VII. RỪNG NÚI VIỆT BẮC

Cái tên Việt Bắc này trở nên thân thương đối với mỗi người Việt Nam ấy, xuất hiện chưa lâu: Từ đầu những năm 40 trong những năm tháng chuẩn bị Cách mạng tháng Tám.
Việt Bắc - Việt Minh - Khu Giải Phóng, những cái tên đã đi vào lịch sử, quyện chặt lấy nhau.
Thăm Việt Bắc là thăm cái nôi của Cách mạng Việt Nam.
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
(Tố Hữu)
Việt Bắc là cái tên gọi để chỉ một số địa phương ở miền Bắc, gần biên giới giáp với Trung Quốc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
Nói đến Việt Bắc nhiều người thường nghĩ tới một vùng núi rừng âm u. Đặt chân lên vùng này, rời khỏi các đường cái lớn là bắt gặp ngay những rừng rậm, nhiều nhất là rừng nứa. Và nếu len lỏi đi theo những con đường mòn ngoắt ngoéo để vào bên trong, cũng lại gặp những vùng cây rậm rạp hai bên. Nhiều nơi rừng dày đến nỗi khi tìm thấy một bầu trời mắt như bị rừng bưng lại. Đâu cũng là rừng và rừng. Đã thế, những đường mòn ấy lại quanh co theo những núi, những khe, những đồi, những thung thung lũng, nhiều khi tưởng đã đi được những khoảng cách không gian dài nhưng hóa ra chỉ cách chỗ xuất phát ban đầu không được mấy chút. Vẻ bí hiểm của núi rừng Việt Bắc một phần cũng vì thế.
Một bài thơ của Xuân Diệu viết trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp đã gọi xứ sở này là "u tì quốc" (Sáng nay ra cửa u tì quốc...), tưởng đã lột tả được vẻ âm u và bí hiểm ấy của Việt Bắc theo lối hài hước, đối với thanh niên bỏ thành phố về đây theo kháng chiến.
Thật ra Việt Bắc không chỉ toàn núi và núi. Nếu tính từ bờ trái sông Lô đến bờ phải sông Thương (theo chiều đông tây của Việt Bắc), chỉ có ba dãy núi đáng kể mà sách địa lí thường gọi là 3 vòng cung: vòng cung sông Gâm, vòng cung Ngân Sơn và vòng cung Yên Lạc nằm theo hướng bắc – nam tạo thành những "nếp lồi" và "nếp lõm" của địa hình. "Nếp lồi" là những dãy núi cao, còn "nếp lõm" này tạo nên những thung lũng lớn, đó là những vùng núi thấp và đồi, có mạng lưới sông, suối dày đặc, giống như những "trận đồ bát quái". Đi trong lòng Việt Bắc, hết những rừng cây trùng điệp, ta lại bắt gặp những ngọn núi đá vôi có tuổi rất cổ, xen lẫn những thứ đá khác. Cảnh núi thật lôi cuốn: những vạch đá xám trắng bên cạnh lớp cỏ mượt mà phủ lên những mảng đá phiến, những hang động lấp lánh thạch nhũ; những hẻm vực hẹp và dài, trên cao nhìn xuống sâu hun hút, trông như những bức tranh thủy mặc ẩn ẩn hiện hiện những đường nét trong suốt hoặc mơ hồ.
Nói cho đúng, Việt Bắc cùng với toàn bộ địa hình phía Bắc nước ta nói chung vốn là những rìa của các khối cao nguyên lớn ở Nam Trung Quốc, nhưng có những sắc thái riêng về cảnh quan.
Việt Bắc thu hút sự chú ý của nhiều người nghiên cứu về thành phần tộc người phong phú của nó. Đây là nơi cư trú của những tộc người lâu đời, ngoài Việt ra: người Tày, người Nùng, người Dao, người Hmông (Mèo), người Sán Chay... Trong đó có những tộc người gắn bó với tộc người Việt từ xa xưa.
Người Tày (dân số gần 1,2 triệu) thuộc ngôn ngữ Tày - Thái, là cộng đồng tộc người thuần nhất và có ý thức tộc thuộc rất rõ. Từ thời Hùng Vương, đã có sự liên minh giữa người Việt cổ và người Tày cổ, sự liên minh này đạt tới trình độ cao với quốc gia Âu Lạc.Và trong lịch sử Việt Nam hiện đại người Tày tham gia các cuộc đấu tranh cách mạng rất tích cực dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản. Trong đoàn giải phóng quân kéo về thủ đô Hà Nội những ngày Cách mạng tháng Tám, số đông là những chiến sĩ người Tày cũng như người Việt. Người Tày có nghề làm ruộng nước lâu đời bên cạnh những nghề gắn với rừng núi: săn bắn, chăn nuôi, thu lượm lâm sản... họ sống thành từng bản, từ 20 đến 60 -70 nhà ở ven chân núi, ven sông suối, trên các cánh đồng nhỏ. Phổ biến nhất là nhà sàn dựng bằng gỗ tốt, có ván bưng quanh và sàn gỗ hoặc sàn nứa. Gần đây người Tày dựng nhà gạch ngày càng nhiều. Trang phục truyền thống (nam cũng như nữ) chủ yếu là áo quần màu chàm. Quần lá tọa, áo năm thân. Nghệ thuật dân gian khá phát triển, từ văn học truyền miệng đến những làn điệu hát lượn. Rất nhiều nơi, người Tày nói khá thành thạo tiếng Việt bên cạnh tiếng mẹ đẻ của mình; trong các tộc người thiểu sổ ở Việt Nam, người Tày tiến sát gần với trình độ phát triển của người Việt hơn cả. Họ là cư dân chủ yếu của các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Thái (gọi tắt là Cao Bắc Lạng).
Người Nùng cũng là một thành phần tộc người cơ bản của Việt Bắc (hơn 70 vạn, cư trú tập trung ở Cao Bằng, Lạng Sơn và vài tỉnh khác). Nhìn chung, họ cũng đạt tới trình độ phát triển giống người Tày, nhưng vì cư trú chủ yếu ở những khu vực chuyển tiếp giữa vùng thấp và vùng cao nên ruộng nước ít hơn, nương rẫy nhiều hơn. Họ cũng ở thành từng bản (5 - 7 đến vài chục nhà) nhà sàn, nhà đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất. Họ sống xen ghép với người Tày, vẫn giữ bản sắc riêng của mình. Trước kia, họ dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm Nùng để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian. Hát sli đối đáp giữa nam nữ rất thịnh hành. Người Nùng cũng tham gia cách mạng rất tích cực và đã ghi nhiều tên tuổi trong lịch sử cách mạng hiện đại, nổi bật nhất là Kim Đồng, người thiếu niên liên lạc đầu tiên của Việt Minh đã hy sinh vì đạn thù.
Người Hmông (Mèo) sống rải rác trên những triền núi cao ở phía Bắc Việt Nam. ở Việt Bắc, có thể gặp họ ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Giang, với những làng từ vài nhà đến vài chục nhà (làng Hmông gọi là giao) trên những sườn núi hay thung lũng ở độ cao 800 - l.500m, địa hình hiểm trở (ở Hà Giang, lên vùng người Hmông phải qua Cổng Trời). Người Hmông di cư từ vùng Tây Nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Quí Châu) xuống phía Bắc Việt Nam từ nhiều thế kỷ này. Họ sống bằng nương rẫy theo lối du canh du cư. Ngoài ngô lúa làm lương thực, họ trồng nhiều vừng, đậu, cây ăn quả, cây làm thuốc. Vùng Hmông cũng là vùng trồng thuốc phiện. Họ ở nhà đất, thường là ba gian hai chái (giữa đặt bàn thờ, hai bên là bếp và buồng ngủ). Nghệ thuật dân gian Hmông khá phong phú, dân ca không chỉ hát bằng lời mà có thể giãi bày bằng khèn, đàn môi, kèn lá.
Người Dao (trước đây quen gọi là Mán) có nguồn gốc chung với người Hmông, nhưng sau chia thành hai cộng đồng tộc người riêng rẽ. Họ có mặt ở vùng núi phía Bắc Việt Nam khá sớm (từ thế kỷ XIII), chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm lại có tên gọi riêng thường bắt nguồn từ y phục phụ nữ mỗi nhóm (quần chẹt, quần trắng, thanh y, áo dài, tiền...). Có thể nói đó là tộc người có nhiều đặc sắc nhất trong trang phục phụ nữ. Họ sống trên những vùng cao, làm nương rẫy. Làng dựng gần các con nước hoặc nơi có thể dẫn nước về nhà (bằng đường ống bương).
Khách du lịch trong nước hay nước ngoài đến Việt Bắc cốt thăm khu di tích cách mạng: hang Pắc Bó, đình Tân Trào, an toàn khu thời kháng chiến chống Pháp... và không phải không có cảnh đẹp để thăm (cũng xin nói là các khu đi tích lịch sử thường lại là những thắng cảnh). Nếu có dịp đến thăm hồ Ba Bể, sẽ thấy Việt Bắc chứa trong lòng cả một thắng cảnh ít nơi bì được. Từ Hà Nội đi qua Thái Nguyên, lên Chợ Rã, từ đó, tới hồ Ba Bể bằng đường sông hay đường bộ, nhưng đường sông thú hơn. Con sông Năng chảy dưới chân núi đá vôi, giữa những bờ vách đứng xuyên qua núi Lũng Nham, nơi nó gọi là động Pông (dài 300m, cao 30 - 40m). Thuyền luồn trong động Pông chập chờn bóng tối và ánh sáng, những thạch nhũ có hình thù kỳ lạ hiện lên trước cửa động. Đi khỏi cửa đông khoảng 4 km, thuyền vào hồ Ba Bể, một cái hồ kiến tạo lớn nhất miền Bắc Việt Nam, giữa vùng đá phiến và đá vôi. Hồ dài hơn 8 km, rộng 3km và sâu 20 - 80m, ở đoạn giữa hơi co lại. Giữa hồ có hai đảo nhỏ, một đảo giống như một con ngựa đóng cương đang lội nước (vì thế cũng gọi là đảo An Mã). Cảnh hồ yên lặng đến mức một tiếng động nhỏ cũng trở thành khác thường. Tiếc rằng đường đi còn bất tiện và cách trở, nếu không hồ Ba Bể đã là nơi dập dìu đi về của bao người ưa thích cảnh đẹp tự nhiên.
Thác Bản Giốc (Cao Bằng) cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Bắc, có người còn gọi là kỳ quan thiên nhiên (Hoàng Đạo Thúy). Thác nằm trên sông Quy Thuận. Con sông nhỏ chảy đến đây bỗng sụt xuống 34m tạo thành một thác cao và rộng. Thác phía tây đổ thẳng xuống thành ba dòng, một dòng tỏa những hạt nước nom như một tấm the mỏng, hai dòng kia nước đổ ào ào. Chân thác có hang. Thác phía đông đổ xuống ba bậc, trải ra rất rộng. Từ xa nhìn tới, màu nước bạc lẫn vào màu cây xanh, màu hồ lục thẫm, màu núi tím, tạo thành một bức tranh lồng lộng giữa trời. Thác Bản Giốc từng đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc.
Nhưng dù phong cảnh đẹp đến đâu lên Việt Bắc trước hết là bước vào những khung cảnh thấm đầy không khí lịch sử, không khí cách mạng.
