TẬP IV - Phần Thứ Tám - Chiến Thắng và Chiến Bại - 1972-1975
TẬP IV - Phần VIII - 1 -

Sau 1975, tướng Trần Độ, nguyên Phó Chính ủy Quân Giải Phóng Miền Nam, người góp phần tích cực trong việc hoạch định cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân đã nói với Stanley Karnow, tác giả cuốn Vietnam: A History rằng: “Nói thật, chúng tôi không đạt được mục tiêu chính là khích động cuộc tổng nổi dậy khắp Miền Nam.(.) Còn về tác động tại Mỹ thì chúng tôi không có dự tính ấy – nhưng nó lại hóa thành một kết quả rất may mắn.” Để may mắn hơn nữa, Bộ Chính trị rướn thêm hai đợt Tổng Công Kích vào tháng 5 và tháng 9 bất chấp tổn thất xương máu gấp bội đợt thứ nhất. Rốt cuộc, Tổng Khởi Nghĩa chỉ là khẩu hiệu động viên các cán binh đi chết và từ sau năm Mậu Thân 1968, mùa xuân về mang theo lễ kỵ giỗ của khoảng 80.000 người cả bắc lẫn nam.
Với ba đợt Tổng Công Kích, cơ sở nằm vùng bị vỡ, cán binh Cộng Sản từ rừng núi tràn xuống đồng bằng làm mồi cho phi pháo, nhân dân thấy rõ “bản lai diện mục” của Hà Nội và MTGPMN. Hà Nội không còn đủ quân giành lại nông thôn, phải rút về rừng núi; hoạt động biểu tình, đấu tranh chôáng Mỹ và chính quyền tại nội thành, các phong trào hòa bình, phản chiến của một số trí thức và sinh viên yếu hẳn; đặc biệt MTGP rơi mặt nạ “tổ chức tự phát của Miền Nam”, và từ nay cứ 10 Việt Cộng thì có 8 người từ Miền Bắc.
Theo tài liệu của MACV, từ tháng 10-1965 đến cuối năm 1968 CSBV đã xâm nhập vào Miền Nam khoảng 600 ngàn quân; trong năm 1968, họ đưa vào khoảng 236 đến 250 ngàn quân; thiệt hại của CSBV (tính luôn cả Việt Cộng) trong năm 1968 là 289 ngàn quân (bị thương, chết, ra hồi chánh, đầu hàng và tù binh). Chính Võ Nguyên Giáp cũng công bố với nữ ký giả Orina Fallaci là đến giữa năm 1969, CSBV đã chết nửa triệu quân. 
Thế nhưng cuộc tấn công Tết Mậu Thân lại đạt thành quả tâm lý và chính trị nhờ báo chí và truyền thanh truyền hình khắp thế giới, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Nó vô hiệu hóa nhận định của tướng Westmoreland rằng Mỹ và đồng minh đang chiến thắng; đưa tới sự phá sản các chính sách của Johnson về Việt Nam; góp phần chủ yếu vào việc ông quyết định không ứng cử một nhiệm kỳ tổng thống nữa; đẩy mạnh thêm phong trào phản chiến khiến xã hội Hoa Kỳ thêm quằn quại vì dân chúng chia rẽ; đồng thời dọn đường cho Mỹ đồng ý gặp riêng Bắc Việt tại Paris tháng 5.1968. Năm 1968 cũng là năm tổn thất nặng nề nhất cho HK với số tử thương 14.314, bị thương 150.000 và chiến phí lên tới 30 tỉ mỹ kim.
Lời từ chối tham dự hòa đàm Paris của Nguyễn Văn Thiệu giúp Richard Nixon đắc cử tổng thống. Để thực hiện lời hứa khi tranh cử là sẽ “kết thúc chiến tranh Việt Nam và đạt được một nền hoà bình trong danh dự”, Nixon bắt đầu dọn đường rút quân và chủ động hòa đàm với Bắc Việt. Như thế, chiến tranh VN chuyển sang một giai đoạn khác, đặc biệt sau chuyến Nixon đi Bắc Kinh, Việt Nam không còn là yếu tố quan trọng trong những quyết định chính trị, quân sự và ngoại giao của Hoa Kỳ ở châu Á.
