nó.
Ðảng quốc xã được thể hiện như "trách nhiệm và nguyện vọng" của nhân dân. Trong những giờ phút lịch sử hiểm nghèo, đảng như một anh hùng huyền thoại đã cứu thoát dân tộc Ðức khỏi bị hủy diệt ngay trên bờ vực thẳm. Hitler từng tuyên bố trên diễn đàn tại Ðại Hội Ðảng: "Ðảng quốc xã đã mang lại những cống hiến không kể xiết. Không phải các nhà kinh tế, các nhà bác học, giáo sư, những người lính, các diễn viên, những nhà tư tưởng, nhà thơ của chúng ta, mà là sách lược chính trị đặc biệt của đảng đã cứu thoát dân tộc Ðức khỏi hiểm nghèo. Ngày nay chúng ta mới cảm nhận được phần nào công ơn của đảng. Chỉ có các thế hệ tiếp theo mới đánh giá được đầy đủ giá trị vĩnh hằng của đảng.
Rồi đây, tất cả mọi cái rồi sẽ mất đi, chỉ riêng đảng là vẫn sống mãi." (128-269)
5. Sùng bái và trách nhiệm.
Hơn ai hết, nhà nước phát xít nói nhiều nhất về trách nhiệm - trách nhiệm chính trị, lịch sử, tinh thần v.v... nhưng thực tế bản thân nó lại hoàn toàn vô trách nhiệm. Ðiều này có thể giải thích dễ dàng.
Sau khi sát nhập với đảng phát xít, nhà nước trở thành chủ soái của toàn bộ đời sống xã hội. Tất cả đều phải có trách nhiệm trước nhà nước: các tổ chức quần chúng, các hiệp hội trí thức, mọi công dân, mọi gia đình...
Như vậy, nhà nước là chủ soái của tất cả, còn Ðảng Công Nhân Quốc Xã là chủ soái của nhà nước. Tất cả đều phải có trách nhiệm với nhà nước, kể cả xã hội công chúng, còn nhà nước phải có trách nhiệm trước Ðảng Quốc Xã.
Nhưng, một khi nắm trong tay toàn bộ quyền hành và số phận của nhà nước và xã hội, đảng quốc xã không còn phải chịu trách nhiệm trước bất cứ ai ngoài chính bản thân mình. Song thế nào là một đảng chịu trách nhiệm trước bản thân mình, khi đảng này được xây dựng trên nguyên tắc tập trung quan liêu? Ðiều đó có nghĩa là đảng này phải chịu trách nhiệm trước lãnh tụ cao nhất của mình. Chúng ta nhận được bức tranh toàn cảnh như sau về đẳng cấp vô trách nhiệm: xã hội chịu trách nhiệm trước nhà nước, nhà nước- trước đảng phát xít, đảng phát xít- trước lãnh tụ của mình.
Do đặc tính tập trung cao độ của đảng và nhà nước phát xít, tất cả đều phải chấp hành mệnh lệnh và chỉ thị của cấp cao hơn. Ðồng thời thói cơ hội cùng tham vọng quyền hành và tiền tài trong mọi cán bộ khiến kẻ đó thêm bớt ít nhiều trong khi thừa hành mệnh lệnh. Người cán bộ không thể từ chối không thi hành mệnh lệnh, mà chỉ có thể thực hiện thật tốt hay ít ra là ở mức trung bình. Trường hợp từ chối không thi hành mệnh lệnh, người đó sẽ bị loại ra khỏi "trò chơi" với lề luật hà khắc.
Ðiểm đặc biệt này của chế độ độc tài cho phép các tội nhân của chính quyền lẫn trốn và đùn đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn. Khi phải trả lời trước tòa về tội lỗi của mình, tất cả các cán bộ cấp thấp đều nói rằng, họ chỉ là những người thừa hành nhiệm vụ, mệnh lệnh hành chính và không có quyền lựa chọn, hay mạo hiểm từ chối không thực hiện.
Khi ra trước tòa (thí dụ như tòa án Niurnberg) cho thấy một điều quái đản là, không ai có lỗi cả: có nạn nhân, tội ác nhiều vô kể, nhưng những kẻ giết người, nhưng tội nhân thì không có. Không ai tán thành cùng với Hitler, đa phần bí mật công kích ông ta, những người khác thì chống lại, nhưng mặc dù vậy, tất cả đều tham gia vào những tội ác kinh hoàng chống lại con người và loài người. Chỉ một mình nhà độc tài đã chết là có tội. Và nếu không có Hitler thì những tội ác tương tự chắc chắn đã không thể xảy ra! Thật là kiểu bao biện chưa từng có trong lịch sử!
Chỉ một mình nhà độc tài đã chết là có tội, chứ không phải là chế độ chính trị quốc xã (duy nhất chỉ riêng Speer có ý kiến ngược lại). Và những người khác không thể theo ông ta, vì như thế là công nhận mình cũng tham gia gây tội ác và phải chịu trách nhiệm. Nhưng một mình Hitler có thể xây dựng chế độ này không? Liệu một người duy nhất có thể làm được điều đó không?