Ta có thể đi thẳng lên Cao Bằng, nơi có hang Pắc Bó được coi là cội nguồn của Cách mạng tháng Tám, có thể lên Cao Bằng theo lối lên Lạng Sơn rồi từ đó ngược lên địa đầu phía Bắc đất nước. Mà đi theo đường này cũng có cái hay của nó. Chuyến du lịch sẽ là một vòng, đi từ Hà Nội lên Lạng Sơn, men theo vách đá, rồi theo sông Thương, rồi đi vào thung lũng Chi Lăng, nơi Lê Đại Hành phá quân Tống (năm 981), nơi quân Lê Lợi đánh tan giặc Minh chém đầu Liễu Thăng (năm 1427). Sau qua Quỉ Môn Quan và đến thị xã Lạng Sơn nằm bên bờ trái sông Kỳ Cùng. Cái xứ Lạng xa xôi ấy đã đi vào lời ru:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em...
Dừng lại đây xem chợ Kỳ Lừa, một chợ to đủ các mặt hàng lâm sản (mộc nhĩ, nấm hương, các vị thuốc...), xem chùa Tam Thanh đặt trong một hang lớn, thạch nhũ dẹp. Trên đỉnh núi Tam Thanh, xưa kia có tảng đá nàng Tô Thị ngóng chồng tay bồng con.
Rồi lại đi theo đường số 4 lên Cao Bằng. Đường này đi vào lịch sử kháng chiến chống Pháp với những trận đánh lớn ở Thái Khê, Đông Khê, Thất Khê (cách Lạng Sơn 65km) là cứ điểm lớn nhất của Pháp trong chiến dịch biên giới năm 1950, Pháp phải bỏ chạy trước uy hiếp ào ạt của quân ta. Đông Khê (cách Lạng Sơn 88km) là nơi quân ta đột phá trong chiến dịch biên giới năm 1950. Đông Khê mất, cả năm ngàn lính địch ở Cao Bằng phải bỏ chạy. Và đi thêm 44km nữa, đến Cao Bằng nơi tận cùng đất nước về phía Bắc mà những người vợ lính thời xưa phải thốt lên: Cao Bằng xa lắm anh ơi và những người lính phải dặn dò:
Em về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Ngày nay Cao Bằng không còn là miền đất xa hun hút thế nữa. Đến đây, bạn bè sẽ thấy một thị xã biên giới biến đổi như thế nào. Vẫn là những đường phố nhỏ nằm ở một thung lũng lòng chảo ấy, nhưng đã có ánh điện, đã có hoạt động công nghiệp rộn ràng. Cao Bằng chủ yếu là vùng công nghiệp khai khoáng: mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ sắt Bảo Lạc... gần thị xã Cao Bằng là kinh đô nhà Mạc trong gần một thế kỷ (cuối thế kỷ XVI - cuối thế kỷ XVII), rồi là Cao Bình. Hiện vẫn còn vết tích thành quách, vườn hoa và hồ sen. Mảnh đất lịch sử được nhiều người đến thăm nhất là Păc Bó, cách thị xã Cao Bằng 60km. Đây là một vùng núi sát biên giới Việt Trung nơi Bác Hồ ở đầu tiên khi từ nước ngoài về. Păc Bó là tên thôn còn nơi Bác Hồ ở là hang Cốc Bó (Cốc: đầu nguồn, Bó: suối). Trong hang còn nét chữ Bác ghi: ngày 8 tháng 2 năm 1941. Ở đây Bác tạc một cột thạch nhũ thành tượng Các Mác; ngoài hang có một phiến đá Bác dùng để làm việc. Gần đó có ngọn núi nhỏ Na Tảng được Bác đặt tên là núi Các Mác và dòng suối Giàng được đặt tên là suối Lê Nin. Cách hang khoảng 1km có lán Khuổi Nậm nơi họp hội nghị trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ VIII (năm 1941), một hội nghị lịch sử quyết định tập trung mọi hoạt động của Đảng vào cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định thành lập mặt trận Việt Minh với lá cờ đỏ sao vàng về sau trở thành cờ nước. Ở làng Nà Mạ trên đường đi tới Păc Bó, có ngôi mộ Kim Đồng. Toàn bộ khu này trở thành khu di tích lịch sử, rộng khoảng 1.000 hec-ta.
Từ Cao Bằng bạn theo đường số 8 về thành phố Thái Nguyên qua thị xã Bắc Cạn. Bắc Cạn và Thái Nguyên là hai tỉnh nhập một gọi là tỉnh Bắc Thái.
Thị xã Bắc Cạn là một thị xã nhỏ, rất nhỏ. Nhưng đây từng là mục tiêu tấn công quan trọng nhất của quân Pháp hồi đầu kháng chiến, vì chúng cho đây là thủ đô của Việt Minh. Đó là cuộc hành quân "Léa" bắt đầu bằng cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn sáng sớm ngày 7 tháng 10 năm 1947 mà bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đặt hết hy vọng vào. Quân Pháp chiếm được thị xã và lùng sục chung quanh thị xã để bắt "bộ chỉ huy" của Việt Minh. Có lúc chúng rêu rao đã bắt được Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự thật cuộc hành quân "Léa" không đạt được mục tiêu gì quan trọng và cuối cùng, trước những đòn giáng trả của quân và dân Việt Bắc chúng phải rút khỏi thị xã Bắc Cạn. Tất cả những vết tích kháng chiến ấy bây giờ không còn lại bao nhiêu, nhưng mỗi lần đi qua đây người ta không khỏi liên tưởng đến những ngày chiến thắng ban đầu của cuộc kháng chiến ấy.
Từ Bắc Cạn đi vào thành phố Thái Nguyên, một thành phố xinh xắn nằm ở cửa ngõ Việt Bắc, trên những ngọn đồi vùng trung du, cạnh sông Cầu. ở đây có khu gang thép Thái Nguyên xây dựng từ những năm 60. Cũng phải nói rằng do những tính toán không đúng về kỹ thuật và nguyên liệu, khu gang thép này không đáp ứng được những hy vọng ban đầu và đang ở trong tình trạng sản xuất khó khăn, nhưng dù sao đó cũng là trung tâm gang thép đầu tiên của Việt Nam với những cố gắng học tập và làm việc đáng kể của cán bộ kỹ thuật, quản lý và công nhân luyện kim. Ít ra đó cũng là một trường học xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trường học phải trả giá khá đắt.
Dừng chân ở Thái Nguyên để hôm sau lại lên đường. Hai hướng cần đi tiếp trên đất Việt Bắc: hướng đông tới Bắc Sơn hướng tây - bắc tới Tân Trào.
Bắc Sơn được biết tới như một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đây hồi tháng 10 năm 1940 với sự ra đời của đội du kích Bắc Sơn (sau đó trở thành ba trung đội Cứu quốc quân). Cuộc khởi nghĩa không thành công nhưng đã gây được tiếng vang lớn. Bài hát Bắc Sơn của Văn Cao cũng như ở vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng càng làm cho cái tên Bắc Sơn trở thành một điểm sáng trong di sản tinh thần của đất nước. Nhưng Bắc Sơn không chỉ là một dấu tích lịch sử hiện đại. Nó còn là một dấu tích lịch sử xa xưa được các nhà khảo cổ đặt tên là văn hóa Bắc Sơn. Khối núi đá vôi Bắc Sơn hiện lên sừng sững như một trường thành chạy dài ven hữu ngạn sông Thương. Đây là nơi cư dân nguyên thủy từng ở trong các hang động đá vôi thời đồ đá mới. Trong tầng văn hóa ở đây (dày đến 1,3m) đã tìm thấy nhiều đi tích có giá trị khảo cổ lớn: những rìu đá tứ giác, những rìu đá có kích thước nhỏ, mài nhẵn, lưỡi sắc, những chiếc đục nhỏ, dài, những vòng đá lớn và đẹp. Người cổ Bắc Sơn đã đạt tới một kỹ thuật chế tạo đồ đá rất cao kể cả cưa đá, khoan đá... và cũng đạt tới kỹ thuật đồ gốm khá độc đáo.
Tân Trào là một khu di tích lịch sử đặc biệt, gắn liền với Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tân Trào nằm trên đường Thái Nguyên - Tuyên Quang. Đến huyện lỵ Sơn Dương rẽ theo sông Đáy lên phía bắc, bạn gặp một thung lũng nhỏ ở chân đèo Re, đó là Tân Trào tên gọi ấy được đặt trong thời kỳ lập khu giải phóng ở Việt Bắc cho một làng cũ của người Tày: làng Kim Long. Từ đây có nhiều ngả đường tỏa bốn phía, có mái đình cổ kính, có cây đa cổ thụ, một cảnh miền núi mang nhiều dáng nét của vùng quê đồng bằng.
Tân Trào được chọn làm "thủ đô" của khu giải phóng. Trong những ngày tiền khởi nghĩa, Bác Hồ từ Cao Bằng về ở đây, trong một lán nhỏ cạnh núi Hồng. Những ngày ấy, thời cơ khởi nghĩa dần dần chín muồi, Bác ốm nặng tưởng không qua khỏi, vẫn dặn dò những lời hùng khí: "Thời cơ thuận lợi đã đến dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập". Tại Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945, hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp, quyết định tổng khởi nghĩa và ngày 16 tháng 8, trong ngôi đình cột gỗ, lợp gồi, Quốc dân đại hội họp, đại biểu từ các miền kéo về bầu Ủy Ban giải phóng dân tộc toàn quốc (tức chính phủ cách mạng lâm thời) do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Một cảnh tượng đại hội được Nguyễn Lương Bằng xúc động ghi lại, âm hưởng vang tới tận bây giờ "Hôm ấy có đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào đến mừng đại hội. Trong đoàn đại biểu ấy, đáng thương nhất là các em bé thiểu số gầy gò, vàng vọt... chúng nó ở truồng tồng ngồng, theo người lớn đến chào Quốc dân đại hội, Bác Hồ đến gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu trong đại hội:
"Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm ăn no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này".
Sau ngôi đình, gần làng, có cây đa Tân Trào, nơi tập trung các chiến sĩ Giải phóng quân để kéo về giải phóng thị xã Thái Nguyên, rồi sau đó về Hà Nội. Những ai đã ở Việt Bắc tám năm chống Pháp (1946 - 1954) thì sau này dù về Hà Nội hay Huế hay Sài Gòn vẫn không bao giờ quên được Việt Bắc:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng dọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Tố Hữu - Việt Bắc)
TÂY BẮC
Điện Biên Phủ: một địa đanh cả thế giới biết đến.
Tây Bắc: một vùng mà vào thời chống Pháp chưa mấy ai đặt chân đến. Máy bay từ Hà Nội, chỉ cần một tiếng đồng hồ là đến Điện Biên Phủ. Đi ô tô quanh co đường núi, hết đèo này sang đèo khác, vượt suối qua rừng phải đến 400km.
Từ trên máy bay nhìn xuống, người ta tự hỏi: Không hiểu vì sao Navarre, một trong những tướng tài ba nhất của Pháp lại đem quân tự nhốt mình vào cái "chậu" (tiếng Pháp là Cuvette) bốn bề bịt kín thế này. Đứng từ máy bay nhìn xuống đồng bằng Mường Thanh với căn cứ Điện Biên Phủ quả là một cái chậu bốn bề núi cao, vào đấy là hết đường thoát.
Nhưng đi bộ từ đồng bằng lên, nhớ lại cảnh những đoàn dân công trèo đèo lội suối, dưới làn bom đạn của địch, gánh và thồ từng ki-lô gạo, từng hòm đạn lặn lội 100km mới đến đích, người ta lại tự hỏi: không hiểu vì sao tướng Giáp lại dẫn những đơn vị chủ lực của mình từ xa xôi đến đây để giao chiến trong hoàn cảnh vô cùng không thuận lợi?
