Chương 34

Cùng một lúc cửa sổ các nhà-xà lim theo nhau đóng sập lại rầm rầm, tiếng lính gác chạy sầm sập. Sau đó là im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió hú trên đồi, quanh quất giữa bàn cờ những ô biệt giam.
Xà lim tối om. Tôi rón rén bước ra phía cửa ra vào để nhìn qua lỗ thủng ra ngoài.
Thường cho tù ra đi cung người ta không đóng hết mọi cửa sổ mà chỉ đóng ở những nhà nào có tù đi ngang. Khi các cửa sổ bị đóng hết có nghĩa là sự kiện bất thường. Tôi phải chờ một lúc mới nghe tiếng cánh cổng tôn rên rỉ mở ra xa xa, tiếng đế giày sàn sạt trên sỏi, rồi mới tới đoàn người. Ði đầu là những tên bảo vệ lăng xăng. Theo sau chúng là các quan chức líu ríu vây quanh một nhân vật bệ vệ. Tôi nhận ra bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn.
Ðây là lần thứ hai kể từ khi bị giam tôi nhìn thấy tên Béria(1) của Việt Nam.
Lần đầu là ở sân Hỏa Lò, lúc Huỳnh Ngự lấy tôi đi cung. Cũng một đoàn rầm rộ như thế này. Hoàn đi thẳng một mạch từ cổng vào tới khu ngách trái của Hỏa Lò, gần nơi diễn ra những cuộc hỏi cung. Tôi đoán Hoàn vào giải quyết chuyện gì đó trong vụ chúng tôi. Sau này, cha tôi tính ngày tháng để nhớ lại, ông nói có lẽ đó là hôm Hoàn vào gặp ông để yêu cầu ông chấm dứt cuộc tuyệt thực kéo dài đã mười ngày. Gương mặt lầm lì, cái nhìn vô cảm, nhân vật thứ hai trong ngành chuyên chính vô sản sau Lê Ðức Thọ gợi nghĩ tới một con sâu róm. Khi tôi đi ngang, Hoàn liếc xéo tôi, như nhìn một con vật trong đàn gia súc.
Cuộc đi thăm của Hoàn lần này chắc chắn liên quan tới vụ chúng tôi. Bất Bạt là trại không thuộc quyền Bộ Nội Vụ. Hoàn tới đây hẳn lại để gặp ai đó trong số những tên tù cao cấp bướng bỉnh. Chứ không phải để gặp những tên tù lèm nhèm như tôi. Tôi thuộc loại con sâu cái kiến, loại không được các đại quan tính đến.
Hình như bất cứ người cầm bút nào cũng có lần gặp trạng thái kỳ cục này: mạch văn đang trôi chảy bỗng ì ra khi gặp một nhân vật mà ngòi bút khước từ không muốn viết về nó. Chuyện đó đã xảy ra với tôi khi tôi đụng tới Trần Quốc Hoàn. Tôi đã tính bỏ, không viết về Hoàn nữa. Y không xứng đáng được nhắc tới trong cuốn sách, bởi y không có quan hệ trực tiếp với tôi trong quá trình vụ án, Hoàn không có vai trò trong câu chuyện tôi muốn thuật lại cùng bạn đọc. Trong vụ án này, mặc dầu tên Trần Quốc Hoàn được ghi như một trong những nhân vật chủ chốt, Hoàn chỉ là tay sai cho Lê Ðức Thọ. Tay sai là tay sai, cho dù có là bộ trưởng. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy vẫn phải viết. Bức tranh xã hội Việt Nam vào thập niên 60 thiếu Hoàn sẽ mất đi một mảng điển hình.