Muốn cho cả hai phía “diều hâu” lẫn “bồ câu” vừa lòng, Nixon tiến hành trong cùng một lúc các phương án:
– Hiện đại hóa vũ khí, tiếp tế và huấn luyện cho quân đội VNCH phát triển trên một qui mô lớn, theo chính sách được ông gọi là “Việt Nam hoá chiến tranh”. Mục đích là giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của HK để rút dần lính đánh bộ Mỹ ra khỏi VN;
– Mở rộng phạm vi oanh tạc của Mỹ và hành quân phối hợp với QLVNCH sang Cambodia và Lào;
– Thả thủy lôi phong toả hải cảng Hải Phòng để ngăn chận đồ tiếp liệu bằng đường biển từ Liên Sô vào Bắc Việt, và nếu cần thì oanh tạc Miền Bắc để trả đũa những cuộc tấn công của Cộng Sản tại Miền Nam;
- Xúc tiến hòa đàm Paris giữa Mỹ và Bắc Việt; đề nghị góp phần tái thiết Đông Dương 7.5 tỉ mỹ kim, trong đó Hà Nội sẽ nhận được 4.2 tỉ;
- Chuyển quan hệ ngoại giao giữa Mỹ, Hoa và Nga sang giai đoạn mới và mật thiết hơn. Trung Quốc được nhận vào Liên Hiệp Quốc năm 1971 thay Đài Loan. Nixon tuyên bố tại LHQ là “chấm dứt thời đại đối đầu, chuyển sang thời đại thương thuyết trong tinh thần hiểu biết lẫn nhau”. Năm 1972, ông cùng Cố vấn An ninh Quốc gia, Tiến sĩ Henry Kissinger chính thức thăm Bắc Kinh; trong Thông cáo chung phổ biến tại Thượïng Hải, Trung Quốc và Mỹ xác nhận “đều không mưu cầu bá quyền và đều phản đối bất cứ nước nào hay tập đoàn nào cố gắng thiết lập bá quyền ở châu Á”.
Vào tháng 3.1969, có tới khoảng 540.000 quân nhân Mỹ chiến đấu tại VN, nhưng con số cao điểm đó được rút dần từng đợt cho tới khi chỉ còn 27.000 “cố vấn” ở lại vào cuối năm 1972. Dù Nixon thành công trong việc rút từng bước một các lực lượng trên bộ của Mỹ ra khỏi cuộc xung đột, nhưng trong thời gian ông làm tổng tư lệnh quân đội, có hai chục ngàn lính tác chiến Mỹ bị tử trận tại VN. Và trong hai năm đầu của nhiệm kỳ tổng thống, ông thả xuống Đông Dương số bom nhiều hơn số lượng Mỹ thả xuống châu Âu và vùng Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Tới tháng 5.1972, mỗi ngày có khoảng 30 ngàn tấn bom rơi trên Đông Dương với phí tổn 20 triệu Mỹ kim — nhưng chiến tranh vẫn kéo dài. 
Đối với dân chúng Mỹ, ảo tưởng về chiến tranh ngày càng tan vỡ khi có sự tiết lộ vào tháng 11.1969 rằng có ba trăm thường dân VN bị lính Mỹ tàn sát tại làng Mỹ Lai 18 tháng trước đó; việc Thượng nghị viện Mỹ rút lại quyết nghị Vịnh Bắc Bộ ngày 24.6.1970 và việc xuất bản vào mùa hè năm 1971 các tài liệu mật bị tiết lộ, được người ta biết tới với cái tên là “Pentagon Papers — Tài Liệu Lầu Năm Góc“. Nó là một bản nghiên cứu chi tiết của chính quyền về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam kể từ năm 1945 tới năm 1968. Nó cho thấy, một cách đầy kịïch tính, qui mô can thiệp của tổng thống Kennedy trong âm mưu lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm và bối cảnh mơ hồ của Nghịï Quyết Vịnh Bắc Việt mà nay người ta ngày càng biết rõ rằng đã có sự dàn dựng trước của Mỹ để chọc cho quân Bắc Việt tấn công vào tháng 8.1964, nhằm giúp Johnson rộng tay tiến hành chiến tranh tại VN mà không cần tới lời tuyên chiến chính thức. Tài Liệu Lầu Năm Góc còn là một bản liệt kê rất đặc biệt và làm người ta choáng váng về những cách thức mà Kennedy lẫn Johnson cố tình lừa dối nhân dân Hoa Kỳ về vấn đề VN, và vì thế, giờ đây công luận hướng tới cuộc hòa đàm tại Paris. 
Hiểu rõ con đường rút quân không thể đảo ngược của Hoa Kỳ và vẫn bám sát mục tiêu nhất thống nam bắc, kể từ sau Tết Mậu Thân, nỗ lực chính của Hà Nội là chuyển cán bộ chính trị và bộ đội vào nam để lấp đầy chỗ trống — từ đó, chiếm tới 80% quân số các lực lượng võ trang của MTGPMN — và lập lại cơ sở bị phá vỡ trong cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân. Đồng thời Hà Nội tiến hành đấu tranh quân sự và chính trị theo một qui mô mới, khai thác tối đa diễn tiến rút khỏi VN càng nhanh càng tốt của Mỹ và gắn liền với tình hình của cuộc điều đình tại Paris vốn bắt đầu từ ngày 13.5.1968. 
Trong khi tiến hành mật đàm với Mỹ, Hà Nội cho ra mắt Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình ngày 10.4.1968 gồm danh sách một số nhân vật tôn giáo và trí thức từ thành thị Miền Nam thoát ly theo MTGPMN. Ngày 6.6.1969, Hà Nội công bố sự ra đời của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, cũng chỉ gồm một danh sách nội các do Nguyễn Hữu Thọ đứng tên chủ tịch. 