Goring khai trước tòa rằng không đồng ý với Hitler trong vấn đề hủy diệt người Do Thái, nhưng không thể ngăn cản ông ta được. Fon Sirah khẳng định vì quá tin tưởng vào Hitler nên mãi tận giờ phút cuối mới vỡ lẽ là ông ta phạm tội. Caitel và Iodul, những kẻ thiết kế các đồ án quân sự phản động nhất của phát xít Ðức và đã ký những sắc lệnh giết hàng loạt tù binh, cũng biện bạch là bị Hitler cưỡng ép. Họ cũng không đồng ý với nhà độc tài tàn bạo, nhưng vì là người lính nên phải thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy quân sự tối cao.
Nếu căn cứ vào lời khai của Speer Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, thì mãi tận giờ phút cuối ông ta cũng mới hiểu được những nguy hiểm ghê gớm ẩn giấu trong nền chuyên chính của Hitler.
Tóm lại, chỉ mỗi mình nhà độc tài đã chết là có tội, toàn bộ trách nhiệm về tội lỗi đều đổ lên đầu ông ta. Ông ta khống chế tất cả. Những kẻ giúp việc và cộng tác với ông ta trong nhà nước này là vô tội. Họ là nạn nhân của một sự lừa dối quái đản: không biết tí gì về việc giết người Do Thái, về máy hơi độc trong các trại tập trung... thậm chí cả sự tồn tại của chính những trại tập trung này.
Trong hồi ký của mình, Tiến sĩ Djibert, bác sĩ tâm thần thuộc tòa án Niurnberg, đã kể về những phản ứng của các bị cáo khi xem cuốn phim quay những cảnh diễn ra trong quá trình gây ngạt bằng máy hơi độc tại các trại tập trung.
Caitel: "Thật kinh khủng! Khi nhìn những hình ảnh này, tôi thật là xấu hổ vì mình là người Ðức... Không bao giờ tôi còn dám nhìn thẳng vào mặt người khác." (95-5)
Fon Papen: "Tôi không muốn nhìn nỗi nhục của nước Ðức."
Func, giám đốc nhà băng bảo quản tài sản cho SS gồm nhẫn vàng và đồ trang sức của các nạn nhân, suốt buổi xem luôn nhắc đi nhắc lại: "Thật kinh khủng! Thật kinh khủng!" (95-5)
Hanx Fritre, Thứ Trưởng của Gobelx: "Tất cả nước đại dương cũng không thể rửa được nỗi nhục này cho đất nước tôi." (95-5)
Như vậy bọn phạm nhân trở thành vô tội.
Ðiều này không chỉ đúng cho bọn tội phạm đầu sỏ tại tòa án Niurnberg, mà còn cho mọi tội nhân cấp thấp khác. Tất cả đều đùn đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn, cấp cao này lại đùn đẩy cho cấp cao hơn nữa, cứ như vậy đến tận đỉnh chóp. Kết quả là chỉ một mình lãnh tụ tối cao có tội.
"Sự thật đơn giản" là, tất cả các Thủ lĩnh đảng và nhà nước, bọn tướng lĩnh, bọn chủ công nghiệp, bọn cảnh sát đều có tội. Và rộng hơn, tất cả những kẻ đã phục vụ cho nhà nước này đều có tội. Vấn đề là, chế độ phát xít gây tội ác ngay trong cơ cấu của nó, vì được củng cố bằng bạo lực và khủng bố tổng thể (về thể chất, chính trị, tinh thần, tư tưởng). Chế độ phát xít không thể tồn tại nếu không gây tội ác. Hủy diệt mọi quyền công dân và tự do chính trị, trao quyền hành vô hạn vào tay một cá nhân, chế độ quốc xã phạm tội trước cả khi gây tội ác chống lại các nước láng giềng. Vì vậy cần phải xử tội chế độ này, những cơ cấu của nó cùng những cá nhân nắm giữ trọng trách.
A. Ý nghĩa và mục đích của trại tập trung cải huấn.
Nhà nước phát xít không thể tồn tại nếu không có các trại tập trung cải huấn. Những trại tập trung này là địa ngục trần gian của chế độ, và được giữ bí mật cả trong và ngoài nước. Chúng trở nên cần thiết vì mức độ khủng bố và đàn áp tổng thể ghê gớm của chế độ chính trị. Năm 1939, trong các trại tập trung và nhà tù ở Tây Ban Nha có tới 1 triệu tù nhân. Nhà nước phát xít và trại tập trung liên quan mật thiết với nhau đến mức có thể nói, không tồn tại nhà nước phát xít nào mà không có trại tập trung.
Những nhà tù điển hình không đủ cho nhà nước độc tài vì hai nguyên nhân: Thứ nhất, không phải ai nhà nước cũng có thể buộc tội; Thứ hai, về mặt tài chính nhà tù rất tốn kém. Các trại tập trung cải huấn, như một phát hiện mới, khắc phục được những khó khăn này. Trại tập trung có nhiều ưu điểm hơn so với nhà tù, vì kinh tế hơn và thậm chí có thể làm lợi về kinh tế bằng cách bóc lột sức lao động của tù nhân. Ngoài ra thông qua cách giáo dục cải tạo lao động quái đản này (trên cổng các trại tập trung ở Ðức thường treo khẩu hiệu "Lao động giải phóng con người"), có thể công khai hủy diệt thể chất (cho ăn đói, bắt làm nhiều) của những người không có lợi cho chế độ.