Cuối năm 1953 chiến tranh Đông Dương kéo dài từ 1945 đã bước vào giai đoạn quyết định: trên một nền chiến sự du kích và chống du kích lớn rộng, mỗi bên phải tìm cách "bẻ gãy xương sống" của địch là những đơn vị thiện chiến nhất trong một hay vài trận tập trung qui mô lớn, buộc đối thủ phải ngừng chiến, điều đình trong thế thua trận. Chỉ có du kích chống du kích thì chiến tranh kéo dài vô thời hạn, bên nào cũng đứng trước yêu sách phải kết thúc chiến tranh.
Để thực hiện mục tiêu ấy, Pháp được Mỹ viện trợ cho toàn bộ vũ khí và 80% chi phí; đội quân viễn chinh Pháp được tăng cường về vũ khí, quân số, hỏa lực, khả năng cơ động. Mỹ cho những sĩ quan cao cấp sang giúp chỉ huy Pháp thực hiện một kế hoạch qui mô lớn.
Bộ chỉ huy Pháp rất am hiểu địa hình địa thế: rừng núi Tây Bắc rất hiểm trở, thời ấy ai từ đồng bằng lên đấy chẳng bao lâu liền bị sốt rét, và một người gánh 25kg gạo từ Nam Định, Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ ăn đọc đường đi về đã mất hơn 20kg, để lại một vài ki lô. Chưa nói là dọc đường bị máy bay Pháp luôn luôn uy hiếp. Muốn đánh một căn cứ lớn như Điện Biên Phủ, được xây dựng kiên cố, được pháo hạng nặng và xe tăng, máy bay yểm hộ phải huy động một số quân lớn trong nhiều tuần, làm sao mà tiếp tế được? Một bài toán nan giải cho phía Việt Nam.
Chiến trường Đông Dương rộng mênh mông, bên nào cũng cố tìm cho ra một nơi mà bên kia chấp nhận để chạm trán một cách quyết định; muốn vậy phải có một nơi mà bên nào cũng có thể nghĩ rằng có vẻ bất lợi cho mình mà thật ra là bất lợi cho đối phương. Nơi ấy là Điện Biên Phủ. Cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ từ tháng 11 - 1953, xây đựng xong căn cứ, tướng Navarre nóng lòng chờ đợi quân Việt Nam sẽ đánh vào tình báo Pháp cho biết là Việt Nam sẽ tấn công vào một ngày giữa tháng 1 - 1954. Đúng thế. Dựa theo ý kiến của một vài cố vấn, bộ chi huy Việt Nam định thực hiện kế hoạch đánh nhanh chiếm nhanh, cho quân tràn vào căn cứ không kể hy sinh, trong ít ngày là xong, không cần tích trữ nhiều lương thực đạn dược, mười lăm phút trước giờ qui định để nổ súng, đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho tất cả các đơn vị hoãn tấn công. Chỉ huy Pháp chờ suốt đêm hôm ấy thất vọng như một người đi săn thấy mồi sắp sa vào bẫy rồi lại bỏ đi.
Hai tháng sau, ngày 11 - 3 - 1954, tích trữ đầy đủ lương thực đạn dược để đánh lâu dài, quân ta nổ súng.
Rồi chiến sự kéo dài 55 ngày đêm; ngày 7 - 5 - 1954, tướng Pháp De Castries kéo cờ trắng đầu hàng. Lần đầu tiên trong lịch sử, một đội quân của dế quốc hùng mạnh bị quân Giải Phóng của một dân tộc thuộc địa đánh bại trong một trận chính qui lớn. Đây là hồi chuông báo tử cho chế độ thực dân cũ trên phạm vi toàn cầu.
Bài toán vận chuyển (logistique) mà chỉ huy Pháp - Mỹ cho là nan giải, phía Việt Nam đã giải quyết như thế nào? Đứng trước sự thách đố mới, khi quân Pháp được viện trợ Mỹ tiếp sức ồ ạt, lãnh đạo phía Việt Nam đã đối phó với... cải cách ruộng đất. Một điều mà không sách binh thư nào của chủ nghĩa tư bản nói đến, cho nên chỉ huy Pháp vẫn yên trí là phía địch không có gì thay đổi.
Quân đội Việt Nam thời ấy đại đa số gồm nông dân nghèo, yêu nước nồng nhiệt, nhưng xa nhà nhiều năm nhiều khi cũng phân vân không biết vợ con ở làng nếu cứ tiếp tục cày thuê làm mướn mãi, nộp tô lãi liệu có sống được yên lành không? Phát động cải cách ruộng đất làm cho hàng chục triệu người đứng lên mãnh liệt hưởng ứng lời kêu gọi cố gắng vượt bậc để thắng quân Pháp - Mỹ. Mấy chục vạn người xung phong đi dân công, bộ đội lao mình ra phía trước không đèo cao rừng thẳm nào ngăn được họ. Cầu hàng không của Pháp đã thua đội vai và chiếc xe đạp thồ của hàng chục triệu người, cải cách ruộng đất đã thắng liên minh đế quốc.
Pháp cũng rất tin tưởng ở pháo hạng nặng của mình, và đại tá Piroth tuyên bố, hễ pháo Việt Minh lên tiếng là pháo của ông ta bắn trả gấp đôi buộc phải "câm họng" ngay. Thế rồi pháo Việt Nam nã vào đồn Him Lam, pháo Pháp không làm sao chế ngự được. Cuối ngày đầu, đồn Him Lam thất thủ, đại tá Piroth tự sát.
Còn làm sao cho quân tiến từ núi cao xuống giữa đồng vượt qua 6 - 8km dưới bom đạn từ máy bay, xe tăng, đồn lũy bắn xuống, bắn ra? Không phải dùng "biển người" hy sinh xương máu của chiến sĩ. Tướng Giáp còn nhớ ngày thành lập quân đội giải phóng, mười năm trước, lúc mới vỏn vẹn vài chục người, Bác Hồ đã nhắc nhở, tránh làm sao đừng để "nhất tướng danh thành vạn cốt khô" (để cho một tướng lừng danh, hàng vạn bộ xương phải héo khô). Mấy trăm cây số đường hầm được quân ta đào để tránh bom, tránh đạn, chiếc xẻng đã trở thành vũ khí không kém quan trọng so với khẩu súng. Quân Pháp thấy ngày này qua ngày khác, hầm hào cứ tiến lên chi chít bao vây đồn lũy như một mạng nhện vây lấy con ruồi, mà không biết làm sao thoát bẫy.
Cuối cùng những người giăng bẫy lại chết vì bẫy. Điện Biên Phủ là vậy, làm người Việt Nam, kể ra phải cố gắng lên tận Điện Biên Phủ một lần, sau khi đi viếng Bạch Đằng hay Chi Lăng. Điện Biên Phủ là chiến thắng đầu tiên của một đội quân, của một dân tộc thuộc địa đánh bại một đội quân đế quốc trên một chiến trường chính qui. Các bạn Algérie bảo nếu không có Điện Biên Phủ đã không có kháng chiến Algérie.
°°°
Muốn thăm Tây Bắc, hay nhất là đi từ Hà Nội lên Lào Cai, trên con đường chạy song song với sông Hồng (từ Bạch Hạt trở lên gọi là sông Thao), đọc đường đã thấy về phía tây nam dựng lên sừng sững đồ sộ khối núi Hoàng Liên Sơn. Rồi từ Lào Cai qua Sa Pa sang Lai Châu, Lai Châu đi Điện Biên Phủ, từ Điện Biên Phủ quay về Thuận Giáo, theo đường số 6 trở về Hà Nội qua Sơn La, Mộc Châu, Hòa Bình. Trên một tuyến hơn 1.000km có dịp vượt qua sông Hồng, sông Đà, xuyên qua những dãy núi cao ngất tiếp xúc với đồng bào nhiều tộc người khác nhau, ôn lại những chặng đường lịch sử sôi động, dự tính những triển vọng ngày mai. Một chuyến đi như vậy đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, nhưng dù sao, tôi cũng mới chỉ cưỡi ngựa xem hoa, cho nên tôi phải mượn lời của những nhà địa lý, nhà văn, nhà thơ đã từng lặn lội vùng ấy nhiều lần nhiều năm.
Lào Cai là nơi sông Hồng bắt đầu chảy qua địa phận nước ta, với người xưa là địa dầu sơn cùng thủy tận.
Ai đưa tôi đến chỗ này
Bên kia Cốc Lếu, bên này Lào Cai
Từ Lào Cai leo núi đi 20km là đến Sa Pa, thị trấn ở cao trên 1.500m, chung quanh là những đỉnh núi trên 2.000m Ta có dịp dạo vào rừng, một loại rừng đã "vắng hẳn các cây nhiệt đới, một loại rừng á nhiệt đới (subtropical) núi cao, gồm chủ yếu những cây lá kim chính như pơmu, mà mùi gỗ thơm vừa dịu vừa say, các cây thông nàng, thông tre lá lớn, sa mộc, liễu sam xen lẫn với các loài cây lá rộng thuộc họ sồi dẻ và họ đỗ quyên, gốc và thân cây thường khoác một lớp rêu xanh dày ẩm" (Lê Bá Thảo).
Từ Lào Cai đã thấy xa xa trong mây mù đỉnh núi cao nhất nước ta, đỉnh Phan Xi Pan (3.143m). Nguyễn Tuân ghi lại: "Sông thì đầu nguồn, núi thì tuyệt đỉnh, non nước Lào Cai thật chí tình. Tôi cố lóp ngóp lên tới tuyến đỉnh Phan Xi Pan. Tuyệt đối không một con vắt, một con muỗi, một con ruồi. Không khí trong lành. Tối trời thì đêm nhìn thấy quầng ánh sáng công nghiệp Việt Trì. Bụi thì hiếm mà trúc thì giống như cái phất trần mà mặt núi thì như mâm xôi. Mỏm núi nào hoa đỗ quyên (Rhododendron) ngũ sắc cũng nở bạt ngàn".
Từ Sa Pa ta rẽ qua Bình Lư, Cam Đường, Phong Thổ về Lai Châu, vượt qua những khối núi được gọi chung là Hoàng Liên Sơn lấy tên một cây thuốc mộc phổ biến ở đây, qua đèo Ô Qui Hổ trên 2.000m; "qua đất Cam Đường núi nhú lên như chín mươi chín cái bánh bao tày đình; qua cánh đồng Bình Lư mà ao nhớn ao con là chín mươi chín cái đĩa dựng tài báo; băng qua chân dãy núi Pu Cam Cap ngọn lênh khênh trên trời Tây Bắc; rồi là lọt vào trận địa tiền tiêu của sơn hệ Hoàng Liên Sơn hiểm trở, và chọc thủng mấy dặm sương mù buốt óc, thì lồ lộ bên tay phải anh là đỉnh Phan Xi Pan" (Nguyễn Tuân).
Núi, rừng, sông suối hiền hòa vào mùa khô, hung dữ sau những trận mưa rào, đây là khối núi cao nhất nước ta, chắc nịch nằm dài từ Vân Nam đến Hòa Bình, cái đuôi còn kéo dài tận Thanh Hóa, từ sông Hồng đến thượng Lào. Đối với những người miền xuôi từ trước đến nay, Tây Bắc vẫn giữ tính chất xa lạ, bí ẩn. Cuối thế kỷ XIX, ông đình nguyên Nguyễn Quang Bích lên đây xây dựng căn cứ chống Pháp đã có thơ:
Loanh quanh chừng vài dặm
Chót vót nghìn tầng cao
Quất ngựa lên đỉnh núi
Núi đầy những lách lau
Bốn phía không bóng người
Chinh phu lòng nao nao
Động lòng núi cũng chuyển
Há ngại đường gian lao
Hơn năm chục năm sau, nhà thơ Quang Dũng đi kháng chiến chống Pháp ghi lại:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mùa xa khơi (...)