Hai sự kiện đó cùng với việc chính phủ VNCH phóng thích các tù nhân chính trị bị bắt dịp Tết Mậu Thân và các phong trào tranh thủ hòa bình, đòi quyền sống của một số trí thức sinh viên tự xưng là “thành phần thứ ba” tuy không gây được bất ổn như trước đây nhưng tạo thế tuyên truyền cho CS và góp phần tạo thành cái gọi là lý cớ cho chế độ quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu biện minh sự tồn tại của mình. Thiệu tiếp tục dung dưỡng tham ô và thao túng các cơ chế dân chủ từ quốc hội tới các hội đồng tỉnh thị xã; phá hoại các đảng phái hoặc các tổ chức đối lập; ứng cử tổng thống độc diễn. Đồng thời Thiệu không tích cực khai thác lời hứa của Mỹ trong chương trình Việt Nam hóa, tình trạng suy sụp của Cộng Sản sau Mậu Thân và tinh thần chiến đấu quyết liệt của Quân lực VNVH, để xây dựng phương án tự lực tự cường trong tương lai.
Tất cả những thành tố ấy đều được Hà Nội khai thác triệt để cho cuộc hòa đàm Paris đang bị kéo dài lê thê từ tháng 5.1968. Những đàm phán phức tạp và rắc rối vô tận đó kéo ra tới năm năm, được cả đôi bên sử dụng vào mục đích tuyên truyền, nhưng chỉ tập trung quanh một vấn đề duy nhất là ai sẽ cai trị tại Sài Gòn. Ban đầu, những cuộc đàm phán ấy chỉ diễn ra giữa các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Bắc Việt, về sau được mở rộng cho cả đại diện của VNCH và của MTGPMN, nhưng nhanh chóng lâm vào tình trạng gần như thường xuyên bế tắc. Hà Nội và MTGPMN đòi hỏi rằng hoà bình phải được trả giá bằng việc Hoa Kỳ rút lui toàn bộ và MTGPMN có đại diện trong một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam nhưng Nguyễn Văn Thiệu không tán thành ý tưởng liên hiệp đó.
Trong khi tại Paris cuộc hoà đàm kéo dài mà không đưa tới kết quả chung cuộc nào thì tháng 3.1972, theo đúng sách lược “vừa đàm vừa đánh”, và tận dụng quá trình VN hóa để rút quân của Mỹ, Hà Nội lại phát động một chiến dịch đại tấn công bất ngờ vào Miền Nam bằng ba mũi giáp công, với sự yểm trợ ào ạt của đại pháo, và chiến xa Cộng Sản bắt đầu xuất hiện trên chiến trường. Mũi thứ nhất, xua ba sư đoàn ưu tú nhất của Miền Bắc với 200 chiến xa và phi pháo, lần đầu tiên tràn thẳng qua khu phi quân sự, công khai đánh chiếm Quảng Trị và đe dọa Huế. Mũi thứ hai, ba sư đoàn bộ binh, hai trung đoàn chiến xa cùng bốn trung đoàn pháo tiến chiếm Lộc Ninh, vây An Lộc. Mũi thứ ba, tại cao nguyên, ba sư đoàn Bắc quân tấn công Dakto, tràn ngập Tân Cảnh và ba sư đoàn chủ lực Quân khu 5 chiếm ba quận dọc miền duyên hải Bình Định. 
Quân đội VNCH mà lúc này quân số lên tới 900.000 với vũ khí hiện đại, cùng sự yễm trợ của không lực Mỹ, đã có khả năng đẩy lui cuộc đại tấn công mùa hè ấy và thu hồi phần lớn lãnh thổ bị mất. Bắc quân chỉ còn chiếm được Đông Hà, Lộc Ninh và Tân Cảnh. Để trả đũa, Nixon ra lệnh cho pháo đài bay B-52 của Mỹ dội bom các khu vực chung quanh Hà Nội và Hải Phòng, lần đầu tiên kể từ năm 1968, đồng thời cho gài thủy lôi tại Vịnh Bắc Việt để phong toả hải cảng Hải Phòng. Hậu quả là cuộc chọc thủng phòng tuyến Miền Nam của Cộng Sản bị mất đà và cuối cùng, cuộc tái oanh tạc và thả mìn Hải Phòng của Hoa Kỳ đã buộc lãnh đạo Cộng Sản tại Hà Nội rút bớt các điều kiện hòa bình của họ.