Ý nghĩa thật sự của trại tập trung cải huấn - phát minh quái đản của thế kỷ XX - được Himler tuyên bố trắng trợn trước đội cận vệ của Thống Lĩnh:
"Như tôi đã nói, công tác này rất quan trọng, thứ nhất, để loại bỏ những phần tử xấu trong nhân dân Ðức; thứ hai, bắt họ một lần nữa phải làm việc cho cộng đồng dân tộc vĩ đại, phá đá và đúc gạch để Thống Lĩnh xây dựng những công trình của mình; và thứ ba, để số tiền kiếm được bằng cách này dùng vào việc mở đất, Xây các làng mạc cho các sĩ quan và chiến sĩ của chúng ta sống, có nhà cửa, tạo nên những gia đình hạnh phúc đông vui." (111- 205)
Ở Ðức, lúc đầu các trại tập trung được sử dụng với mục đích cách ly những đối thủ chính trị của chế độ, để họ không thể gây ảnh hưởng "xấu" được nữa. Việc bắt người theo quyết định của cảnh sát, không cần lập biên bản, không cần xét xử, tuyên án, không báo trước thời gian giam giữ được gọi là bắt triệt để.
Chính phủ quốc xã giam giữ tất cả các đối thủ chính trị của mình trong trại tập trung, không phụ thuộc vào đảng phái, dân tộc, thế giới quan, tuổi tác và giới tính. Khủng bố được tiến hành theo nguyên tắc: "Ai không theo chúng ta là chống lại chúng ta."
Tại tòa án Niurnberg, Goring đã nói về vấn đề này như sau: "Người ta bắt giam vào trại tập trung cả những người chưa phạm tội gì, nhưng nếu để họ tự do thì có thể gây những hành động có hại cho nhà nước Ðức." (90-28)
Trong lịch sử của trại tập trung Ðức có hai giai đoạn: trước chiến tranh (trước khoảng năm 1939), mục đích chính là để đàn áp những xu hướng chính trị đối lập trong nước; và trong chiến tranh, mục đích chính là sử dụng sức lao động cưỡng ép, bóc lột triệt để các trại viên như một lực lượng sản xuất thực sự. Tất nhiên trong những ngày đầu tiên, các trại tập trung đã được xem như những trại lao động bắt buộc, như một hình thức trừng phạt và để bù lại những khoản chi phí cho tù nhân. Trong chiến tranh, khi số lượng trại tập trung và số tù nhân tăng lên gấp bội, một vấn đề được đặt ra: bằng cách nào để có thể sử dụng được sức lao động của những "phần tử xấu" này trước khi giết họ. Lúc này vấn đề không chỉ bù lại những khoản chi phí của nhà nước cho các nhà tù, mà chủ yếu là bóc lột trắng trợn sức lao động không lương của những tù nhân vì lợi ích quốc gia, đặc biệt là trong ngành công nghiệp quân sự.
Thậm chí chiến tranh đã thay đổi đáng kể vai trò của các trại tập trung đến mức, có những lúc ban chỉ huy và bản thân Thủ Lĩnh SS đã phải phấn đấu để giảm mức chết cho tù nhân, vì lúc này mục đích chính là sức lao động của tù nhân, sau đó mới đến việc hủy diệt họ. Trong một thông báo của Phòng Hành Chính Kinh Tế Cơ Bản của SS ngày 28-12.1942, "Về công tác y tế trong trại tập trung", có đoạn viết: "Chúng tôi gửi cho các anh bản thống kê danh sách tù nhân trong tất cả các trại tập trung. Có thể thấy rõ một điều là, trong tổng số 1360000 người vào trại tập trung thì có tới 70000 người đã chết. Với mức chết cao như vậy, số lượng trại viên sẽ không bao giờ đạt được con số ấn định của Thống Lĩnh. Các bác sĩ trưởng, trong các trại tập trung, cần phải sử dụng mọi biện pháp để giảm mức chết này xuống. Người bác sĩ giỏi không phải là người tỏ rõ được sự độc ác của mình, mà là người thông qua những phương tiện y tế hay thay đổi vị trí làm việc, giữ được khả năng lao động càng lâu càng tốt." (111-240)
 
B. Thực chất của trại tập trung cải huấn.
Phụ thuộc vào điều kiện chính trị cụ thể, nhà nước phát xít có thể chú trọng mặt này hay mặt kia trong mục đích của trại tập trung cải huấn. Thí dụ trong thời gian chiến tranh, nước Ðức chú trọng đến vấn đề sử dụng sức lao động cưỡng bức, trong khi Tây Ban Nha tiến hành hủy diệt thể chất của các trại viên (chỉ riêng trong giai đoạn từ năm 1940-1945 đã có tới hơn 150 nghìn tù nhân bị bắn). Việc hủy diệt tù nhân được chú trọng đặc biệt vào năm 1944 khi quân Ðồng Minh đổ bộ vào Na Uy, và trên bầu trời Tây Ban Nha- Franco treo lơ lửng một mối đe dọa quân sự (20-277).