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (...)
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Sau nhiều năm khảo sát, nhà địa lý học Lê Bá Thảo vẫn công nhận: "Chưa ai nói rằng chúng ta đã phát hiện ra tất cả sự giàu có của thiên nhiên Tây Bắc. Ngay đến vẻ đẹp kỳ lạ của lãnh thổ này cũng còn khó nhận thức được hết, quang cảnh thay đổi hầu như liên tục và thường là đột ngột trên đường đi. Chúng ta chưa kịp nhìn ánh sáng chiếu nô giỡn trên các vòm cây trong thung lũng của đồng bào Thái, có những bánh xe nước khẳng khiu đang quay một cách chậm chạp thì các tia nắng đã chuyển lên các đỉnh cao hơn, nơi lác đác những mái nhà của đồng bảo Mèo đang nhẹ nhàng tỏa khói lam nhạt bên những vườn hoa thuốc phiện sặc sỡ. Chứng kiến chưa kịp hết ngạc nhiên vì vẻ đẹp của rừng cây hoa ban được ca tụng trong các bản tình ca Tây Bắc thì đã lọt vào những khu rừng ẩm ướt và lạnh lẽo vì khí đá và bóng tối. Tây Bắc quả là còn mang trong nó nhiều bí mật mà chúng ta chưa phát hiện hết.".
Từ Lai Châu, có thể ngược lên thượng lưu sông Đà (khúc này gọi là Nậm Tè), có vùng núi Pu Si Lung với đỉnh cao lên đến 3.096m; con đường Lai Châu qua Phong Sa Lỳ bên Lào vượt qua dãy núi Pu Đen Đinh hoang vắng, chỉ có vài thung lũng như Mường Tè tập trung một vài bản chiềng đông đúc. Phía nam Lai Châu là thượng nguồn sông Mã; đây có sông Nậm Rốn chảy về sông Mê Kông tạo nên cánh đồng Mường Thanh - Điện Biên. Thế kỷ XVIII Hoàng Công Chất đã lên cùng đồng bào miền núi xây dựng căn cứ chống chính quyền phong kiến, nay còn vết thành lũy và đồng bào Thái còn bài ca với câu "tiếng hát của keo Chất trong phủ, ngân vang khắp Mường Thanh bao la".
Từ Điện Biên quay về Tuần Giáo con đường số 6 chạy song song xuôi dòng sông Đà, con sông lớn của miền Bắc, tải một nửa lưu lượng nước của sông Hồng; sông rộng, nhiều ghềnh, qua nhiều đoạn vách dựng đứng, đồng bào Thái trên những chiếc thuyền độc mộc đuôi én ngày ngày lên thác xuống ghềnh. Từ Vạn Yên trở xuôi tàu bè đi lại dễ dàng hơn. Trên đường số 6 sau Tuần Giáo, qua đèo Pha Đin dài 26km, ta xuôi về Sơn La, nơi thực dân Pháp ngày trước đày những người tù chính trị. Nhà tù nay đã đổ nát, những cây đào do Tô Hiệu trồng lên mỗi độ xuân sang lại nở hoa, và trên tường các buồng giam còn lại dấu vết chữ viết của những người yêu nước.
Từ Sơn La về Hòa Bình qua Nà Sản, Yên Châu, ta sẽ đi ngang cao nguyên Mộc Châu, nay có một nông trường rộng lớn, những cánh đồng hoang vu ngày trước đã trở thành những đồng cỏ chăn nuôi bò sữa, những nơi trồng chè, trồng ngô và những xưởng chế biến sữa và chè đã bắt đầu tô điểm cho vùng này một vài nét công nghiệp. Đến suối Rút con đường số 6 lại gặp sông Đà uốn khúc chuyển sang hướng nam bắc để đổ vào sông Hồng. Khúc sông này nay mọi người đã thường nghe nhắc đến, vì đây là nơi xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình, một công trình đã tạo ra một cái hồ lớn dài trên 300km, công suất gần 2 triệu ki-lô- oát. Một bằng chứng của tình nghĩa đậm đà giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô, nhắc lại cho mọi người dù cho thế nào đi nữa cũng không thể quên ơn của những người bạn thân tình.
Đi Tây Bắc vào mùa xuân, du khách được may mắn ngắm "cảnh hoa ban nở rộ lung linh, hoa trắng núi trắng trời, nở không kịp rụng, và từ bờ sông Đà qua Nậm Goòn rồi bắt qua trục số 6, quãng rừng này toàn là ban. Hạnh phúc thay cho người đi công tác mà lọt vào trận địa hoa ban này vào lúc nó mãn khai thi đua nở cho hết để đúng mùa. Ban ở sau lưng anh, ban ở trước mặt, ban ở bên phải, ban ở bên trái, ban ở trên đầu, ban ở dưới chân trong lòng lũng. Ban ngang tầm người anh nhưng lại nép ở bên kia mép vực đá. Nếu không sợ sa xuống vực, cứ vừa bước vừa ngước lên, thấy mây trời cứ vờn vào nhị vào cánh ban trong suốt, ánh sáng như lọc qua một thứ giấy thông thảo hồng hồng. Nếu không sợ vấp, vừa bước vừa nhìn xuống vực sâu, thấy rừng hoa trắng như đang loang ra trên dòng suối thăm thẳm xanh ve dưới lũng sâu. Trắng trời trắng núi một thế giới ban. Người anh ròng rã hai ngày quyện trong một mùi thơm mát nhẹ đăng đắng ẩn ẩn hiện hiện như mùi phong lan rừng cấm. Từ trên thinh không phả xuống cái hương tình của tình sử Thái, luồng thơm này liên tiếp những luồng thơm khác. Đôi lúc một luồng gió nóng tạt ngang vào, thổi từ một quả đồi người Mèo đang đốt cỏ gianh làm nương tra bắp. Có hơi nóng đất nương, hương thơm ban bốc mạnh lên như cái ngào ngạt hấp hơi của một gian buồng nhiều vòng hoa nẫu cánh vì tiếng nhị tiếng sáo, hơi trầm hơi ấm. Con ngựa thồ tài liệu đi trước, móng ngựa trước móng ngựa sau đều bết những cánh ban giẫm lên, còn hăng lên cái mùi hoa tươi bị nghiền nát.
Hoa ban, tiếng Mèo gọi là Pà Lẩu. Pà là hoa. Lẩu còn có nghĩa là già, người già. Một anh bạn Mèo cắt nghĩa cho tôi nghe: Hoa ban là thứ hoa có thể làm cho người già trẻ lại như cô gái Mèo mặc váy chếp bằng lanh trắng. Màu trắng hoa ban làm cho bà già Mèo nhớ lại hồi thanh xuân mình mặc váy trắng in hình lên núi xanh mùa xuân". (Cả đoạn về hoa ban là của Nguyễn Tuân).
Trên con đường dạo qua Tây Bắc, ta sẽ vào thăm bản chiềng của các đồng bào thiểu số, làm quen với những cô gái
Không chua không chát, ngọt ngào như tiếng cười, tiếng hát
Giỏi đánh cồng, ham xòe quạt, thích gội đầu tóc lá sả như rêu
Thích làm nương, đi xúc, dệt thêu, ghét lắm những người đi làm giặc
Đụng vào khung cửi vải thành hoa; khua cái chày hóa ra gạo trắng
(bài ca Thái do CẦM GIANG dịch)
Người đàn bà Thái lên nương lao động xong, trước lúc về làng ghé suối tắm rửa sạch sẽ thay quần áo đàng hoàng rồi mới trở về bản, với chiếc váy đen và chiếc áo trắng tinh, làm nổi bật thân hình người phụ nữ, nẹp áo cài hai hàng khuy bạc hình bướm, gấu váy có khi dệt hoa văn trang nhã. Nhiều khi nhìn những cô gái Thái giữa cảnh rừng núi, mà tôi có cảm tưởng như gặp nhưng cô trưng diện áo quần mốt mới (mannequin) ở Pari, thanh lịch không kém. Du khách may mắn có khi chợt gặp các cô đang tắm ở dòng suối, và có bị trách vài lời cũng vui lòng thôi:
Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm
Da của em ngần trắng
Da của ái của êm
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng....
(thơ của Bạc Văn Ùi - Cầm Giang dịch)
Bà B. đã trên 60 tuổi, sống ở Hà Nội bao nhiêu năm rồi, lúc kể lại cho tôi những câu chuyện thời con gái mới lớn lên, 11, 12 bắt đầu học trồng bông, kéo sợi, dệt vải, dệt thổ cẩm, kể những chuyện tang ma, cưới hỏi vẫn giữ tính hồn nhiên mà thanh lịch. Bà căn dặn: lên xứ Thái, cẩn thận đấy, ai hỏi về gia đình họ hàng, bảo tôi còn ông cụ bà cụ là phải chúc mỗi người chén rượu, có bao nhiêu chú bác, anh chị em là cần bấy nhiêu chén rượu đấy! Và nếu gặp ông bà già hỏi con trai đi đâu, nếu nghe trả lời: đang đi chơi gái, đó là ông bà già nói chưa sõi tiếng Kinh thôi. Con trai, con gái trên Thái tự do hơn ở miền xuôi, trong bản được cùng nhau trò chuyện chơi đùa. Mà con trai trước kia đi ở rể phải đến nhà gái ba năm, quần quật suốt ngày, phải tỏ ra là khỏe, khéo, siêng làm. Để thử sức, sáng dậy gia đình vợ có khi "quên" cho ăn, lên nương thì giao cho đốn những cây to nhất; ba năm trai gái hiểu nhau, biết rõ tính tình nhau mới được cưới. Bà kể lại có anh chàng ở rể ba năm như vậy, cô gái suốt ba năm không tỏ ý gì, không nói một lời nào, cho đến ngày hai gia đình quyết định tổ chức cưới. Chẳng nói chẳng rằng, cô ta lấy chiếc kéo cắt ngang búi tóc của cô, một hành động nói rõ ý mình nhất định không lấy anh chàng kia, cuối cùng bố mẹ cũng đành chịu.
Bà cũng kể lại nhiều chuyện, thần thoại có, dã sử có, và sự hình thành trời đất, nạn hồng thủy, chuyện quả bầu sinh ra các tộc người, chuyện người đàn bà góa cắt đứt dây nối trời với đất, làm cho trời bay cao lên, chuyện con rùa cứu người... Xin kể lại chuyện con khỉ, ngày xưa ở với người, gặt hái với người; một hôm có một con châu chấu đậu lên sống mũi của khỉ, người lấy cái liềm hua một cái, khỉ nghĩ rằng ở với người vụng về quá, bỏ lên rừng, thà ăn trái ăn lá, và từ đó loài khỉ có mũi dẹt.