Tới đầu tháng 10.1972, Bắc Việt từ bỏ việc khăng khăng đòi hỏi MTGPMN phải được lập tức tham gia một chính phủ liên hiệp tại Sài Gòn. Thay vào đó, để đổi lấy việc ngưng bắn và rút quân của Hoa Kỳ, họ đề nghị rằng chính quyền của VNCH sẽ tiếp tục tạm thời nắm quyền trong thời gian một “Hội đồng Hoà hợp và Hoà giải Dân tộc” thảo luậïn các vấn đề hợp tác tại Nam Việt Nam. Trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới vào tháng 11, Nixon và Henry Kissinger, nóng lòng muốn sớm ký kết hoà ước — nhưng Nguyễn Văn Thiệu phản đối kịch liệt những đề nghị mới ấy, gọi đó là một “sự liên hiệp trá hình” và không chịu hợp tác. Bất chấp sự thất bại đó, Hoa Kỳ đáp ứng bằng cách giữ lời hứa ngưng phần nào việc oanh tạc Miền Bắc và Kissinger lên tiếng loan báo rằng hoà bình đang ở “trong tầm tay” trong một cuộc họp báo đầy sôi nổi tại Washington ngày 26.11.1972.
Hai tuần sau, theo triều sóng lạc quan về hoà bình, Nixon được bầu thêm một nhiệm kỳ tổng thống nữa với tuyệt đại đa số phiếu của cử tri. Thế nhưng sau cuộc bầu cử một thời gian ngắn, khi cuộc hòa đàm Paris tiếp tục trở lại, các bên tham dự lại sa lầy mà không đưa ra được lời giải thích rõ ràng nào về những gì đang cản trở hoà ước. Những người chỉ trích Nixon lập tức cáo giác rằng ông đã lợi dụng tới đằng trước tìm dấu mới. Hôm nay có vẻ lũ thú khốn nạn đó không tới những chỗ chúng thường lai vãng.
Vài phút sau khi đoàn người tiếp tục lên đường, mắt Nathaniel Sherman bắt gặp có chuyển động trong đồng cỏ. Ông ra hiệu cả nhà mình và Paul dừng lại rồi im lặng hoa tay về phía bên kia sông, chỉ tới một đàn nai đang gặm trong đám cỏ cao. Ông nói, giọng thầm thì suỵt soạt:
- Nào Joseph, đây là dịp cực kỳ may mắn cho con. Vì chúng ta không tìm ra dấu vết con trâu rừng nào nên hãy cứ kiếm lấy một con trong đàn nai này đã. Để cho con nai tơ chiến công đầu hôm qua của con khỏi cảm thấy cô đơn trong nhà bảo tàng.
Joseph thoáng chút tần ngần rồi quì gối. Hạ khẩu cạc-bin trên vai xuống, cậu nheo mắt dọc theo nòng súng, nhắm phần to nhất trên cổ nai. Cậu ngoéo ngón tay vào cò súng. Nhưng thêm lần nữa, vẻ đẹp mỏng mảnh hiền lành của con nai ngăn không cho cậu bóp cò. Cậu hạ nòng xuống và đứng lên, chúc mũi súng xuống đất:
- Bố ạ, con không thể bắn nó dù là cho nhà bảo tàng của mình. Trông nó tội nghiệp quá... Và cũng xin bố biết cho là con nai tối qua do chính tay anh Paul hạ chứ không phải con.
Nathaniel nhìn Joseph, mặt lộ vẻ thất vọng, đầu chầm chậm lắc qua lắc lại. Cuối cùng ông nói với một cái chép miệng cam chịu:
- Vậy thì Chuck này! Hãy tỏ rõ cho con trai của mẹ thấy làm thế nào bắn gục một con nai!
Chuck nổ súng trong tư thế đứng. Con nai nhảy đựng lên không rồi rớt xuống, nằm lịm.
- Tốt đó con.
Thượng nghị sĩ trầm lặng nói và sai một người Mọi dò dấu thú sang bên kia sông thu thập con nai ngã gục ấy.
Khi đoàn người tiếp tục di chuyển, Joseph chầm chậm bước theo sau chót. Để ý thấy vẻ mặt cùng quẫn của con, Flavia lách sang một bên, đi chậm lại, chờ cậu tới bên mình. Bà nói dịu dàng:
- Joseph ạ, không có gì hổ thẹn trong việc con không muốn hạ sát con vật xinh đẹp ấy. Mẹ thật sự có phần nào hãnh diện về hành động đó của con.
Joseph trả lời mẹ bằng nụ cười biết ơn nhưng khi bà đưa cánh tay an ủi quàng lên vai cậu, Joseph né mình. Cậu vẫn còn lùng bùng trong hai tai âm vang lời ngụ ý nhẹ nhàng của cha về “con trai của mẹ”. Và vì lời ấy nhức nhối còn hơn việc không bắn nổi một con nai, cậu vội vàng bước lên đi trước bà, đề phòng trường hợp cha quay lại thấy hai mẹ con đang thân mật với nhau. Joseph nói thật lẹ, đưa tay chỉ con đường mòn phía trước:
- Tốt hơn là mình đi cho kịp mấy người kia, phải không mẹ?
Khi hai mẹ con vừa bắt kịp Chuck và thượng nghị sĩ, Jacques Devraux xuất hiện phía trước, trên đường mòn, đang đi ngược về phía họ. Với vẻ khiển trách, hắn hỏi khô khốc:
- Chuyện gì nổ súng vậy?
- Vì thấy không có con trâu nào nên chúng tôi săn được một con nai do tôi phát hiện trên đồng cỏ — cho một trong những nhóm động vật nhỏ hơn của mình.