Tôi không có lần nào tiếp xúc riêng với Trần Quốc Hoàn. Cùng ngồi tù với cha tôi ở Sơn La, nhưng Hoàn không nhập được vào khối các cựu tù nhân bè bạn với cha tôi. Những người này sau Cách mạng Tháng Tám vẫn thường qua lại thăm nhau. Hoàn chỉ tới ngôi nhà chúng tôi ở 65 Nhà Rượu đôi ba lần là cùng trong thời kỳ bí mật. Kháng chiến thành công rồi không bao giờ tôi thấy Hoàn tới nữa. Ðối với tôi điều đó có nghĩa Hoàn không thuộc số người mà cha tôi coi là bạn. Cha tôi phân biệt bạn và đồng chí. Những người cộng sản hiển nhiên là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn của ông. Bạn bè của ông đông, đủ loại, trong đó có nhiều người không phải là cộng sản, thậm chí có xu hướng trái ngược với cha tôi, như ông Tiến cố tôi đã có dịp nhắc tới ở trên, hoặc các ông Hoàng Văn Chí, ông Phan Tử Nghĩa, Nguyễn Văn ỏi... theo xu hướng xã hội. Mỗi khi gặp nhau họ tranh luận ầm ĩ khi nhận định thời cuộc, cãi nhau về chủ trương, nhưng khi mẹ tôi đã dọn cơm lên thì bầu không khí lại trở về vui vẻ, nhộn nhạo tiếng cười và những câu nói đùa bất tận.
Khoảng đầu những năm 60 Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Khắp nơi, người ta xì xào về những lời tuyên bố của Hoàn, coi như Hoàn là cái phong vũ biểu cho thời tiết chính trị của đất nước. Hoàn được gán cho cái biệt hiệu "Béria của Việt Nam" chính là trong thời kỳ này, thời kỳ bắt đầu những cuộc tấn công hùng hổ và ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại hiện đại, không phải vì những cuộc bắt bớ (lúc đó chưa xảy ra) mà vì những lời dọa dẫm được hào phóng ban phát trên các diễn đàn. Tôi có lần hỏi cha tôi Trần Quốc Hoàn là người thế nào. Cha tôi có vẻ không bằng lòng câu hỏi của tôi.
- Con phải cẩn thận. - cha tôi càu nhàu - Tình hình nước ta không đơn giản. Nói động tới Trần Quốc Hoàn là nguy hiểm lắm đấy. Con đã ở Liên Xô thời kỳ Ðại hội XX, con thừa hiểu tình hình bên đó ngày trước là thế nào. Bố nói phải cẩn thận là trong ý nghĩa đó. Béria dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, còn có học đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt, nhưng coi đó là khuyết điểm sinh hoạt, chỉ nhắc nhở hắn rồi bỏ qua. Trong đời thường mà thế, ắt trong công việc không thể đàng hoàng. Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm. Nhất là bây giờ hắn lại ở trong Bộ Chính trị, tuy là ủy viên dự khuyết, trên hắn lại có Lê Ðức Thọ đỡ đầu.
- Thế những người biết hắn đâu cả mà không ai dám can ngăn?
Cha tôi thở dài:
- Hồi cuối năm 1954 các cố vấn Trung Quốc phát biểu không đồng ý cho bác Lê Giản lãnh đạo ngành Công an, cụ Hồ nghe theo. Sau đó ít lâu, một hôm ông Cụ có hỏi bố: "Chú thấy liệu Trần Quốc Hoàn có đảm đương được trách nhiệm bộ trưởng Bộ Công an không?" Bố biết can cũng chẳng được, nên chỉ trả lời qua quít: " Tôi ở Sơn La với anh ấy mấy năm tôi biết, trình độ văn hóa cũng như trình độ kiến thức anh Hoàn này kém lắm. Mà trông nom một bộ quan trọng như Bộ Công an(2), theo tôi nghĩ, phải có người giỏi, có học thức, sao Bác không giao cho ai khác?".
Người tiến cử Trần Quốc Hoàn nắm Bộ Công an là Lê Ðức Thọ. Trường Chinh tán thành. Ông Hồ hỏi ý kiến cha tôi cũng chỉ để tham khảo. Cho dù ông có thấy cha tôi nói phải ông cũng không nghe theo được. Còn cha tôi thì cho rằng để trả lời cho một câu hỏi của ông Hồ về nhân sự ông nói thế đã là nhiều. Thường ông kín đáo, không hay nhận xét về người này người khác. Không phải vì sợ hãi, hay nể nang, mà vì thận trọng.