Có chuyện về lịch sử, lúc người đến Mường Thanh cách đây gần một nghìn năm, thời ấy cũng như nhiều thời khác, các tộc người dễ đánh nhau, bà bảo đồi A1 nổi tiếng trong trận Điện Biên Phủ xưa cũng là đồn ải. Người Xá, người Thái đánh nhau kéo dài, lãnh tụ Thái cho con sang làm rể bên Xá. Con rể dùng mưu giết bố vợ. Về sau con cái ốm đau mãi, anh rể có hôm tự trách mình đã giết bố vợ, để oan hồn làm hại con, em vợ nghe được kể lại cho chị. Người vợ cũng là nữ tướng, đóng đồn bên cạnh đồn chồng, hai đồn cách nhau một cái cầu. Nàng vẫn thương chồng nhưng thù cha phải trả; một đêm trăng, khi hai vợ chồng ngồi bên cầu tâm sự với nhau, nàng ôm lấy chồng. Đó là dấu hiệu cho một cô gái khác nấp trong bụi cây bắn một mũi tên thuốc độc đúng bã vai ông chồng. Lên xứ Thái vào những nhà sàn rộng rãi, đêm đêm vừa uống rượu vừa nghe kể chuyện, xem ca múa; có khi xen cả thần thoại của tộc người khác, nghe các cụ già nói về tầng vũ trụ, tầng trên cùng là tầng hỗn mang của những người "ăn sương ở gió", lang thang đây đó, rồi đến tầng của tổ tiên và các vị thần lúa tốt quanh năm, sống lâu muôn tuổi, có quả bầu sinh ra người, sau tầng mây là vòm trời với các vì sao trăng, có các nàng tiên cho xoay quả cầu giam hãm con chó Chuông Nhánh, một khi sổ lồng, nó nuốt nàng mặt trời, gây ra nhật thực. Nguyệt thực thì do ếch ăn trăng. Tầng thứ là của loài người và ma quỉ kèm theo tầng dưới nước có thuồng luồng, cuối cùng là tầng dưới đất, có loài người tí hon, chuyên ăn đất. Ma quỉ, thần tiên đều sinh sống, làm ăn yêu ghét, sinh con, tranh chấp chém giết nhau. Nghe những câu chuyện ngày xưa, nghệ thuật sáng tạo chen lẫn mê tín, những thuần phong mỹ tục quyện với những tục lệ cổ hủ đè nặng lên con người, ta thấy rõ làm cách mạng ở đây không thể thô bạo, máy móc, quyết đoán diệt trừ cái này cái khác, như người cầm chiếc rựa phạt những bụi cây dại.
Cả một nền văn hóa cổ truyền phong phú, gồm không biết bao nhiêu truyền thuyết huyền thoại, cả một nền nghệ thuật ca múa nhạc, và một nền văn học chữ viết với những bản trường ca đọc mấy đêm ròng chưa hết; những tập dân ca, đồng dao, những cuốn sử ghi chép dày hăng trăm trang, thật là vốn quí mà người Thái góp chung vào vốn chung của đại gia đình các tộc người ở nước ta.
Quyển sách mà người Thái là "quí nhất trong mọi sách quí" là Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu), một truyện thơ kể chuyện một đôi trai gái sống gần nhau từ tuổi ngây thơ, thề với nhau: sông Đà cạn bằng chiếc đũa mới quên nhau. Nhưng số phận long đong, sau nhiều năm tủi hận xa cách mới lấy được nhau. Sách tả một cách bình dị nên thơ những cảnh hai em trẻ cùng nhau chăn gà, vầy cá, hái măng đến khi lớn lên giăng lưới liệng chài, xe chặt sợi mai. "lưới muôn mắt, anh dăng xuống nước, đứng mũi thuyền anh liệng chài tơ, ngồi lái thuyền, anh so lưới sợi". Tình với cảnh, con người với thiên nhiên hòa hợp: "Mặt trời xuống thấp, mặt trời sát qua phai, mặt trời qua sân ngoài người thương, mặt trời quấn ngọn đang sắp lặn". Yêu nhau mà cứ nơm nớp lo sợ "yêu nhau sợ Then không thương, Then thương sợ trời cao không giúp, Trời giúp sợ mẹ của không ưng". Bị ép duyên, người con gái "đau tận ruột, buốt tận tim", nước mắt "dòng rơi đằng trước đủ rửa rau muôn giỏ, dòng rơi đằng sau đủ rửa rau muôn vườn", than thân trách phận mình "chỉ bằng thân con bọ ngựa, bằng con chẫu chuộc". Nhưng không đầu hàng "không lấy được nàng ta làm loạn giữa phủ, không lấy được em, anh làm loạn giữa mường".
Các bài dân ca tố cáo một chế độ ác nghiệt, và miêu tả tế nhị tâm tư của đôi trai gái, “nhớ chắc chắn như gà con nhặt tấm; nhớ khăng khăng tình son sắt còn đeo", lúc thì xa "xa một sải, ta kéo gầu một với, xa một với, ta kéo gầu một gang". Với tính nhạc phong phú, khi được trình diễn, tác phẩm hấp dẫn được người nghe, đọc thơ "tiễn dặn" không biết hát cũng phải biết hát.
°°°
Xuôi về vùng Hoà Bình, chúng ta bước vào đất của đồng bào Mường. Nói đúng hơn những thung lũng thấp thì đồng bào Mường cư trú, cao hơn là đồng bào Thái, rồi đến các tộc người khác, cuối cùng là đồng bào Hmông (Mèo). Người đến trước ở đất thấp, đến sau phải lên cao. Theo hầu hết các nhà nghiên cứu, thì Mường và Việt, xa xưa là một, ngôn ngữ phong tục giống nhau, đã cùng xây dựng một nền văn hoá chung cho đến thế kỷ X mới tách làm hai. Ở những vùng gần Ba Vì, đồng bào Mường cũng thờ thần Tản Viên, khi gọi là Bun Tản, khi là Thánh Tản, Bun Ông. Người Mường cũng có một nền văn học dân gian phong phú, có những truyện thơ như Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối, Nàng Ơm - Chàng Bồng Hương, Nàng Con Côi... Truyền thuyết phong phú, nhân vật chính trong các truyện cổ tích thường là nhưng người mồ côi nghèo khổ. Cần kể đến loại lễ ca, những bài mo, bài khấn do ông mo, ông trượng đọc và hát trong đám tang khi cầu vía.
Bài "Đẻ đất đẻ nước" gồm hai vạn câu kể chuyện từ khi đất trời chưa phân chia, sau đó mới có đất, có nước, có cây cối, rồi đến thời săn thú dữ, xuất hiện những ông khổng lồ. Sau đó, Lang Cun Cần ra đời chia đất, quần chúng nổi lên đấu nhà lang, đưa cây chu đồng bị lang chiếm về làm của công. Rồi mở địa bàn cư trú từ núi về đồng bằng. Muôn vật sinh ra thời hỗn mang, khi "đất còn pạc lạc, nương còn pời lời, trời còn puổng luổng" Rồi mưa to "nước vượt khỏi bảy đồi", "nước dâng qua chín đồi" rồi sinh ra một cây si lớn, sinh cành lá, tạo nên bản mường, sinh chim Tùng, chim Tốt, thủy tổ loài người. Trong bài mo này, có chuyện tìm ra lửa, tìm được giống lúa, thuần dưỡng thú rừng, học làm nhà, có chuyện chia đất. Thần thoại xen lẫn dã sử. Lang Cun Cần lúc đầu là anh hùng lãnh đạo tập thể, sau đứng trên cộng đồng, có chuyện người bắn cung tha cho chim Vàng Anh bé nhỏ, con rùa trở thành kiến trúc sư dạy người làm nhà, chim Chiền Chiện ấp trứng thần kỳ. Truyện chứa nhiều ca dao, trò diễn, nhạc, ca hát.
Ca hát là một sinh hoạt thông thường, hát Xéc bùa được nhiều người ưa chuộng. Người ta tổ chức thành từng tốp từ năm - bảy đến hai mươi người, gọi là phường Bùa, với mỗi người một cái cồng hát xong một bài là đánh một đoạn hạc cồng. Trong những dịp tết, cưới xin, hội hè phường Bùa đi từ nhà này sang nhà khác vừa hát vừa đánh cồng, các chủ nhà mời họ ăn uống, hoặc tặng gạo tiền. Hát Bộ Mẹng là hát giao duyên giữa tuổi trẻ; hát ví, đúm, thường theo hình thức đối đáp gặp nhau dọc đường, ở chợ, trong lao động; ngoài ra còn có hát ru con, đồng dao, hát đập hoa, hát đố.
Việt Bắc - Tây Bắc, hai vùng ôm lấy đồng bằng sông Hồng, miền ngược miền xuôi bổ sung cho nhau hình thành cơ sở đầu tiên của quốc gia dân tộc Việt Nam. Miền xuôi cung cấp muối, đồ sắt cho miền núi, miền núi gửi về xuôi các thứ lâm sản, khoáng sản. Đứng trước ngoại xâm, rừng núi là thành lũy, và người Kinh hợp sức với các tộc người thiểu số mới bảo vệ được tự do độc lập. Trao đổi kinh tế và cùng nhau bảo vệ độc lập là hai mối quan hệ được xây dựng từ nghìn xưa.
Nhưng trong những thế kỷ trước, cũng có những yếu tố ngăn cản sự cố kết các tộc người với nhau. Trước hết là khoa học kỹ thuật kém phát triển, giao thông liên lạc khó khăn, làm cho mỗi người sống riêng lẻ, ít giao dịch với nhau. Thêm nữa bệnh sốt rét hoành hành ở miền núi, một mặt ngăn cản người Kinh lên sống ở miền núi, mặt khác tác hại rất lớn tới sức khỏe của đồng bào miền núi. Ngày nay, giao thông bắt đầu dễ dàng hơn, hàng hóa giao lưu nhiều hơn, miền núi đã có nhiều mỏ, xí nghiệp, nông trường, những đập thủy điện lớn nhỏ, hơn triệu người Kinh đã lên Việt Bắc - Tây Bắc cùng đống bào các dân tộc thiểu số xây dựng cuộc sống mới. Và cũng nhiều đồng bào miền núi về miền xuôi học hành, công tác, hoặc đi nước ngoài.
Đáng chú ý nhất là đà xuất hiện nhiều nhà văn, nhà điện ảnh, biên kịch người Tày, người Thái, người Hmông (và dĩ nhiên trong các tộc người Tây Nguyên nữa) Việt Nam gồm năm mươi bốn tộc người khác nhau điều ấy hứa hẹn cho chúng ta có một nền văn hóa hết sức đa dạng, nhiều màu sắc- trong đó truyền thống xa xưa nhất quyện lấy cái hiện đại, tương xứng với sự mong đợi của nhưng chiến sĩ đã hy sinh ở Điện Biên Phủ.
TÂY NGUYÊN
Tây nguyên...
Vùng đất giàu âm hưởng, nơi quá khứ thật xa xưa và hiện tại quyện nhau làm một, không tách nhau được. Xứ sở của núi rừng huyền bí, của những tiếng chiêng, tiếng cồng mênh mang. Xứ sở của những phong tục, tập quán lạ lùng từng là vùng đất đầy cảm hứng của các nhà dân tộc học. Xứ sở của những trường ca hùng vĩ, lung linh màu sắc huyền thoại, làm cho bao người cầm bút phải ước ao. Xứ sở của những vườn cà phê, những khu cao su ngút ngàn, một nguồn sức mạnh đáng kể của kinh tế Việt Nam. Xứ sở của những chiến công thời chống Pháp, của Đất nước đứng lên, và nhất là của thời chống Mỹ, của con đường mòn Hồ Chí Minh, của những trận đầu giải phóng miền Nam mùa xuân 1975. Xứ sở của nhiều kế hoạch phát triển kinh tế đồ sộ. Xứ sở của bao nhiêu điều kỳ thú khác đã được mô tả và chưa được mô tả.