Người Pháp gằn giọng, đanh từng tiếng:
- Với phát súng ấy của ông chắc chắn trong vòng ít nhất một giờ nữa chúng ta sẽ không bắt gặp con mồi lớn nào. Tốt nhất là đừng bắn con thú nhỏ nào cho tới khi có xong thứ chiến lợi phẩm ông đang tìm. Bây giờ, chúng ta phải sang phía bên kia sông lùng cho ra.
Devraux dẫn đoàn người tới chiếc thuyền độc mộc buộc xuôi theo bờ bên này, cách đó chừng tám trăm thước. Họ chống sào chầm chậm sang mạn bên kia. Ở đó cỏ cao quá ngực. Khi đi hết đồng cỏ quần áo họ ướt đẫm mồ hôi. Trong lúc ngồi nghỉ, Jacques Devraux sai hai người dò dấu thú leo lên cây quan sát.
Joseph thấy mình không thể ngồi yên một chỗ. Cậu đứng lên, đi tới đi lui, cách mọi người một quãng. Sự việc con nai cái vừa rồi khiến tâm trí cậu xao lãng một lúc. Nhưng dần dà, cảm giác hưng phấn về hành động chiều hôm qua lại tràn ngập tâm tư cậu, xua tan mọi dằn vặt.
Trong khi băng ngang cánh đồng ngập cỏ, cái nóng khật khờ của mặt trời làm Joseph váng vất, những cảm giác mãnh liệt về da thịt mềm mại của cô gái Mọi không quen biết lại bắt đầu mơn trớn thân thể cậu. Lòng nhoi nhói tiếc nuối, cậu nhận ra mình chưa một lần thấy rõ mặt cô và nếu có trở lại sóc mọi đó tìm, chưa chắc mình nhận ra cô giữa đám con gái đông lúc nhúc của tù trưởng.
Trong khi quan sát người Mọi dò dấu thú lon ton leo lên cây Joseph bắt đầu mơ mộng mình sẽ trở lại nơi đó như thế nào. Mình sẽ tranh tài với hết thảy trai tráng trong sóc thượng ấy bằng những cuộc thi đấu điền kinh quyết liệt hoặc chiến công khốc liệt. Có thể là chạy đua, thách đấu quyết tử bằng giáo với khiên và thi leo cây... Mình sẽ chiến thắng oanh liệt hết thảy bọn trai làngï. Bằng việc biểu lộ lòng dũng cảm tuyệt vời như thế, mình sẽ yêu cầu nàng công chúa Mọi vô danh ấy thuận ý bước ra, cho mình thấy rõ môi mắt và đưa bàn tay huyền ảo cho mình nắm lấy...
Khi hai người Mọi dò dấu thú từ chỗ canh chừng trên cây tuột xuống và lúc lắc đầu, Joseph bỗng nổi cơn cao hứng. Cậu hỏi Jacques Devraux xem mình có thể leo lên cây nhìn một chút bằng ống nhòm của Chuck không. Người Pháp gật đầu đồng ý, tỏ ra chẳng quan tâm chút nào tới lời thỉnh cầu đó. Joseph lập tức đu người lên cành cây thấp gần mình nhất. Càng lên cao cách mặt đất chín mười thước cành càng mảnh mai so với sức nặng của thân xác Joseph. Cậu dừng lại, đưa ống nhòm lên mắt.
Trong vài phút, Joseph không thấy gì dưới ánh nắng lung linh chập chờn mờ ảo nơi đồng cỏ. Kế đó, cậu nghĩ hẳn đôi mắt mình đang giở trò phỉnh gạt mình. Một ảo tượng gồm mấy con cá voi lưng tròn trịa hình như đang đùa giỡn giữa những đợt sóng cỏ màu vàng. Cậu kềm ống nhòm chĩa thẳng vào. Khi Joseph nhìn tập trung, lũ cá voi ấy biến thành một đàn khoảng bảy con trâu rừng đang chầm chậm nối đuôi nhau đi về hướng cậu. Chúng còn xa khoảng một cây số rưỡi nhưng với phần lưng tròn màu xám đen đang nhô lên kia thì không lầm lẫn vào đâu được.
Joseph gọi nhỏ những người phía dưới và chỉ chỏ. Lập tức một người Mọi leo lên ngọn cây khác, chăm chú nhìn theo hướng ngón tay Joseph chỉ. Rồi anh ta lehòa đàm để tạo lợi thế cho mình trong cuộc bầu cử. Trong khi thực tế, trước đó, vào ngày 18.12.1972, Nixon cảnh cáo Nguyễn Văn Thiệu rằng nếu cần, Mỹ sẽ đi tìm một thỏa hiệp riêng rẽ với Hà Nội. Trước ngày ký kết Hiệp định Paris, Nixon một mặt trấn an Nguyễn Văn Thiệu bằng một lá thư hứa hẹn rằng nếu CS vi phạm Hiệp định Mỹ sẽ trả đũa dữ dội, mặt khác, ông lại thêm lần nữa trắng trợn đe dọa rằng nếu VNCH không chấp nhận Bản Hiệp định có nội dung chấp nhận 150.000 quân Bắc Việt được ở lại Miền Nam, Mỹ sẽ hành động một mình và sẽ chấm dứt cả viện trợ quân sự lẫn kinh tế.