Ông cho rằng con người ta lúc thế này lúc thế khác, không phải bất biến, lấy một giai đoạn mà nhận định cho cả cuộc đời con người là không nên. Ðấy là nói chung, chứ riêng trường hợp này ông không nói còn vì e ngại thế lực của Lê Ðức Thọ. Năm 1955, khi Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức bị phát hiện sai lầm, Lê Ðức Thọ được thay Lê Văn Lương, thì thế lực Thọ đã mạnh. Cha tôi sợ, nói thẳng ra là như thế. Như một bệnh truyền nhiễm bắt đầu lan rộng, cái sợ không chừa cả ông. Cái khí phách còn lại của tinh thần nho sĩ chỉ còn lại ở chỗ ông đủ nghị lực để giữ mình không dây vào những việc làm bạc đức, một thứ khí phách mà vài thập niên sau được đặt tên là chủ nghĩa makeno.
Vào năm 1965, nhân người nhà một viên chức chế độ cũ bị bắt tìm đến ông nhờ ông can thiệp giùm, cha tôi nhận lời đi gặp Trần Quốc Hoàn. Cha tôi biết rõ người bị bắt, ông này là người đúng đắn, trước đã có công giúp đỡ cách mạng. Chắc hẳn do tính tình nóng nảy, không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói mà ông này bị bắt. Lúc ấy cha tôi đã về hưu, không còn quyền chức gì để có thể trực tiếp giúp đỡ ông. Cha tôi đến với Trần Quốc Hoàn, nghĩ Trần Quốc Hoàn sẽ nể tình bạn tù cũ mà nghe ông xem xét lại vụ án. Nhưng ông lầm. Hoàn tiếp ông, hứa hẹn bâng quơ, nhưng rồi việc đâu bỏ đó.
Không giúp được người oan ức cha tôi rất buồn.
- Thằng lưu manh khó lòng trở thành người tử tế. - ông than phiền với ông Ðặng Kim Giang - Mình quá tin ở khả năng cải tạo của môi trường đối với con người, hóa ra không phải như vậy.
Ông Giang an ủi cha tôi:
- Cậu không giúp được người ta thì cũng đừng dằn vặt mình quá. Ai chịu trách nhiệm được thay kẻ khác?
Ông Ðặng Châu Tuệ(3) hôm đó có mặt thở dài:
- Thời bây giờ khác trước rồi. Nghĩ nhiều đến số phận dân chúng lúc này là lạc hậu lắm, chúng mày ơi. Bây giờ người ta nghĩ tới những cái khác kia - cái chức, cái quyền, cái lợi. Cách mạng mà rồi thế này ư? Tao ngấy đến tận cổ.
Tôi nghe được mẩu đối thoại ấy, nhưng tôi không nghĩ cha tôi nói theo nghĩa đen. Một nhà cách mạng làm tới chức vụ cao như thế sao lại có thể là một tên lưu manh được?
Bộ Nội Vụ, trung thành với tính chất bí hiểm của nó, không hay tổ chức những cuộc gặp gỡ các nhà báo, nếu có thì chỉ là những cuộc họp báo hạn hẹp để nghe một cán bộ cấp vụ phổ biến chủ trương hoặc công bố kết quả một chiến dịch, một vụ phá án gián điệp chẳng hạn. Cho nên các nhà báo ít có dịp tiếp xúc với Trần Quốc Hoàn. Tôi chỉ thỉnh thoảng được gặp, nói cho đúng là nhìn thấy Hoàn, trong một số buổi khánh tiết long trọng, ở những cuộc đón tiếp ở địa phương mà tôi tình cờ có mặt. Trong các nhân vật lãnh đạo ở Việt Nam thời bấy giờ Trần Quốc Hoàn có bộ mặt khả ố nhất, theo tôi. Có thể người khác thấy Hoàn theo cách khác, nhưng tôi thì tôi thấy đúng như vậy. Hay vì Hoàn là bộ trưởng công an nổi tiếng tàn bạo mà tôi nhìn ra thế chăng? Từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù.