Vì thế, chính là xứ sớ của du lịch. Về thăm đất nước, nếu chưa đặt chân đến vùng đất Tây Nguyên này, sẽ mất hẳn đi một mảng ấn tượng khó kiếm ở đâu khác.
Trong trí tưởng tượng của nhiều người, Tây Nguyên hiện lên như một vùng núi non trùng trùng điệp điệp. Đúng và không đúng.
Đúng vì ở đây, dãy Trường Sơn Nam chạy từ phía nam đèo Hải Vân cho đến miền Đông Nam Bộ, dựng nên những đỉnh núi chon von: Ngọc Lĩnh (2598m). Ngọc Pan (2261m). Ngọc Cơ Rinh (2025 m) ở phía bắc; Vọng Phu (2022 m), ở phía đông nam; Chư Giang Sin (2405m), Lang Biang (2163m), Bi Đúp (2287m) ở phía nam... Có thể coi đó là vùng núi cao nhất của bán đảo Đông Dương, và phần lớn được tạo bằng đá hoa cương (granít). Ở những vùng núi này, có thể gặp những khu rừng nhiều tầng, quy tụ nhiều loại cây của vùng nhiệt đới ẩm. Tầng cao là những gốc cây to một hai người ôm, phần lớn là những thứ gỗ quý (trắc, cẩm lai, mun, giáng hương...), tầng dưới chằng chịt những dây leo; rồi những rừng thông hai lá, ba lá khá thuần nhất có những thảm cỏ xen vào. Rừng núi Tây Nguyên chứa nhiều loại hoang thú: những đàn voi hiền lành nhưng dễ nổi giận, những đàn gấu đen săn lùng tổ ong ăn mật, những con nai vàng ngơ ngác, những bò rừng, báo, trăn hoa, những giống chim đẹp và hiếm, những con cá sấu trầm lặng đáng ngờ...
Nhưng không phải tất cả 55 nghìn km2 của Tây Nguyên đều là rừng núi.
Nhìn đại thể, núi hình thành một triền cao ở phía đông Tây Nguyên giống như một bức trường thành chắn những cơn bão lớn từ biển Đông tràn vào, che chở cho cả những vùng đất cao bằng phẳng nằm ở phía trong mà người ta thường gọi là các cao nguyên. Tây Nguyên chính là một "khối núi - cao nguyên". Theo các nhà địa lí học, khối này gồm hai phần có nguồn gốc khác nhau, gắn liền vào nhau tạo thành một thể thống nhất.
Đến Tây Nguyên, có thể nhìn ngắm những vùng đất khá bằng phẳng trên những độ cao khác nhau, chạy liền một dải đến tít tắp chân trời mà những dãy núi bọc quanh chỉ còn là những vệt lam mờ ảo. Người ta phân biệt rất rõ ba cao nguyên lớn:
- Cao nguyên Công Tum - Plây Cu ở phía bắc (cao từ 400m ở Công Tum lên 800m ở phía Plây Cu).
- Cao nguyên Đắc Lắc ở miền giữa hạ thấp xuống 400m.
- Sau vùng đất trũng Đắc Lắc, cao nguyên Lang Biang lại nhô lên tới 1500m để rồi lại hạ thấp xuống 1000m ở cao nguyên Di Linh về phía nam.
Nhìn chung, cả mặt bằng Tây Nguyên (trừ những vùng núi đá cao) được phủ lên cả một tầng đất bazan rất dày, có độ phì nhiêu khá cao, cây cối tự nhiên hoặc do người trồng lên đều lớn rất nhanh. Có thể nhìn thấy những rừng cà phê, cao su bạt ngàn, hàng lối ngay ngắn, đi hàng ngày trời chưa hết.
Lên Tây Nguyên nên đi mùa nào?
Kể ra mùa nào cũng có cái hay và cái không hay của nó. Mà Tây Nguyên thì mùa mưa và mùa khô lại chia tách nhau rõ rệt. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11-12. Mưa như đổ nước trời xuống, rừng núi như bao phủ cả một tấm màn nước trắng xóa, cái gì cũng xỉn lại một màu xám xịt của mưa dầm và cố nhiên, mùi ẩm ướt tỏa lên khắp nơi. Lượng mưa trung bình hàng năm trên dưới 2000mm, và số ngày mưa chiếm tới 130 - 170 ngày trong một năm. Vào mùa này, đường sá khó đi lại, nhất là những tuyến đường đất. Đối với khách du lịch, đó không phải là mùa ao ước. Nhưng đối với những ai muốn ở lại nghiên cứu vùng đất này lâu dài, thì đó lại là mùa "làm ăn" được. Những ngày mưa, nằm trong các ngôi nhà người Thượng, nghe các già làng kể chuyện bên bếp lửa, trò chuyện với họ trong những ngày nghỉ dài, là cơ hội tốt để tìm hiểu các tộc người ở đây.
Đối với số đông, mùa khô, nhất là những tháng đầu năm, khi nắng còn chưa gay gắt và không khí chưa khô lắm - thích hợp cho một chuyến lên Tây Nguyên ngắn ngày. Đặc biệt, khí hậu vùng cao nguyên Lang Biang, nơi có thành phố Đà Lạt nổi tiếng, gần giống với khí hậu vùng ôn đới, vì cao nguyên này có độ cao tới 1000m (nhiệt độ trung bình ở đây là 18oC, trong khi ở các cao nguyên phía bắc Tây Nguyên là 23 - 25oC).
Lên Tây Nguyên có thể đi bằng nhiều đường khác nhau. Hiện nay có máy bay từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh lên Buôn Mê Thuột, Plây Cu và Đà Lạt (sân bay Liên Khuơng).
Đường bộ bao giờ cũng sẵn phương tiện. Có một con đường di xuyên suốt cả vùng Tây Nguyên: đường 14, chạy từ Huế qua Bến Giàng, Đắc Tô rồi đến Công Tum - Plây Cu, từ đó lại đi Buôn Ma Thuột, rồi đến ngã ba biên giới Việt Nam, Lào, Campuchia và lại quành về Thành phố Hồ Chí Minh. Thông thường người ta từ Quy Nhơn lên Plây Cu và Công Tum. Từ Nha Trang qua Ninh Hòa lên Buôn Ma Thuột. Từ Nha Trang và Phan Rang lên Đà Lạt. Cũng có thể lên Đà Lạt từ Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ Quy Nhơn lên Plây Cu, bạn đi qua một số nơi khá nổi tiếng: thị trấn Phú Dong (nơi dệt lụa và nhiễu), Bình Khê (nơi dựng cơ nghiệp của Tây Sơn), An Khê (cũng là vùng đất Tây Sơn cũ)
Từ Nha Trang lên Buôn Ma Thuột, có những cảnh hùng vĩ, nhất là đám núi Vọng Phu (dân địa phương gọi là "Bà thần có chửa") với sự tích gần giống như sự tích nàng Tô Thị ở Lạng Sơn. Từ Nha Trang, qua Phan Rang lên Đà Lạt. Dọc đường nhìn ngắm bao nhiêu di tích và thắng cảnh tuyệt vời: Tháp Chàm, đèo Ngoạn Mục (Bellevue). Trước đây có một con đường sắt từ ga tháp Chàm lên Đà Lạt. Lên dốc cao tàu hỏa phải móc răng cưa, một con đường sắt rất độc đáo, nhưng tiếc thay, đã bị tháo gỡ, khó lòng làm lại được. Plây Cu là tỉnh lỵ của tỉnh Gia Lai - Công Tum. Trước kia người ta biết tới Công Tum nhiều hơn là Plây Cu, có lẽ vì Công Tum nổi tiếng với hai cuốn sách: Mọi Công Tum của Nguyễn Kim Chi và Ngục Công Tum của Lê Văn Hiến. Cuốn thứ nhất miêu tả đời sống của các dân tộc người thiểu số ở đây (có lẽ đó là một trong những tác phẩm dân tộc học đầu tiên của nước ta tuy do một thầy thuốc viết ), cuốn thứ hai mô tả cuộc đấu tranh kiên cường của các chính trị phạm sau đợt khủng bố của thực dân Pháp năm 1930 - 1931.
Đến Plây Cu nên đến thăm hồ T'nưng, một hạt ngọc của Tây Nguyên, hồ này nguyên là một miệng núi lửa cũ, rộng vài kilômét. Chỗ sâu nhất là 86m. Một con đường mòn xuyên qua hẻm núi gồ ghề dẫn tới hồ. Vùng hồ là vùng hoa: hoa êban màu lục, màu trắng, hoa mua màu tím, hoa ngải màu vàng, hoa súng, hoa sen phơn phớt trắng hồng. Đó cũng là nơi ẩn náu của nhiều loài chim đẹp: chim sin sít lông tím mỏ hồng, chim bói cá, chim d'rao, chim t'răc-ta, chim cơ-túc, cơ- vông...liệng cao trên bầu trời, chao xuống lẫn vào các cụm hoa dưới nước. Ngồi trên một con thuyền độc mộc lướt trên mặt hồ phẳng lặng, có một cảm giác yên tĩnh lạ thường.
Đời sống cùng với những cảnh vật ở các vùng dân tộc người miền Thượng ở Gia Lai-Công Tum bao giờ cũng là những điều cực kỳ hấp dẫn đối với khách phương xa. Tỉnh này có nhiều tộc người khác nhau, người Xơ Đăng (khoảng 7 vạn người, cư trú chủ yếu ở tỉnh này), người Ba Na (khoảng 10 vạn), và người Gia Rai (khoảng 18 vạn). Người Xơ Đăng và Ba Na thuộc ngôn ngữ Môn-khơ Me còn người Gia Rai thuộc ngôn ngữ Malayô - Pôlynêdi. Mỗi tộc người ấy lại chia thành những nhánh nhỏ. Ngày xưa các tộc người ấy nói chung làm nương rẫy là chính, gần đây đã biết làm ruộng nước, trồng vườn.
Trình độ phát triển xã hội ở các tộc người Gia Lai-Công Tum có khác nhau nhưng nói chung đều ở trong những giai đoạn sơ khai của nền văn minh. Họ thường sống thành làng, ở đây gọi là plây (BaNa) hay plơi (Xơ Đăng) hay plơi hoặc bôn (Gia Rai). Mỗi làng có ranh giới riêng, dân làng chỉ được làm rẫy, săn bắn trong phạm vi ranh giới của mình. Nhà được dựng ở mảnh đất thuận tiện cho việc làm ăn, cũng có khi theo một tín ngưỡng nào đó. Phần là nhà sàn chân cao, trang trí trong nhà sơ sài. Bếp là trung tâm của mỗi ngôi nhà, nó tượng trưng cho sự giàu sang, nơi phải kiêng cữ nhiều thứ, nhưng cũng là nơi quây quần của mọi người trong nhà. Quanh bếp sát tường là gùi, ché, nồi đồng, xếp thành hàng. Trên vách, trên cột là những bộ sừng thú săn được, ngầm khoe chiến công săn bắn.
Mỗi làng dựng một ngôi nhà to, cao và đẹp đẽ hơn nhà thường ở giữa buôn làng, gọi là nhà làng, nhà rông. Đó là nơi hội họp, tế lễ, giải trí của dân làng. Ngày nay, có nơi biến nhà rông thành nhà văn hóa, và ở Tây nguyên có xu hướng xây nhà văn hóa theo kiểu nhà rông.