Trước đó, khi các đại biểu khởi sự nhóm họp thêm vào lúc bắt đầu tháng 12.1972 tại các biệt thự vô danh trong khu vực ngoại ô Paris, nơi họ từng gặp gỡ nhau suốt bốn năm qua, các ký giả đang ngóng đợi trên các con đường mùa đông tuyết phủ bên ngoài đều mang chung tâm trạng căng thẳng chưa từng thấy. Cũng y như đại biểu của các phái đoàn tham dự, họ chỉ nghĩ tới hoà bình. Đồng thời với lễ Giáng Sinh gần kề, vài người trong bọn họ đoán trước rằng sẽ có những hành động phá hoại đẫm máu được tiến hành trên một qui mô lớn một khi các lực lượng sau cùng của Hoa Kỳ đã cúi đầu chào từ biệt Việt Nam. Trong lúc ấy, máu người VN, thường dân và lính của cả hai bên, vẫn đổ trên khắp đất nước. Tổng kết hai năm 1968-89, Nam Việt Nam bị 39 ngàn người tử thương, 132 ngàn bị thương và 3 ngàn mất tích.
Về phía Bắc quân, con số thương vong không bao giờ được công bố. Nhưng như nhà văn bộ đội Bảo Ninh kể lại trong cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, in ở Hà Nội năm 1991: “Tôi không sợ chết, nhưng cứ bắn giết mãi thế này thì chết hoại tính người. Anh còn nhớ trên Plây-cu năm 72 không, có nhớ cảnh thây người la liệt trong khu gia binh không? Máu tới bụng chân lội lõm bõm... Mình vào đây làm gì khi để mẹ già ở nhà cơ cực, không nơi nương tựa, ngày đêm than khóc nhớ con. Mẹ tôi cứ van tôi tìm cách mà trốn... Bao thằng khốn nạn ung dung hưởng lộc chiến tranh chỉ con cái nông dân là dứt lòng ra đi bỏ lại đằng sau cảnh mẹ già màn trời chiếu đất... Thắng hay thua, kết thúc mau hay kết thúc chậm, với tôi chẳng nghĩa lý gì nữa.”

- 1 -
 Joseph Sherman lật ngược cổ áo măng-tô, kéo lên thật cao để che ngọn gió buốt tháng Chạp thổi dọc Đại lộ Général Leclerc ở Gif-sur-Yvette và dậm mạnh hai chân cho đỡ cóng. Cùng với hai mươi ký giả và phóng viên nhiếp ảnh thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, anh đang trông ngóng Henry Kissinger tới chỗ này. Trong khi đứng hai vai co ro trong trời giá lạnh, Joseph ngẫm nghĩ và nhận thấy sự sắp xếp địa điểm cho cuộc đối đầu này giữa Hoa Kỳ và những người Việt kẻ thù của nó, thật đáng ngạc nhiên và đầy quái đản không kém bất cứ những gì đã xảy ra trong cuộc chiến tranh đầy hoang mang kéo dài suốt cả chục năm nay. Các đại diện của Mỹ và Bắc Việt đang tiến hành những cuộc họp kỳ kèo để kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương Lần Thứ Hai trong một tòa nhà trên con đường mang tên của vị tướng, vào cuối năm 1945, làm quyền cao ủy kiêm tổng chỉ huy các binh đoàn của Pháp đổ bộ và tái chiếm Việt Nam trong tay của Việt Minh, mở đầu cho cuộc chiến tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất.
Biệt thự nghỉ mát được các phóng viên tụ tập bên ngoài này có tường quét vôi trắng, mái ngói màu da cam, các lá cửa chớp màu lục. Trước đây nó là một cư sở gần như không ai để ý, toạ lạc bên trong vòng tường trét vữa, gắn nhiều phù điêu, tại ven một thị xã thuộc vùng ngoại ô ngái ngủ, cách trung tâm Paris gần hai mươi lăm cây số. Địa chỉ của nó là 108 Đại lộ Général Leclerc.
Lần đầu tiên nó được chọn làm địa điểm để so đo mặc cả là vào cuối năm 1969 khi Tiến sĩ Kissinger và Lê Đức Thọ, người thương thuyết chính của Hà Nội, khởi sự tiến hành những cuộc tiếp xúc bí mật, nhằm tránh sự nhòm ngó của công luận đang chú mục vào cuộc hoà đàm diễn ra chính thức tại một hội trường vĩ đại của chính phủ Pháp bên Đại lộ Kleber.