Trần Quốc Hoàn thường xuất hiện cùng lúc với Lê Quốc Thân. Béo núc ních, cổ rụt, hai mắt ti hí, giống hệt một con lợn, là phó của Hoàn. Thứ trưởng Lê Quốc Thân được người ta biết đến như một tên bất nhân. Trần Quốc Hoàn còn học được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Ðức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Ðược Ðảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn(4) chiến đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Ðến nỗi, những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên:"Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này". Tôi được nghe, được đọc một số bài nói chuyện với cán bộ ngành công an của Lê Quốc Thân. Những bài báo này, theo nhận xét của giới trí thức, vừa ngu xuẩn vừa sặc mùi bạo lực. Tôi là người yêu chủ nghĩa xã hội, và tôi lấy làm xấu hổ cho cái chủ nghĩa xã hội mà tôi theo vì những bài phát biểu thiếu văn hóa đó.
Khoảng từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp phương châm bắt nhầm còn hơn bỏ sót được người ta nói tới nhiều, như thể đó là đường lối tốt nhất để bảo vệ cách mạng. Tôi cũng là người chăm đọc sách mác-xít, nhưng trong những đoạn văn viết về chuyên chính vô sản tôi không thấy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói tới một phương châm như thế. Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó cực kỳ giản tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài củng cố địa vị thống trị. Nó cho phép tên độc tài thoát khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Trên thực tế nó đã trở thành phương châm hành động của công an nhiều nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước châu Á (ở các nước châu Âu, sau Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô, tình hình đã có thay đổi theo chiều hướng dân chủ). Cán bộ thực hành chuyên chính vô sản tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào họ. Vạn nhất có bị phát hiện họ sẽ được chuyển sang công tác khác, được bảo hiểm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả là không biết bao nhiêu thường dân vô tội trở thành nạn nhân của cái phương châm bất nhân bạc ác này. Mà nói thường dân làm chi, đến những cán bộ cấp khá cao như anh Tạ Ðình Ðề, nguyên đội trưởng Biệt động thành Hà Nội, cũng bị đem ra "làm thịt" theo chủ trương nói trên của Hoàn(5).ó chịu, cười bả lả:
- Anh Hiên có dễ ở đây lâu đâm ra quên mất phép lịch sự, có khách đến chơi nhà mà cũng không mời ngồi.
Tôi thản nhiên:
- Anh sai rồi. Trước hết, đây không phải nhà tôi. Vì thế tôi không cần lịch sự với các anh. Sau, nếu là nhà tôi thì cũng không phải ai tôi cũng mời vào nhà, đừng nói gì tới mời ngồi, anh trách tôi là vô duyên.
Trúc ngượng, quay sang hỏi chuyện Phùng Mỹ. Rồi không lẽ không nói gì với tôi, y hỏi:
- Lâu nay anh vẫn nhận được thư nhà đều đặn chứ? Chị với các cháu vẫn được khỏe chứ?
Tôi nhếch mép cười:
- Tôi không hiểu câu hỏi. Thư nhà của chúng tôi các anh duyệt rồi mới cho chúng tôi nhận, gia đình chúng tôi ở ngoài ra sao các anh còn biết hơn chúng tôi. Tôi không hiểu các anh đạo đức giả để làm gì?
Trúc không chịu được sự mất mặt với thuộc hạ. Y quắc mắt:
- Này, anh phải biết: chừng nào còn nằm trong tay chúng tôi các anh hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo vạ vào thân...
Tôi cũng nóng mặt:
- Bây giờ mà còn dọa dẫm tôi nữa thì thật là buồn cười. Cái vạ lớn nhất tôi đã được biết, anh còn muốn mang cái vạ nào tới để dọa tôi nữa đây?
- Anh tưởng Ðảng phạt anh thế này là nhiều rồi à? Anh sẽ còn được biết cái hơn nữa, nếu anh muốn...
- Thế thì hãy đưa cái đó ra đây coi.
- Ðược, hãy chờ đấy!
Y vùng vằng quay ra. Thuộc hạ im thin thít, lục tục theo sau. Khi y tới cửa, tôi gọi với:
- Này, anh kia! Về bảo với cái anh Lê Ðức Thọ nhà anh, hoặc Trần Quốc Hoàn cũng được, rằng hãy chịu khó đọc lấy vài cuốn của Mác rồi hãy xưng mác-xít. Bảo họ rằng chính Mác lên án chế độ giam người lâu ngày trong xà lim là hết sức vô nhân đạo đấy!