Nói chung, kinh tế ở đây là kinh tế tự nhiên (tự cung tự cấp), trao đổi hàng lấy hàng. Gần đây kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển. Một số nhà ở gần các thị xã, thị trấn sống bằng cách bán những sản phẩm trồng trọt trong vườn (cà phê là chủ yếu), lấy tiền mua sắm các thứ hàng hóa cần dùng. Không ít nhà đã có những tiện nghi mới, bàn ghế, giường tủ, đài thu thanh, máy truyền hình... nhưng nhìn chung đời sống của các tộc người ở đây còn khá thô sơ. Đàn ông thường đóng khố, phụ nữ quấn váy và thường ở trần. Chỉ đến những dịp hội hè, họ mới mặc những bộ đồ ngày hội, đẹp hơn, với khiếu thẩm mỹ riêng của mỗi tộc người. Thực ra trong cuộc sống cổ truyền của người Thượng, kể cả hai tộc người Ba Na và Gia Rai, rung động ngàn đời của con người trước hình, khối, màu sắc, không chỉ hiện trên mặt vải; còn có hoa văn trên đồ đan lát (gùi); hoa văn khắc lên mặt ngoài các đồ dùng nhỏ hơn (ống tên, nỏ tấu, hộp tre đựng thuốc hút...) hoa văn vẽ, khắc, thậm chí đục thủng, trên các bộ phận kiến trúc và hiện vật nghi lễ (ở nhà chung của làng, "nhà mả", trên "cột đâm trâu", các cột lễ gắn với nhà mả"...). Đó là chưa nói đến "tượng mả", một biểu hiện vốn có mặt ở hàng đầu của nghệ thuật điêu khắc nước ta thời trước (Hoa văn các dân tộc Gia Rai - Ba Na, trang 16).
Ở đây có nhiều phong tục, tập quán lâu đời, rất riêng biệt của các tộc người. Chỉ riêng những lễ tết đầu năm cũng đủ thu hút du khách hàng tháng trời, vùng này sang vùng khác, từ tháng chạp năm trước đến tháng hai, tháng ba âm lịch năm sau. Cả một "mùa tết" chứ không phải là những "ngày tết".
Nhưng, có lẽ vui nhất là dự "lễ đâm trâu". Gặt hái xong, mỗi nhà góp tiền, gạo cho chủ làng mua trâu. Chủ làng ấn định ngày làm lễ. Lễ đâm trâu thường tổ chức vào sáng ngày tết. Dân làng ăn mặc đẹp kéo tới trước nhà rông. Con trâu dùng làm vật hy sinh cúng thần được buộc chặt vào cái cột đã chôn sẵn. Vị pháp sư ngồi vào chỗ danh dự nhất giàn cúng. Lễ đâm trâu bắt đầu mà diễn trường là mảnh đất bao quanh cột lễ gắn những hình và vật trang trí gợi lên hình ảnh của trục vũ trụ trong thần thoại. Sau lễ cúng, mỗi người về nhà nấu cơm chờ lệnh mới. Thịt trâu được xẻ thành nhiều mảnh để ngay trong nhà rông. Buổi trưa, làng lại họp. Chủ làng chia thịt cho dân làng. Mọi người ăn chung ở nhà rông. Sau đó là lễ uống rượu cần, cuộc vui lúc này mới bắt đầu thật hào hứng. Cả làng cùng uống, cùng say. Ban nhạc chiêng trống khua vang, mọi người thấm hơi men kéo ra nhảy múa.
Cuộc vui chìm dần vào hoàng hôn, lắng vào đêm khuya để sáng hôm sau lại tiếp tục.
Ở tỉnh Đắc Lắc, gặp những tộc người Thượng khác, chủ yếu là người Ê - Đê (khoảng mười ba vạn người, ở giữa và bắc tỉnh này), người Mnông (bốn vạn rưỡi, ở phía nam). Người Ê Đê thuộc ngôn ngữ Malayô - Pôlynêdi, còn người Mnông thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Nói đến người Ê Đê là nói đến những trường ca bất hủ Đăm San, Đăm Di, Sinh Nhã,... với những đoạn mô tả mang tính chất huyền thoại. "Sinh Nhã múa phía trước, một vầng trăng bay theo gió, múa phía sau, một mái nhà bay theo bão. Nhà Giarơ Bú nghiêng đằng tây, ngả đằng đông. Gió từ Mơđăm tới, bão từ Hơmu đến, nghiêng cả nhà cửa làng Giarơ Bú"... (Sinh Nhã). "Đánh cho tiếng chiêng vượt qua nhà sàn vọng xuống đất! Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời và lan ra khắp cả xứ! Hãy đánh cho đến lúc voi và tê giác phải lắng tai nghe mà quên cho con bú! Đánh cho ếch nhái và dế không còn kêu nữa..!" (Đăm San). Đăm San là con người như thế nào?
"Chàng thấy cái nhà Nữ thần Mặt Trời ở. Thang lên nhà là một cầu vồng. Cối giã gạo bằng vàng. Chày cũng bằng vàng, lúc dùng thì ánh sáng long ranh ngợp mắt..." Đăm San đến hỏi Nữ thần Mặt Trời để đoạt nàng làm vợ. Nhưng chàng đã chết vì ước muốn ngông cuồng ấy.
Truyện thơ hết sức độc đáo này kể lại những hành vi anh hùng của một tù trưởng đẹp trai, hùng dũng, đầy khát vọng tự do. Chàng Đăm San đã giao tranh với những thế lực thù địch để bảo vệ cuộc sống. Các tù trưởng Mơtao Grư và Mơtao Mơxây muốn chiếm đoạt người vợ đẹp của Đăm San là Hơ Nhí, đã gây ra những cuộc chiến tranh khốc liệt. Đăm San thắng, Đăm San trở thành người tù trưởng giàu mạnh nhất, oai hùng nhất “có không biết cơ man nào là chiêng đồng, là voi nhà, là rừng núi”, “oai linh vang đến tận các thần núi từ phía đông cho tới phía tây”. Nhưng Đăm San muốn được giàu mạnh hơn nữa, chàng kéo quân lên trời bắt Nữ thần Mặt Trời làm vợ. Chàng bị lún xuống lầy sâu, chết ngập trong rừng sáp đen...
Vẫn những mái nhà rông ấy, vẫn những lễ tết kéo dài cả mùa ấy, vẫn những tiếng chiêng tiếng cồng gợi niềm man mác ấy và vẫn những điệu múa đầy tính cộng đồng ấy. Vẫn cách trồng trọt và chăn nuôi gần như nguyên thủy ấy.
Nhưng ở đây, đàn gia súc rất lớn, mỗi nhà có tới vài chục, có khi tới vài trăm con trâu bò. Và voi cũng là một nguồn lợi lớn của người Ê Đê. Voi tượng trưng cho sức mạnh nhưng cũng tượng trưng cho tình nghĩa. Hổ tuy được mệnh danh là chúa sơn lâm nhưng phải sợ voi. Những cuộc chiến đấu giữa voi và hổ làm cho cả khu rừng phải kinh động lên vì tiếng gầm tiếng rống, mà kết cục bao giờ phần thắng cũng về voi (tục đấu giữa hai loài vật này đã được tổ chức ở khu Hổ Quyền, Huế dưới triều Nguyễn). Voi là thứ loài vật rất hiếm, biết chôn xác đồng loạt. Một con trong bầy chết đi, cả đám voi dùng vòi khiêng xác, cất lên những tiếng kêu thê thảm, chôn xong còn chia nhau gác và nhổ chuối về trồng lên mộ. Voi được thuần dưỡng phục vụ rất tận tâm cho con người, và rất trung thành với chủ. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, voi trở thành phương tiện vận tải hết sức đắc lực được huấn luyện quen với bom đạn và có con từng được thưởng Huân chương Kháng chiến.
Người Mnông thường canh tác ở triền đồi, lưng dốc, họ cũng làm ruộng nước bằng cách cho trâu giẫm ruộng để cấy. Nghề săn voi và thuần dưỡng voi cũng đặc biệt thịnh hành ở người Mnông.
Ở các làng người Mnông, thấy có nhiều nhà dài (nhà nền đất), trong khi những nhà dài của người Ê Đê lại là nhà sàn. Dưới mỗi mái nhà dài ấy, thường có nhiều cặp vợ chồng ở (có khi tới 6,7 cặp); đó là những gia đình mẫu hệ họp thành cái gọi là "công xã gia đình". Mỗi làng Mnông thường gồm chừng mươi nóc nhà như vậy.
Họ chính là những người thường được gọi là "cà răng, căng tai". Tập quán cưa một số răng cửa và xâu thủng lỗ tai để mang đồ trang sức (một khúc ngà voi, một khoanh nứa vàng óng, một thoi gỗ quý) khá phổ biến. Hiện nay nhiều người Mnông không còn theo tập quán ấy nữa.
Tỉnh Đắc Lắc nhiều nước hơn ở tỉnh Gia Lai – Công Tum, mùa khô không khắc nghiệt bằng và không dài bằng, các dòng sông gần như có nước quanh năm. Đến đây, nên đến thăm hồ Lak, một thắng cảnh nữa của Tây Nguyên. Từ trên đèo Lạc Thiện đã có thể nhìn thấy cả khu hồ uốn mình như một con trăn khổng lồ (ông vua ăn chơi Bảo Đại ngày trước đã có một ngôi "nhà nghỉ mát" ở cạnh hồ này). Mặt hồ phủ lá sen xanh. Mùa hè, hoa sen nở, hồ ngát hương thơm.
Trước lúc vào thị xã Buôn Ma Thuột, ta hãy ngừng lại nghe một mẩu chuyện voi:
" Hôm ấy người dẫn đường cho chúng tôi - một người đã đứng tuổi tóc lốm đốm bạc - bác cho biết đường sắp đi qua những cánh rừng có cọp.
Buổi chiều, chúng tôi ngừng sớm, đốt một đống lửa to rồi mắc võng xung quanh. Không ai cười, không ai nói như mọi bữa, đêm im ắng một vẻ khác thường. Nửa đêm tôi bỗng tỉnh dậy vì một hơi ấm, phà vào mặt. Tôi ngó thấy đống lửa đã vạc và trăng rừng đã tan. Một vật gì to lớn mềm mại huơ đi huơ lại trên đầu tôi. Vật ấy nằm giữa hai vật sáng mờ ảo, vươn tới từ một khối đen lù lù. Tôi giật mình nhận ra đó là một cái vòi và đôi ngà của một con voi. Tôi muốn kêu lên, nhưng giống như khi bị bóng đè, người tôi tỉnh táo mà không sao kêu được.
Huơ vòi trên mặt tôi một lát, con voi bỏ sang võng của người đưa đường. Tôi thấy bác vụt nhổm dậy và kêu lên những tiếng khe khẽ.
Lúc này tôi hoàn toàn tỉnh lại. Mọi người chúng tôi vùng dậy. Người đưa đường thấy vậy vội kêu to, bảo chúng tôi bình tĩnh. Rồi bác nói gì đó, và như có phép lạ, con voi liền quì xuống.
- Đừng sợ! Đốt lửa to lên! Bác quay lại nói với chúng tôi. Thì ra trước đây là con voi kéo gỗ của gia đình bác. Nó đã làm việc cho gia đình bác từ đời ông cho đến mấy năm trước đây, khi thấy nó đã già bác thả nó vào rừng. Đó là lệ của quản tượng: Không ép nó làm việc thêm hoặc đem giết thịt, mà thả nó về nơi nó đã ra đời, cho nó sống những ngày tự do cuối cùng.