Nhưng dù có những dao động trong "chính sách trại tập trung" của nhà nước phát xít, mục đích cơ bản hoàn toàn không thay đổi: cách ly và từng bước hủy diệt, các đối thủ chính trị.
Ở Ðức, chiến tranh có thay đổi ít nhiều trong mục đích chính của trại tập trung, nhưng không hoàn toàn từ bỏ nó. Ðiều này nói lên rằng, khi nghiên cứu mối quan hệ nội tạng giữa chế độ độc tài và trại tập trung cải huấn, cần phải lấy giai đoạn trước chiến tranh khi chúng đang tồn tại thuần chất, không có những ảnh hưởng bên ngoài. Trong trường hợp đó trại tập trung cải huấn có thể xem như nhà tù kết hợp với lao động cưỡng bách không hạn định thời gian.
Nhà nước độc tài thường xuyên quảng cáo các trại tập trung cải huấn như những trại cải tạo lao động. Năm 1944, Tổng Giám Ðốc Các Nhà Tù ở Tây Ban Nha khoe khoang rằng, dưới sự lãnh đạo của ông ta, các nhà tù đã "cải tạo" được ít nhất là 300 nghìn người (93-129). Tuy nhiên ông ta đã quên không nói rằng, cũng trong năm 1944, bình quân mỗi ngày ở Tây Ban Nha có tới 400 người bị bắn. Và thế nào là giáo dục cải tạo trong những điều kiện của nhà nước phát xít? Ðiều đó có nghĩa là mài mòn tinh thần, tư tưởng chính trị và thể chất con người. Chế độ đạt được mục đích mà không cần phải bắn những nạn nhân của mình.
Thực chất chế độ độc tài không có lợi ích gì trong việc trả tự do cho các trại viên, thậm chí kể cả khi họ đã làm việc hết sức mình và cải tạo tích cực trong nhiều năm. Bởi vì không có gì để đảm bảo là sau khi được tự do, những người đó lại không tiếp tục thực hiện hành động trước đây, thậm chí dù đã "cải tạo", việc trả tự do cho những người như thế vẫn không có lợi, vì họ là nhân chứng sống về những gì đã xảy ra trong trại tập trung, về tội ác ghê tởm của chế độ trong các địa ngục trần gian này; trong khi mọi phương tiện tuyên truyền ngày đêm ra rả tô vẽ cho nó như một nhà nước nhân dân và pháp quyền: nghiêm khắc nhưng công bằng, đảm bảo luật lệ.
Do đó đối với chế độ, tốt hơn cả là hủy diệt thể chất và tinh thần những kẻ thù của mình, hoặc giữ họ lại trong các trại tập trung, cho đến khi họ chết một cách "tự nhiên". Trại tập trung cải huấn là sự chà đạp thô bạo và tội lỗi nhất đối với nhân cách của con người và loài người nói chung. Mọi cái trong trại tập trung đều nhằm mục đích làm giảm giá trị của con người và loài người. Những đặc điểm đặc biệt trong địa ngục trần gian này là:
1. Không có con người, chỉ có số hiệu trên lưng các tù nhân; con người trở thành con số vô nghĩa. Bọn quản đốc trại không gọi ai theo tên mà chỉ gọi theo số; đối với chúng, không có nghĩa lý gì việc số X là nhà y học lớn hay số Y là nhà văn lớn.
2. Tù thường phạm được coi trọng hơn tù chính trị; tù thường phạm thường được bổ nhiệm làm tù trưởng, giúp bọn quản đốc giữ trật tự trong trại.
3. Tù nhân làm việc dưới sự giám sát của đội bảo vệ, có cho béc.giê đi kèm; chân bị xích vào nhau, theo luật có thể bắn không cần báo trước. 4. Thời gian làm việc trên thực tế không hạn định, dẫn đến hao mòn thể chất mau hơn và đến cái chết "tự nhiên".
5. Vì không thể tránh được nạn tham nhũng, trong bộ phận quản đốc trại, nên các trại viên còn bị bóc lột thêm một lần nữa trong khẩu phần ăn; người tù luôn luôn ăn đói và nếu không chết do bệnh tật, thì cũng chết vì hao mòn thể lực.
6. Giúp đỡ y tế trong trại tập trung không phải vì nhân đạo, mà là nhiệm vụ chính trị.
7. Người ta thưởng cho bọn cai tù có công bắn tù nhân trong trường hợp "có ý định chạy trốn". Việc này đương nhiên là khuyến khích bọn cai tù và bọn quản đốc phạm tội nhiều hơn.
8. Bất cứ ai bước vào trại tập trung cũng đều có tội, dưới địa ngục không có người vô tội. Vì thế về nguyên tắc, không ai được sống sót ra khỏi trại.