Y cười gằn:
- Ðược rồi, Ðảng rộng lòng đối xử tử tế với các anh, cho các anh được giam riêng, sướng như ông hoàng không muốn, lại muốn lao động khổ sai. Muốn thế thì được thế... Hừm, đồ...
- Ði đi! Hãy nói với Ðảng của anh rằng tôi không cần cái sự rộng lòng nào hết! Và anh, với lối ăn nói vô lễ của anh, đừng vác mặt đến gặp chúng tôi nữa...
Nhưng y đã ra tới sân.
Phùng Mỹ bảo tôi:
- Cậu phải bình tĩnh. Ðừng sa vào âm mưu khiêu khích.
Tôi cười nhạt:
- Có lẽ cậu muốn khuyên mình đừng khiêu khích chúng nó? Thằng này đâu có định khiêu khích mình. Không hiểu hôm nay nó tới để làm gì?
- Vì thế mới phải bình tĩnh để cho nó nói hết xem nó muốn gì, chúng nó có âm mưu gì? Cậu nóng như lửa ấy.
Tôi nhận lỗi. Tôi nóng. Nhưng người tù vốn thế - thỉnh thoảng nó lại bị một cơn giận bùng lên, không kìm giữ được.
Vài ngày sau, tôi được gọi ra gặp vợ.
Nhìn thấy tôi, vợ tôi òa khóc. Tôi xúc động, vừa ôm lấy vợ tôi thì vợ tôi hét lên vì đau đớn. Thì ra tôi chạm phải bên vai đang sưng tấy vì gánh đồ tiếp tế cho tôi. Tội nghiệp, vợ tôi có quen gánh gồng bao giờ đâu.
- Em gánh nặng quá! - vợ tôi nói - Mà đường thì xa.
Vợ tôi gày, xanh lướt. Trên mặt đầy những tàn hương. Khi nào vợ tôi yếu thì những vết tàn hương lại hiện lên. Chưa bao giờ tôi thấy vợ tôi yếu đến như thế. Gánh đời cũng quá nặng rồi, vợ tôi đuối sức rồi.
- Tình hình chưa có gì tốt đâu anh ạ. - nhân lúc tên quản giáo coi tù gặp gia đình bước ra ngoài, vợ tôi nói với tôi - Mẹ gặp bác Cả mấy lần, có em đi cùng, nhưng bác ấy sợ lắm, chẳng dám giúp gì mình đâu. Cán bộ cũng chỉ dám thì thào với nhau về vụ các anh, chứ không ai dám thắc mắc. Nghe nói còn nhiều người bị bắt lắm.
Tôi muốn nói với vợ tôi đừng chờ đợi tôi nữa, ngày trở về quá xa, mà cũng có thể sẽ chẳng bao giờ có, nhưng tôi không nỡ. Thôi được, tôi sẽ viết điều đó trong một bức thư gửi sau vậy.
- Anh tiếc số sách. Nhiều cuốn quý lắm. Sưu tầm nhiều năm mới được bằng ấy, đến nhà xuất bản Sự Thật(9) còn phải mượn, chưa nói gì các nhà xuất bản khác. Nếu có ai sử dụng được thì đem cho người ta khỏi phí.. Nhà mình ẩm, mối xông mất. Cả quần áo của anh nữa, đem cho đi, năm năm rồi, vải mục hết.
- Em không cho đâu. Cho như thế cứ như anh chết rồi ấy.
- Anh còn sống chỉ là nỗi khổ cho em...
- Ðừng nói bậy.
Chúng tôi nắm chặt tay nhau.
Phùng Mỹ buồn rượi. Ðã lâu chị Ðào vợ anh không lên thăm anh. Gia đình anh nhà giáo, còn nghèo hơn gia đình tôi. Chẳng gì chúng tôi cũng đã từng ra nước ngoài, khi về cũng có một số đồ vặt vãnh có thể bán đi sống qua ngày.
Một hôm chúng tôi đang ngồi đọc sách thì nghe ở đầu hồi bên kia có tiếng cãi nhau ầm ĩ.
Phùng Mỹ ôm đầu rền rĩ:
- Khổ, sao anh em chúng ta lại có thể đối xử với nhau như vậy?!