Người quản tượng nói với con voi bằng một thứ tiếng mà chúng tôi không hiểu, với một giọng vô cùng thân thiết. Con voi trái lại hiểu được những lời đó nhẹ nhàng đặt cái vòi lên vai bác và cuộn mãi cái đầu vòi lên mặt bác để hít hơi.
Hôm sau, rồi hôm sau nữa, con voi già lẽo đẽo đi theo chúng tôi. Đêm đêm nó cứ quanh quẩn ở chỗ chúng tôi mắc võng, đôi lúc lại rống lên những tiếng trầm trầm vang vọng. Rõ ràng nó biết chúng tôi đang trên đoạn đường nguy hiểm và nó rống lên để báo hiệu sự có mặt của nó cho lũ thú dữ đè chừng. Chắc chắn rằng tiếng rống đó đã xua lũ thú dữ đi xa..."
(Đất nước ngàn năm,tập I, Kim Đồng,1974)
Dạo bước trên những đường phố thị xã Buôn Ma Thuộc, trung tâm tỉnh Đắc Lắc, có thể cảm nhận được nhưng hơi thở còn nóng hổi của lịch sử đất nước. Cái thị xã nhỏ bé ở độ cao 536 m với số dân chừng bảy vạn người này đã từng là nơi khởi điểm vang dội của mùa xuân đại thắng giải phóng miền Nam năm 1975. Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng ba năm đó đã đánh sập chỗ đứng chiến lược của quân đội Sài Gòn ở vùng Tây Nguyên. Và đúng như dự kiến của một nhà chiến lược Việt Nam, "Ai nắm được Tây Nguyên, sẽ làm chủ được miền Nam". Thất bại của quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên mở đầu cho cả một chuỗi thất bại của chúng trên các mặt trận ở miền Nam Việt Nam. Trong khi kẻ địch phán đoán và đề phòng quân đội ta tiến vào Plây-Cu, Công Tum trước và bố trí chống lại cuộc tấn công ấy, thì quân ta bất ngờ đánh vào Đức Lập, rồi tiếp đó đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Địch vẫn tưởng ta đánh nghi binh, nên vẫn tập trung đối phó ở hướng bắc Tây Nguyên. Trong "cuộc đấu trí tháng ba", như cách nói của đại tướng Hoàng văn Thái, địch đã phạm sai lầm lớn. Việc quân ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10 tháng 3, rồi làm chủ tỉnh Đắc Lắc, đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch ở Tây Nguyên, ở miền Nam. Sau Tây Nguyên là "tùy nghi di tản" và cuối cùng là đầu hàng.
Chiến thắng Buôn Ma Thuộc và Tây Nguyên đâu phải là chuyện bất ngờ? Nếu có dịp, hãy nhìn lên bản đồ chiến dịch Tây Nguyên những ngày đầu tháng ba ấy. Chỉ riêng trận Buôn Ma Thuột, quân ta huy động bốn trung đoàn mở thành bốn gọng kìm đánh vào thị xã này có sự hỗ trợ của những đơn vị trọng pháo. Bao nhiêu công trình để có thể tập trung và vận chuyển từng ấy binh đoàn vào trận đánh và đâu phải chỉ có ở đây. Chiến công Tây Nguyên không tách khỏi nhưng cố gắng phi thường kéo dài hàng chục năm ròng rã của cả một "đất nước đứng lên" từ những ngày gùi từng cân gạo, từng viên đạn trên "đường mòn Hồ Chí Minh" đến khi có thể vận chuyển bằng các phương tiện xe cơ giới trên nhưng tuyến đường rộng lớn xuyên dọc Trường Sơn (xem phần: Một dãy núi, một con đường).
Cao nguyên Lang Biang với Thành phố Đà Lạt lại mang một dáng vẻ khác.
Đây là tỉnh Lâm Đồng ghép tên núi Lâm Viên (Lang Biang) và sông Đồng Nai lại làm một. Ngoài người Việt (Kinh) đến cư trú ngày càng đông từ đầu thế kỷ này ra, các tộc người sinh sống từ xưa ở tỉnh này là người Mnông, người K'Ho và người Mạ. Người Mnông đại thể cũng giống như ở tỉnh Đắc Lắc, nhưng được bên ngoài biết đến nhiều hơn do những tác phẩm của Condominas, nhà dân tộc học người Pháp từng sống trên đất này nhiều năm, trong đó những trang mô tả cụ thể sinh động trong cuốn Nous avons mangé la forêt đã gây xúc động mạnh.
Người K'Ho (khoảng bảy vạn người) sinh sống dọc theo đường quốc lộ 20 từ Thành phố Hồ Chí Minh lên Lâm Đồng, thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ-me. Họ biết làm ruộng sớm hơn các tộc người khác ở Tây Nguyên, nhưng trình độ canh tác vẫn còn thô sơ. Người K'Ho ở trong nhà sàn dài, có cái dài hàng trăm mét, gồm nhiều gia đình nhỏ. Ngoài làng ra, họ còn tổ chức thành liên làng ở những nơi đông dân cư. Những người chết cùng một gia đình được chôn cùng một huyệt chung. Một số người theo đạo Kitô La Mã và Tin Lành.
Người Mạ (trên hai vạn người), thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ Me sống chủ yếu ở phía nam tỉnh Lâm Đồng (Di Linh, Bảo Lộc, Đức Trọng). Họ làm rẫy, săn bắn, ruộng nước rất ít. Mấy chục năm gần đây, người Mạ cũng như người K' Ho bắt đầu phát triển nghề làm vườn (trồng cà phê, thuốc lá, chè...) Trước kia họ cũng ở nhà sàn dài, nay xuất hiện ngày càng nhiều những ngôi nhà sàn nhỏ. Phong tục cà răng căng tai cũng thịnh hành trong người Mạ. Khác với nhiều tộc người ở Tây Nguyên tính theo dòng mẹ, người Mạ tính theo dòng bố, nhưng tàn dư mẫu hệ còn đậm nét.
Thông thường, đến Lâm Đồng, khách du lịch ít chú ý đến dân tộc thiểu số vì một lẽ: Đà Lạt là một thành phố quá nổi tiếng và quyến rũ.
Đà Lạt, bao nhiêu phán đoán về cái tên ấy, nhưng có lẽ đúng hơn cả đó là tên gọi do dân địa phương mà có. Đa hay Đak là nước, suối, còn Lát là một nhánh của người K' Ho (dấu huyền trong tiếng Đà và dấu nặng trong tiếng Lạt là do cách đọc của người Việt).
Giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp, trước mắt ta bỗng hiện lên một thành phố xinh xắn, thoạt nhìn như một thành phố châu Âu nào ghép vào đó. Cũng có phần đúng thế, đây là thành phố nghỉ mát của những người Pháp ngày xưa, họ muốn tạo ra một mảnh quê hương mình trên vùng đất thuộc địa Dông Dương này. Từ đó, hết lớp kiến trúc này đến lớp kiến trúc khác (hầu hết là tác phẩm của các kiến trúc sư cừ khôi). Đà Lạt càng xinh hơn, càng hấp dẫn hơn với tính chất một thành phố nghỉ mát.
Khí hậu quanh năm ở đây giống như mùa xuân miền ôn đới, tháng nóng nhất cũng chỉ 19 độ C, còn gió lạnh từ phía Bắc tràn vào cũng bị chặn lại từ xa, thành thử cũng không có cả mùa đông.
Đà Lạt là thành phố của những biệt thự, hoặc phô trương hoặc kín đáo, nhưng đều hài hòa với khung cảnh thiên nhiên mơ mộng nơi đây.
Đà Lạt - thành phố của những hồ nước trong xanh in bóng những đồi thông quanh năm vi vu tiếng gió. Những hồ nước mang những cái tên hiếu kỳ: Hồ Than Thở, hồ Tình Yêu, hồ Suối Vàng...
Đà Lạt - thành phố của những rừng thông dày và cao thăm thẳm, của những thác nước đẹp tuyệt trần: Cam Ly, Pren, Dalanla, Ancrôet... nằm ngay trong thành phố hoặc không xa là mấy.
Của những rau quả ôn đới bốn mùa.
Và nhất là của hoa. Đà Lạt có thể gọi là thành phố hoa. Hồng bạch, hồng vàng, hồng nhung... và những giống mới tạo. Mimôda, păngxê, violet nở cả bốn mùa, (có những nam nữ thanh niên đến Đà Lạt chỉ để tìm hoa Mimôda). Đà Lạt có một thứ anh đào đặc biệt, gọi là mai anh đào, trổ hoa đỏ ối những khu vườn rộng đúng vào đầu đông cho đến Tết. Rồi cúc, rồi cẩm tú cầu (bát tiên), rồi huệ châu Phi, đỗ quyên, móng cọp... Và phong phú nhất, kiều diễm nhất là phong lan. Những cái tên thật là khêu gợi: thanh đạm, long nhân, huỳnh y mỹ nương, kim điệp, huyết dụ... Hoa Đà Lạt có mặt nhiều nơi ở miền Nam, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt cả ở nước ngoài. Từ Đà Lạt, từ Tây Nguyên, ấn tượng còn đọng mãi trong lòng khách có lẽ là hoa, hoa người và hoa cây, thứ nào cũng muôn sắc muôn hương.
Nhưng cũng không quên Đà Lạt có trung tâm nghiên cứu nguyên tử và nay mai có thể trở nên thành phố khoa học của Việt Nam - không quên Tây Nguyên là nơi còn hơn một triệu héc ta đất bazan phì nhiêu để trồng cây công nghiệp, có mỏ bốcxít lớn, còn có khả năng tiếp nhận mấy triệu người từ xa đến trong những kế hoạch cuối thế kỷ. Không quên Tây Nguyên là nơi nhiều tộc người sẽ cùng nhau tô điểm cho văn hóa nước ta những sắc thái độc đáo.
Ra về để nhớ Tây Nguyên, xin ghi lại hai bài dân ca:
THƠM MÙI SỮA TRẮNG
Tiếng cồng,
Tiếng chiêng
Mừng em ra suối;
Tiếng đàn
Tiếng sáo
Mừng em ra nương,
Em leo núi thấp
Em trèo rừng cao,
Mặt em đằng trước
Như mặt trời mới mọc,
Chân em đến đâu,
Cỏ cười chim hót
Gót chân em
Vang khắp núi rừng
Thơm mùi hoa triu
Thơm mùi hoa kông
Thơm mùi sữa trắng
Của người đi suối
Của người đi nương
Em đi trên cao,
Bóng em nhỏ lại;
Nắng đem hình em
Để trên nương anh
Gùi em trên vai
Đựng những vật chi?
Váy em vải gì?
Mà thơm mùi sửa?
Em cười với suối
Em vui với rừng,
Em hát với nương,
Em đùa với rẫy,
Thấy rồi
Bóng em lên cao
Gió thổi về nương
Thơm mùi hoa triu
Thơm mùi hoa kông
Thơm mùi sữa trắng
Của người lội suối,
Của người trèo nương.
(Dân ca người Hrê)
BÓNG CÂY KƠ-NIA
Buổi sáng em làm rẫy
Thấy bóng cây Kơ-nia;
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh không ngủ...
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ-nia;
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh, mẹ khóc...
Em hỏi cây Kơ-nia:
- "Gió mày thổi về đâu
- "Về phương mặt trời mọc
Mẹ hỏi cây Kơ -nia:
- "Rễ mày uống nước đâu?"
- "Uống nước nguồn miền Bắc"
Như bóng cây Kơ-nia,
Như bóng cây Kơ-nia...
(Dân ca người Hrê)
Bài này đã được Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc (soạn trong thời chống Mỹ).