VI. Mối liên quan giữa các cơ cấu trong cấu trúc nhà nước độc tài.
1. Tính cần thiết của mối liên quan.
Mới thoạt nhìn có thể nghĩ, giữa các cơ cấu trong cấu trúc độc tài không có sự kiên quan cần thiết, rằng đó hoàn toàn là ngẫu nhiên và chúng có thể sắp xếp theo một thứ tự bất kỳ trong khi thiết lập chế độ này.
Thực chất, mối liên quan này rất sâu sắc, cần thiết và bắt buộc cho bất cứ nhà nước phát xít nào. Mối liên quan này được thể hiện trong hai vấn đề: thứ nhất, đối với dạng nhà nước này không thể thiếu được bất kỳ cơ cấu nào trong 5 cơ cấu đã nêu; thứ hai, mọi cơ cấu muốn phát triển toàn diện và tổng thể nhất thiết phải sản sinh ra và xác định cơ cấu tiếp theo.
Nói cách khác, giữa các cơ cấu trong cấu trúc độc tài, tồn tại một trật tự nghiêm ngặt: mọi cơ cấu đều có vị trí và giá trị xác địnhđến mức không thể thay đổi mà không gây nên sự phá vỡ tổng thể của toàn hệ thống.
Sở dĩ chúng ta miêu tả cấu trúc độc tài bắt đầu bằng cơ cấu một đảng trị và đặt nó lên vị trí thứ nhất trong quá trình nghiên cứu là vì bàn thân việc xây dựng nhà nước phát xít ở Ðức, Ytalia và Tây Ban Nha đều khởi đầu bằng việc thiết lập cơ cấu này. Trong ba nhà nước phát xít điển hình thì Ðức là kiểu mẫu hoàn thiện hơn cả; mọi dấu hiệu của nó được thể hiện rõ ràng và rạch ròi nhất. Mặc dù Ytalia đầu tiên đi theo con đường phát xít, nhưng nó không thể là hình ảnh hoàn thiện nhất của nhà nước độc tài. Thực tế này cũng là một trong nhiều trường hợp trong lịch sử, khi phong trào xuất hiện lần đầu tiên chưa hẳn đã hoàn hảo nhất.
Nhà nước phát xít không thể được thiết lập nếu không có cơ cấu một đảng quyền, không hủy diệt các đảng phái khác. Ðây là hòn đá tảng, là nền móng để xây dựng nhà nước phát xít; và để ổn định bền vững, đòi hỏi phải có sự sát nhập giữa nhà nước và đảng phát xít. Hình thức sát nhập và thống nhất này phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, tập tục dân tộc cụ thể của từng nước, nhưng nhất định phải được tiến hành nhằm củng cố sự thống trị ổn định cho đảng phát xít. Vì nếu không như thế, cơ cấu một đảng quyền có thể bị phá vỡ.
Sau khi cơ cấu một đảng quyền được thiết lập, sự thống nhất triệt để giữa đảng và nhà nước phát xít là điều cần thiết tuyệt đối. Và để có thể tồn tại bền vững và lâu dài, sự thống nhất này cần phải mang giá trị vật chất. Các đảng viên phát xít chỉ cảm thấy nhu cầu thống nhất này cần thiết, nếu họ nhìn thấy trong đó những quyền lợi vật chất và ưu ái cá nhân. Như vậy nguyên tắc thứ hai này (sự thống nhất giữa đảng và nhà nước phát xít) không chỉ xuất phát từ nguyên tắc đầu tiên, mà còn là sự củng cố và tiếp diễn của nó. Cơ cấu một đảng quyền chỉ được xây dựng hoàn hảo nếu sau khi hủy diệt các đảng phái khác, đảng phát xít điều khiển nhà nước và đồng nhất bản thân mình với nhà nước về mọi mặt: tài chính, chính trị, cán bộ; khi mà "đảng trở thành nhà nước". (Hitler).
Tiếp theo khi cơ cấu một đảng quyền và sự thống nhất giữa đảng và nhà nước phát xít được thiết lập, quá trình này vẫn chưa thể kết thúc. Còn xã hội công chúng, với quyền tự trị đối với đảng và nhà nước phát xít, luôn luôn có thể là nguồn gốc cho mọi bất ngờ chính trị. Trong xã hội có thể sinh ra những tư tưởng trái ngược, lòng căm thù chế độ,v.v... mà trong những hoàn cảnh đặc biệt có thể làm cho nó tan rã, còn trong điều kiện bình thường, ít nhất cũng khiến nền móng của chế độ lung lay. Từ đây dẫn đến bước tiếp theo của quá trình xây dựng nhà nước độc tài: đặt xã hội công dân dưới sự kiểm soát của nhà nước và đảng phát xít, để khống chế mọi biểu hiện và phong trào chống đối. Khi bước thứ ba này kết thúc, nhà nước phát xít ít nhiều đã trở thành hệ thống hoàn chỉnh, những lực lượng bên ngoài đe dọa sự ổn định của nó không còn nữa, nếu không phải vĩnh viễn thì chí ít cũng trong một thời gian dài.