Chủ nhân nguyên thủy của biệt thự nghỉ mát này là Fernand Léger, một nghệ sĩ Pháp tả khuynh. Sau khi ông qua đời, nó được trao cho Đảng Cộng Sản Pháp, một đảng từng được Hồ Chí Minh góp phần thành lập vào thập niên 1920. Ngoài kỷ niệm đó mối quan hệ giữa hai đảng Cộng Sản xoay quanh trục Mát-cơ-va và tình nghĩa quốc tế khiến quan hệ đôi bên ngày càng hữu hảo. Cuộc hòa đàm Paris trong đó Hà Nội đang trực diện đối đầu và dương cao ngọn cờ cách mạng chống đế quốc thực dân mới cũng được xem như một đấu trường thu hút sự yễm trợ vô điều kiện của các đảng Cộng Sản năm châu thế giới, vì vậy Đảng Cộïng sản Pháp cho Hà Nội mượn ngôi biệt thự của nhà họa sĩ làm cư sở ngoại giao. Và suốt những tháng cuối của năm 1972, nó trở thành một trong ba ngôi nhà được Bắc Việt thường xuyên sử dụng nhất tại Paris.
Qua những chuyện trò với người quen tại Bộ Ngoại giao, Joseph biết rằng những bức họa trừu tượng lập thể của Fernand Léger vẫn còn treo trong phòng khách rộng và dài. Tại đó kê chiếc bàn chữ nhật bọc nhung xốp màu lục. Trên mặt bàn và ngay trước mặt sáu chiếc ghế dành cho phái đoàn Mỹ luôn luôn bày sẵn các chai nước khoáng nhỏ của Pháp cùng với mấy chiếc ly mỗi khi họ sắp đến.
Thuở còn giữ được bí mật về nơi gặp gỡ này, Kissinger gần như ngày nào cũng bước qua ngưỡng cửa trong hơi thở hổn hển, sau khi phóng xe qua vùng ngoại ô với tốc độ một trăm sáu chục cây số một giờ để bỏ rơi các phóng viên đang rượt theo. Nhưng kể từ lúc địa điểm này được người ta biết tới như hiện nay, ông có thói quen đến rầm rộ hơn, bằng chiếc xe cho thuê hiệu Mercedes màu trắng và hai bên có xe mô tô hộ tống của cảnh sát Pháp chạy kèm.
Vào hôm mồng 8 tháng Mười, chung quanh chiếc bàn bọc nhung xốp màu lục ấy, Kissinger gần như không nén nổi hồi hộp khi Lê Đức Thọ sau bốn năm dài bướng bỉnh không chút nhượng bộ, đột ngột đảo ngược thái độ, bảo với ông rằng chính quyền Hà Nội cuối cùng sẵn sàng đồng ý chấm dứt sự thù nghịch. Lê Đức Thọ nói rằng Hà Nội sẽ phóng thích tù binh Mỹ, đổi lại tổng thống Nixon phải cam kết sẽ rút toàn bộ quân Mỹ và để cho Nam Việt Nam tự hoạch định tương lam đìa máu của ba con vật vừa bị họ giết. Đoàn người bắt đầu kéo tới đứng quanh chỗ con trâu tơ gục xuống. Không ai nói với ai lời nào cho tới khi bầy kên kên đầu tiên, đen đủi và trụi lông, bắt đầu lờ đờ lượn vòng bên trên mỏm đá nhô lên giữa đồng cỏ cách họ chừng năm chục thước.
Flavia mặt xây xẩm trắng bệch nhưng cố nở nụ cười với con trai thứ khi cậu đứng lên. Bà nói giọng thật thấp, trước khi có người khác tới trong tầm nghe:
- Joseph, con can đảm lắm. Mẹ cám ơn việc con vừa làm.
Joseph mặt còn tái nhợt, hai bàn tay vẫn run rẩy nhưng cậu cố giấu bằng cách nắm chặt khẩu súng trong khi mọi người tụ lại quanh hai mẹ con. Trong thinh lặng ngột ngạt, Nathaniel và những người khác nhìn xuống xác của con nghé. Chỉ lúc đó họ mới nhận ra dọc hai bên sườn trâu tơ vằn vện những vết xước dài, sâu và tím bầm mà con người không thể nào gây ra nổi. Devraux nói điềm tĩnh:
- Chắc nó bị cọp vồ cách đây chưa lâu. Nó đã hoá dại sẵn vì đau đớn. May cho tất cả chúng ta vừa thoát nạn.
Nathaniel bực bội cau mày ngó xuống con vật đã chết:
- Thật tệ hại quá, làm sao có thểø triển lãm với bộ da rách bươm khốn nạn như thế này!
Đưa chân lên dí dí đầu ủng vào hai chiếc sừng mới nhú của nghé, ông quay sang mỉm cười với bà vợ mặt đang trắng bệch:
- Tuy vậy, mình ạ, anh nghĩ cái đầu này sẽ thành một vật trưng bày tuy không lớn nhưng khác thường. Có thể là một vật kỷ niệm nho nhỏ cho em và cho ngôi nhà của mình nơi đồn điền — để nhớ mãi một khoảnh khắc không dễ gì quên, phải không?