Tôi cũng đau lòng. Nhưng biết làm thế nào? Nếu anh em không hiểu âm mưu của kẻ thù thì xung đột tất yếu xảy ra, không sớm thì muộn. Nằm nghe anh em mình cãi nhau mãi mà không làm gì được thật khó chịu. Nhìn lên trần, tôi nói:
- Mỹ này, mình sẽ sang bên kia...
- Bằng cách nào?
- Cái trần không thấy có vết đinh, không có ốc vặn, chắc người ta chỉ xếp các rầm gỗ lim đặt lên thôi. Họ không sợ tù trốn theo đường lên trần vì trong các phòng kỷ luật từ giường lên trần khoảng cách quá cao, không trèo lên được. Nhưng ở đây họ cho ta bàn ghế, mình bắc ghế lên bàn rồi tìm cách trèo sang bên kia...
- Sợ rầm gỗ quá nặng, hoặc bên trên người ta còn bắt gông ngang?
- Cứ thử xem sao.
- Chúng nó bắt được thì chết...
- Từ giờ đến tối hiếm khi có người vào. Ðể mình liều một phen.
Rầm trần không đến nỗ Tôi biết Tạ Ðình Ðề từ năm 1949 khi học trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tôi ở đại đội 3, đóng bên đại đội Lê Hồng Phong gồm các sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn về học khóa 6 trong chủ trương chính quy hóa quân đội. Tạ Ðình Ðề ở đại đội Lê Hồng Phong. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, tôi hiểu tính cách của anh. Anh là người có tinh thần đồng đội, lại thẳng thắn, không biết nịnh bợ. Trong triều đại Lê Duẩn những người có tính cách như thế trước sau cũng bị gạt ra khỏi guồng máy. Sau khi được trắng án, Hoàn và Thân còn nhiều lần mưu toan đưa anh trở lại nhà tù nhưng không thành công.
Ông Nguyễn Tạo, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp, là phó tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam thời ông Lê Giản làm tổng giám đốc, biết rõ tiểu sử Trần Quốc Hoàn.
- Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy. - ông trả lời thắc mắc của tôi - Chả là thằng này đích thực lưu manh, anh ạ.
Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hi vọng ông còn sống lâu để có thể kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.
Không thể nào tưởng tượng nổi - một bộ trưởng, hơn nữa, một ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản, lại là một tên lưu manh xuất thân! Và tên lưu manh này đã đứng trên đỉnh cao quyền lực làm mưa làm gió nhiều năm trong bộ máy trấn áp của Ðảng. Cũng chính tên lưu manh này đã cùng "đại huynh" của nó thực hiện vụ hãm hại chưa từng có trong lịch sử đất nước những trung thần của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu chuyện ông Nguyễn Tạo kể được ghi lại như sau:
Trong một thôn nghèo bên một thị trấn heo hút thuộc miền núi Nghệ An có một đôi vợ chồng nghèo hiếm muộn, có độc một mụn con trai. Họ kiếm sống bằng nghề đi rừng kiếm dây leo về bện rế mang ra chợ bán, đắp điếm lần hồi, với hi vọng rồi đây đời con mình sẽ khá. Tuy nghèo khổ, hai người vẫn ăn nhịn để dành cho con trai theo học trường tiểu học phố chợ. Thằng bé loắt choắt được bạn cùng lớp gọi là Cảnh con, không đến nỗi quá tối dạ, khốn nỗi cũng chẳng thông minh, học thì lười, ăn cắp thì chăm.
Lớn lên một chút Cảnh con nổi tiếng cả thị trấn và một vùng xung quanh về tật ăn cắp vặt. Học đến cours préparatoire(6) thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Từ đó Cảnh con lêu lổng như một con mèo hoang. Nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở thành bất trị. Cha mẹ nó bị xóm giềng chửi bới, nguyền rủa, bị bắt đền, bị đe dọa. Ðứa con hư trở thành gánh nặng, thành nỗi khổ tâm không sao thoát khỏi của đôi vợ chồng nhà nọ. Nỗi giận dữ của dân phố chợ nhằm vào Cảnh con cũng ngày một tăng lên. Rồi tới một lúc không ai còn có thể chịu nổi nữa.