Sau khi thiết lập ba cơ cấu trên, nhà nước phát xít về cơ bản đã được xây dựng. Các cơ cấu này mở đường cho hai cơ cấu tiếp theo phát triển: tư duy uy tín và trại tập trung cải huấn. Hai cơ cấu sau cùng này tu bổ nội tạng cho chế độ và làm cho nó trở nên hoàn thiện. Dù vậy các cơ cấu này cũng có đặc tính cần thiết và nếu thiếu chúng, hệ thống chính trị hoàn toàn không thể hoạt động. Chúng có giá trị và vị trí xác định trong hệ thống chính trị, liên quan khăng khít với nhau và không thể tách rời. Thí dụ, đồng hóa xã hội không thể triệt để và hiệu quả, nếu không thâu tóm mọi suy nghĩ, tư tưởng và toàn bộ lãnh vực tinh thần. Tất cả cần phải phục tùng cách tư duy uy tín, bởi vì chỉ có thể đồng hóa một khi đã đồng nhất về hình dạng.
Ðến lượt mình, đồng hóa xã hội, sự phục tùng của xã hội đối với nhà nước, phải sinh ra các trại tập trung cải huấn. Cần phải cách ly những người không muốn phục tùng sự kiềm soát của đảng phát xít và hệ tư tưởng của nó, để họ không thể "làm hại" xã hội bằng những tư tưởng nguy hiểm. Trại tập trung cải huấn là công cụ lý tưởng của nhà nước phát xít, để giải quyết những mâu thuẫn đối kháng giai cấp bằng cách hủy hại thể chất các đối thủ chính trị
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận rằng, giữa các cơ cấu trong cấu trúc của nhà nước phát xít tồn tại một mối liên quan mang tính quy luật, khăng khít và cần thiết, và nếu mối liên quan này bị phá vỡ sẽ dẫn đến sự thay đổi tổng thể không tránh khỏi của toàn hệ thống.
Ðương nhiên trong giai đoạn đầu khi thiết lập chính quyền, bọn phát xít vẫn chưa biết về sơ đồ lý thuyết quá trình xây dựng nhà nước đặc thù của mình. Ngược lại, thường thường các Thủ lĩnh phát xít có những ý đồ chính trị xa rời hoặc thậm chí đi ngược lại sơ đồ này, nhưng tính logic khách quan của quá trình đã điều chỉnh và khiến họ đã đi theo phương án tối ưu. Sau khi thiết lập một cơ cấu đảng quyền, theo bản năng họ tiến đến khống chế toàn bộ nhà nước và tiếp theo kiểm soát tổng thể toàn xã hội.
Thí dụ lúc đầu Muxolini dự định xây dựng "chế độ phát xít" với cơ cấu không đảng phái vì nếu không, sẽ phải hủy diệt tất cả các đảng phái chính trị khác. Nhưng sau đó cho thấy để có thể thiết lập sự thống trị toàn diện của đảng phát xít, cần thiết phải hủy diệt mọi đảng phái khác. Và như vậy, cơ cấu một đảng quyền của chế độ phát xít được thiết lập, lúc đầu chỉ là công cụ để đạt được mục đích, sau đó trở thành mục đích.
Trong những năm đầu tiên, Muxolini cũng đã định điều hành nhà nước với chính phủ không đảng phái (liên minh các Bộ Trưởng không đại diện cho các đảng phái của mình), nhưng sau năm 1924, ông ta phải từ bỏ ảo tưởng này và thiết lập chính phủ phát xít thuần chủng.
Bọn quốc xã, đi theo con đường này 9 năm sau đó, đã không phải trả giá cho những ảo tưởng tương tự. Ở đây, bằng con đường ngắn nhất, cơ cấu một đảng quyền được thiết lập và được củng cố bằng sắc luật thống nhất giữa đảng và nhà nước phát xít. ở Ytalia, chế độ độc tài được xây dựng trong gần bốn năm, còn ở Ðức việc này diễn ra vẻn vẹn không đầy một năm. Trước không kết thúc năm 1933, Ðức đã là một nhà nước độc tài hoàn chỉnh.
Tất nhiên, Hitler cũng bắt buộc phải sửa đổi một vài chi tiết mâu thuẫn với sơ đồ lý thuyết nói trên. Nhưng ngay cả ở chi tiết này, ông ta cũng buộc phải sửa sai, điều này càng cho chúng ta thấy mối liên quan khắng khít giữa các cơ cấu của cấu trúc độ tài. Thời gian đầu, Hitler đã đồng ý với tòa thánh Vatican, cho phép nhà thờ giáo dục một bộ phận thế hệ trẻ trong các trường dòng. Sau đó ông cảm thấy, những trường này mang đến một thứ tư tưởng khác xa tư tưởng quốc xã. Từ đó dẫn tới việc giải tán các trường này. Một khi đã được thiết lập, chế độ độc tài không thể chấp nhận những vật lạ trong cơ thể mình. Vì mối ràng buộc khắng khít giữa các cơ cấu, bất kỳ một vật lạ nào cũng làm cho hệ thống bị hư hỏng hoặc tan rã. Về mặt cấu trúc, nhà nước phát xít là một hệ thống biệt lập, trong đó mọi chi tiết riêng lẻ ràng buộc chặt chẽ với những chi tiết còn lại, và sự biến dạng của một chi tiết nào đó sẽ dẫn đến đổ vỡ không tránh khỏi của cả hệ thống. Tính chất đặc biệt này là đặc trưng cho nhà nước độc tài và vì vậy, nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất nhà nước này. Trong vấn đề này nền dân chủ tư sản tỏ ra bền vững hơn nhiều. Sự thay đổi cơ cấu thành phần tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của nó, nhưng không gây nên sự đổ vỡ tổng thể của toàn hệ thống.