Người Mọi nào cũng mang theo một cây dao cán dài, lưỡi dài và mũi cong, tại An Nam người ta gọi là “dao quắm”. Cầm lấy dao quắm của người thượng đứng gần ông nhất, thượng nghị sĩ cúi xuống xác con nghé. Thấy việc ông dự tính làm, Flavia Sherman vội vàng quay đầu nhìn chỗ khác. Nắm một bên sừng, Nathaniel chặt mấy phát, đứt phăng đầu nghé. Đưa chiếc đầu máu chảy ròng ròng đó cho người Mọi, ông hể hả cười với Devraux:
- Monsieur Devraux, tôi nghĩ mình phải đưa xe bò vô đây càng sớm càng tốt để mang con trâu đực và con trâu cái này về lột da. Bằng không, da chúng sẽ không chịu được lâu trong cái nóng này, phải không?
Tới xế chiều, Chuck hào hứng chạy vô túp lều hai anh em ở chung. Joseph đang ngồi thừ người trên chiếc giường xếp làm bằng vài bố, hai tay chống cằm, trầm ngâm nhìn ra đường mòn. Chuck nói sôi nổi:
- Joey ơi, mấy người lột da tìm thấy trong đầu con trâu tơ của em có hai viên đạn. Viên đạn của Monsieur Devraux xuyên thủng tai trái của nó nhưng nó lãnh một viên khác — của em — ngay chóc giữa hai con mắt!
Cậu sung sướng lắc lắc vai em:
- Sao, thế nào? Lúc này ai cũng biết rõ rồi, phải không? Cái thật sự quan trọng là em bắn trực diện.
- Cám ơn anh đã nói cho em biết.
Joseph ngước lên nói và mỉm cười nhưng nét mặt cậu không tỏ dấu thật sự vui mừng. Trong một thoáng, Chuck nhìn em, bối rối. Rồi cậu nhún vai quay lưng ra khỏi lều. Sau đó, cậu hăm hở chạy băng qua trại, ra mé sau để giúp người Mọi lột da con trâu to tướng do chính tay cậu giết, một mình, chẳng cần ai phụ giúp.

Truyện TRĂNG HUYẾT Lời Nói Đầu Tập I - Phần I - 1 - - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - - 12 - - 13 - - 14 - TẬP I - Phần II - 1 - - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - - 12 - - 13 - - 14 - TẬP II - Phần III - 1 - - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - c từ đầu tới cuối hai bài báo cắt. Rồi anh tới ngồi xuống đằng sau bàn giấy, lấy ra một tờ giấy trắng. Anh rút bút bi từ túi ngực áo đại cán ra, tự tay viết bằng tiếng Pháp:
“Tôi nhận ra anh giữa các ký giả ở bên ngoài. Tôi sẽ gặp anh sáng mai lúc bảy giờ rưỡi phía bên trong cổng Công viên Tuileries, chỗ cuối đường Castiglione. Có lẽ anh rất muốn nghe đôi chút tin tức về Tuyết, con gái của anh — và câu chuyện chi tiết bên trong những thủ đoạn lừa đảo mà Kissinger và những người Mỹ thương thuyết đang theo đuổi bên trong ngôi nhà này. Trần Văn Kim.”
Anh đút mảnh giấy vào bì thư, dán lại rồi đưa cho viên phụ tá:
- Gọi một trong các ký giả của ta qua máy truyền tin trên xe anh ta và yêu cầu anh ta lập tức đến đằng sau nhà. Đưa anh ta thư này, bảo trao ngay cho Sherman. Nói với anh ta rằng tôi sẽ trông chừng từ cửa sổ này.
Khi người ký giả Cộng Sản Pháp mặc áo da không quen với Joseph, đưa cho anh phong thư ấy trên khán đài, Trần Văn Kim thấy vẻ mặt của người Mỹ cau lại vì kinh ngạc. Kim quan sát Joseph đọc mảnh giấy. Nhưng khi Joseph nhướng con mắt sửng sốt lên nhìn về phía biệt thự nghỉ mát, Kim đã thận trọng lùi bước ra xa màn cửa để khỏi bị trông thấy.
Từ đại sảnh bên dưới, vang lên rõ mồn một giọng đều đều của Kissinger, nói tiếng Anh với lối uốn giọng trong cổ họng của tiếng Đức. Bằng cung giọng lên rồi xuống theo nhịp điệu khi thẳng thừng khi gay gắt, viên Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ nói cho bộ mặt không lộ chút cảm giác của Lê Đức Thọ nghe. Rằng phái đoàn Bắc Việt, vì một lý do nào đó không nói ra, lúc này rõ ràng là đang né tránh và thường xuyên giở thủ đoạn gian trá, vì thế Hoa Kỳ không sẵn sàng tiếp tục cuộc thảo luận, và do đó, cuộc thương thuyết bị đình chỉ.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: NGUYỄN ƯỚC
Được bạn: Admin đưa lên
vào ngày: 24 tháng 12 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--