Họ gặp may. Ðúng lúc có người mộ phu tới, viên trưởng thôn liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ. Vừa được tiền, lại vừa nhẹ mình. Thường người đi phu được lĩnh ở thầy ký mộ phu một khoản rõ ràng, khoảng năm đồng Ðông Dương nhưng đám chức sắc ăn chẹn, người đi phu chỉ được lĩnh một nửa, có khi còn ít hơn. Chức sắc ở địa phương bao giờ chả muốn đuổi khỏi địa phương mình những phần tử thanh tích bất hảo, bây giờ ta gọi là làm trong sạch địa bàn.
- Lúc bấy giờ Cảnh con chừng bao nhiêu tuổi, thưa bác? - tôi hỏi.
- Khoảng mười lăm, mười sáu. - ông Tạo đáp - Thời trước là tuổi đi làm được rồi. Cảnh con được đưa sang Lào, tới một vùng có mỏ vàng, làm phu. Công việc phu đãi vàng rất đơn giản: đào đất ở những chỗ có mạch vàng rồi đem ra suối đãi. Dụng cụ đãi là một cái chảo lớn, dân đãi vàng gọi là pa-tê.
- Công việc phu đãi vàng ngày trước có khó nhọc lắm không, thưa bác?
- Làm phu tất nhiên là khổ rồi. Nhưng phu đãi vàng cũng không đến nỗi khó nhọc so với phu mỏ, phu đồn điền. Cái khổ nhất của phu đãi vàng là bệnh sốt rét ngã nước. Họ sống rải rác trong rừng, từng tốp một, mỗi tốp vài chục người. Ðứng đầu mỗi tốp có một cai trông coi gọi là xú-ba-dăng(7). Tiếng là đãi cát ra vàng, nhưng lương phu thấp lắm, chỉ đủ sống, ít có ai hết giao kèo còn dành được tiền mang về nhà. Người đi phu thường không có ý định quay về - ở nông thôn thời bấy giờ còn khổ hơn đi phu. Anh đọc Tắt Ðèn rồi chứ?
- Thưa, đã.
- Nông thôn lúc bấy giờ đúng như cụ Ngô Tất Tố tả. Nhiều người còn đi phu xa hơn, sang tận Nouvelle Calédonie hoặc Nouvelles Hébrides(8), ta gọi là Tân Ðảo và Tân Thế Giới, làm công nhân khai thác kền ở Chiepagui...
Các đồng chí ta ở Thái Lan lúc bấy giờ đã có Thanh niên Cách mạng Ðồng chí Hội hoạt động tương đối mạnh. Chính quyền Thái đối đãi với Việt kiều cũng nhẹ nhàng, họ không gây khó dễ cho các tổ chức cách mạng Việt Nam mà họ thừa biết là có cơ sở rộng khắp trên đất họ. Có thể nói đó là sự ủng hộ đáng quý. Cách mạng Việt Nam nhờ Thái Lan nhiều. Chỉ từ khi phái cực hữu Thái Lan lên nắm quyền thì cách đối xử với các tổ chức cách mạng Việt Nam mới xấu đi. Xét cho cùng, là lỗi tại mình. Ai lại nhờ đất người ta mà lại đi vận động dân Thái chống chính quyền ngay trên đất họ của họ. Thời kỳ mà tôi đang nói tới ngoài việc phát triển hội viên trong kiều bào tại chỗ, Hội Thanh niên cách mạng còn triển khai tổ chức của mình trong kiều bào ở Lào, Miên.
Khái niệm công nhân trong Hội Thanh niên bấy giờ rất đơn giản - bất cứ ai bán sức lao động chân tay đều là công nhân tuốt, đều là đối tượng để kết nạp vào Hội. Chứ đám phu đãi vàng đâu có là công nhân công nghiệp theo cách phân định thành phần của Mác, như các anh bây giờ hiểu. Vậy, các đồng chí Thanh niên cách mạng phát triển tổ chức vào đám phu mỏ vàng nọ. Người ta phát triển vào Cảnh con. Mà phát triển vào hắn cũng phải. Chỉ có mình hắn biết đọc biết viết trong đám phu mù chữ. Cảnh con thường viết thư thuê cho các bạn phu lấy tiền.