Ðể có thể phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa nhà nước độc tài và nền dân chủ tư sản, ta hãy liên hệ chúng với bộ máy cơ học và một cơ thể sống. ở đây, nhà nước độc tài có thể ví như một cỗ máy cơ học kiểu mẫu, hoạt động hết sức đồng bộ, khi mọi chi tiết của nó đều làm việc chính xác, không sai sót. Nhưng nếu một chi tiết nào đó tách rời khỏi cơ cấu, nó sẽ đe dọa phá vỡ toàn hệ thống.
Trong điểm này nền dân chủ tư sản gần giống một cơ thể sống hơn là bộ máy cơ học. Sự hư hỏng trong một chi tiết nào đó không thể phá vỡ toàn bộ hệ thống. Nhờ tính bền vững cao trong mối quan hệ giữa tổng thể với các bộ phận và giữa những bộ phận với nhau, hệ thống này điều hòa những sai sót trong các chi tiết như một cơ thể sống tự thích nghi với những biến đổi trong các tế bào riêng biệt. Vì lý do này, nền dân chủ tự do trong khuôn khổ nhất định có thể tự điều chỉnh mà không dẫn đến hủy diệt, trong khi nhà nước độc tài phát xít chỉ có một cách thay đổi duy nhất: sự tan rã hoặc phá vỡ tổng thể. Vì những mâu thuẫn nội tạng khổng lồ và sự ràng buộc nghiêm ngặt giữa các bộ phận, một hư hỏng nhỏ trong chi tiết nào đó, có thể đe dọa phá vỡ toàn hệ thống độc tài. Và nếu không kịp thời sửa chữa sai sót này, thì sau đó khó lòng chống lại được sự đổ vỡ dây chuyền. Ðây là lý do giải thích tại sao nhà nước độc tài sử dụng những biện pháp hết sức tàn nhẫn, cương quyết và độc ác để đàn áp cả những biểu hiện chống đối không đáng kể.
2. Cấu Trúc và chức năng.
Với sự phân tích này, chúng ta đã tiến gần đến mối quan hệ giữa cấu trúc chính trị được thiết lập và phương thức hoạt động mang tính quy luật, xuất phát từ cấu trúc đó. ở đây, muốn nói đến khía cạnh nguyên tắc giúp chúng ta hiểu kỹ hơn, đầy đủ hơn về bản chất của chế độ phát xít cùng những cơ cấu cơ học và đòn bẩy tương hỗ của nó.
Cấu trúc xác định phương thức hoạt động. Một khi được thiết lập, cấu trúc hoạt động tương ứng với sự ràng buộc nội tạng của các cơ cấu thành phần. Quy luật tổng quát của các cấu trúc xã hội là xu hướng tự bảo tồn. Dưới tác động của ngoại cảnh, một cấu trúc nào đó, thay đổi phương thức hoạt động hoặc không thể tự thích nghi sẽ bị biến dạng hoặc bị hủy diệt. Trong cả hai trường hợp, nó đều không còn là cấu trúc ban đầu nữa, mà là chuyển sang một dạng khác. Nhưng một khi đã được thiết lập, cấu trúc không thể hoạt động theo phương thức nào khác ngoài phương thức xuất phát từ bản chất của nó.
Trong trường hợp của chúng ta, những phân tích tổng quát trên đây có ý nghĩa như sau: một nhà nước phát xít không thể hoạt động theo phương thức dân chủ, giống như một chế độ dân chủ không thể điều hành theo phương thức độc tài. Hitler chắc chắn sẽ không sáng lập nhà nước quốc xã nếu như nền Cộng Hòa Vaimar có thể thực hiện được vai trò mà ông ta cho là cần thiết. Những nhiệm vụ mới đòi hỏi cấu trúc mới, dạng nhà nước mới, dựa hoàn toàn trên bạo lực.
Từ đây suy ra rằng, hy vọng nhà nước phát xít dân chủ hóa chỉ là ảo tưởng. Việc nhà nước phát xít tự dân chủ hóa hay tự do hóa là hoàn toàn không bao giờ có, cũng như bắt một động vật ăn thịt phải ăn cỏ vậy. Ðộng vật này sẽ chết vì cấu trúc sinh học của nó là động vật ăn thịt. Trong thời gian này, phần lớn giới trí thức Ðức có suy nghĩ, sau khi củng cố chắn chắn, chế độ quốc xã nhất định phải quay trở về phương thức điều hành theo hiến pháp và sẽ phục hồi nền dân chủ tư sản truyền thống. Ảo tưởng này xuất phát tứ giới trí thức tự do, trong đó có cả những bộ óc vĩ đại như Marc Planc (9-77). Người ta hy vọng rằng, chế độ quốc xã chỉ sử dụng những biện pháp tàn nhẫn và phi pháp cho đến khi khống chế được toàn bộ bộ máy nhà nước; sau đó bắt buộc phải từ bỏ bạo lực, thậm chí phải chấp nhận cả những xu thế đối lập và có thể công khai phê phán chế độ. Không còn khả năng nào khác, vì sau khi đã điều hành toàn bộ bộ máy nhà nước, sẽ không còn ai để chế độ dàn áp và theo dõi! Ảo tưởng này là kết quả của nhận thức sai lầm về cấu trúc nhà nước mới mà chủ nghĩa phát xít xây dựng. Chế độ phát xít không đơn giản là chế độ cảnh sát, mà là dạng nhà nước mới- nhà nước độc tài. Về nguyên tắc, nhà nước này loại bỏ mọi tư tưởng tự do thậm chí kể cả những tư tưởng có lợi cho nó.
Ðôi khi người ta thử đồng nhất bản chất nhà nước phát xít với tính chất giai cấp của nó rằng, nhà nước phát xít là công cụ của bộ phận tư bản đế quốc phản động nhất, nên dân chủ với giai cấp này và chỉ chuyên chính với các tầng lớp lao động.
Trong ý nghĩa tổng quát, điều này đúng: tư bản tài chính là tầng lớp có nhiều ưu việt về kinh tế nhất trong nhà nước phát xít. Nhà nước phát xít đảm bảo cho giai cấp này sức lao động rẽ mạt, không biết bãi công, không muống tăng lương và thay đổi điều kiện lao động, và đồng thời là lực lượng dự bị hùng hậu cho quân đội... Nhà nước phát xít là thiên đường cho giới tư bản tài chính trong ý nghĩa này.
Nhưng mặc dù vậy vẫn không thể ngây thơ với ý nghĩ rằng, nhà nước độc tài là dân chủ cho giới tư bản phát xít, còn chuyên chính với các tầng lớp lao động. Ngoài lãnh tụ tối cao, không ai có quyền được phê phán nhà nước và chế độ chính trị. Và thậm chí cả lãnh tụ tối cao cũng không thể phủ nhận toàn bộ hệ thống chính trị, vì dù có sự tôn thờ, ông ta vẫn sẽ bị giới cầm quyền chóp bu- những kẻ ràng buộc khăng khít với cấu trúc nhà nước này - gạt bỏ. Thậm chí, cấu trúc chính trị này gạt bỏ cả những tư tưởng dân chủ trong giới cần quyền chóp bu. Trường hợp xảy ra với Greger Straxer và Ialmar Saht có thể minh họa cho điều này. Vì những biểu hiện không tán thành với chính sách chính trị của chế độ, người đầu tiên bị giết ngày 30-6-1934, còn người thứ hai sống sót một cách khó tin sau một năm bị giam trong trại tập trung cải huấn. Mặc dù Saht là một trong những người đóng góp nhiều nhất và xứng đáng nhất cho việc xây dựng Ðệ Tam Ðế Chế; đã từng là "nhà độc tài tài chính" nhiều năm liên tục của nước Ðức- Hitler. Bí Thư Khu ủy Herman Rausning đã phải bỏ chạy sang tận bên kia đại dương để viết sách phê phán chế độ quốc xã và Hitler.
Nhưng vấn đề không phải bản thân các thí dụ này, mà là tính logic của chúng: nhà nước độc tài không cho phép cả giới cầm quyền chóp bu có quyền tự do (tự do ngôn luận, in ấn, kết hội, tị nạn...), bởi vì điều đó có thể làm tan rã nhà nước. Hơn thế nữa, đối với dạng nhà nước này, trao quyền tự do cho giới lãnh đạo chóp bu đặc biệt nguy hiểm, vì họ là hạt nhân của chính quyền và có thể làm cho nó tan rã từ bên trong. Vì vậy cả ba nhà nước phát xít- Ðức, Ytalia và Tây Ban Nha- đều triệt để chống "chủ nghĩa tự do" và "sự sa ngã" chính.
Tại đây, nguyên lý "cả những kẻ áp bức cũng không có quyền tự do" được thể hiện một cách đầy đủ nhất. Bởi vì để có một hệ thống có thể đàn áp, trước hết nó cần phải được tổ chức như một hệ thống đàn áp, nếu không nó sẽ không thực hiện được chức năng đó. Mặt khác hệ thống này trao quyền tự do cho những đại diện của mình được đàn áp, khủng bố theo luật lệ của cấu trúc được xây dựng, nhưng không có quyền phê phán hay chống lại các luật lệ đó. Trong trường hợp ngược lại, họ không tránh khỏi trở thành nạn nhân của hệ thống này.