Chuyện bắt đầu từ đây. Ðồng chí phụ trách phát triển Cảnh con, tôi không nhớ tên, thiếu cảnh giác, trong lúc tâm sự con cà con kê đã nói với Cảnh con tên tuổi một số đi quá nặng. Tôi đẩy được nó lên, thở rốc.
- Chúng mình sẽ mang cho anh em một số quà. - tôi quay xuống, nói.
- Phải đấy!
Chúng tôi lấy ra khoảng hai kí khoai lang thu hoạch từ luống khoai trồng được, một ít ớt tươi từ những cây ớt xum xuê, một gói kẹo Hải Châu, một bịch trà và hai bao thuốc lá vừa được tiếp tế.
Tôi đu người chui vào trong cái lỗ tối om trên trần. Ðể sang được hồi bên kia tôi phải bò qua bốn ngăn xà lim kỷ luật. Mặc dầu tôi cố bò thật nhẹ nhàng nhưng ở bên dưới một người tù kỷ luật vẫn gọi sang buồng bên cạnh:
- Hình như có người bò bên trên, mày ạ!
Tôi nín thở.
- Ma đấy!
- Thật mà.
- Con mèo vàng của Ban(10) đấy. - người ở buồng bên trả lời - Tao thấy nó luẩn quẩn ở đây.
- Béo đáo để. Ðược một xoong rựa mận ngon tuyệt.
- Chớ có đụng vào mà chết với Ban.
Sang đến hồi bên kia, tôi nhẹ nhàng nhấc một cái rầm lên, ngó xuống. Hai người bên dưới trợn tròn mắt nhìn tôi.
- Hiên đây! Vũ Thư Hiên đây!
- Trời, sao cậu liều thế?
Anh Lộc nói, vội vã bắc ghế cho tôi tụt xuống.
Trong hai người tôi chỉ biết Lộc, cán bộ Viện Triết học, là bạn của Vũ Huy Cương. Tôi gặp anh vài lần, nhưng không thể nói rằng quen. Huỳnh Ngự cũng vài lần bắt tôi khai về Lộc mà tôi không biết khai gì. Người kia là Ðinh Chân, đại úy, biên tập viên báo Quân đội Nhân dân.
Cả hai đều xanh xao nhưng không đến nỗi gày lắm. Tôi quyết định ngồi lại một lát. Tôi bóc bao thuốc mời hai anh hút. Họ hút say sưa. Rõ ràng từ lâu các anh không có thuốc hút. Tôi kể cho hai anh nghe kinh nghiệm của chúng tôi đối phó với âm mưu ghép hai người khác tính cách để hằn thù nhau, kể chuyện chúng tôi học tập, trồng rau, trồng khoai, trồng ớt và đưa tặng hai anh gói quà. Lộc và Ðinh Chân có vẻ ngượng ngùng.
Tôi quay về, lần này bò cẩn thận từng bước, còn nhẹ nhàng hơn cả con mèo vàng của Ban.
Một tuần sau, tôi đang ngồi nghiền cuốn từ điển tiếng Nga thì cửa xịch mở. Một đám công an xộc vào. Tôi không hiểu vì sao chúng vào đông đến thế, có tới cả chục đứa, đứa nào đứa nấy sát khí đằng đằng. Một tên có vẻ quan trọng hơn cả tiến lên trước, lừ lừ nhìn tôi, sẵng giọng:
- Anh này! Ði!
Tôi chưa gặp tên này lần nào. Y có bộ mặt nhày mỡ và cặp môi dầy như hai miếng chả.
- Có phải mang theo đồ đạc gì không?
Tôi hỏi lại. Phùng Mỹ mặt mày nhợt nhạt. Chúng tôi đều nghĩ đến chuyện sắp phải xa nhau. Mà chúng tôi đã quen sống có nhau rồi.
- Không! - cặp môi dầy nói.
Tôi đi theo y. Ðám công an dãn ra nhường lối rồi rùng rùng theo sau. Chúng tôi không đi xa. Ra khỏi cổng khu biệt giam, chúng quặt ngay vào khu kỷ luật. Tên đi đầu mở cửa, những tên đi sau đẩy tôi vào trong. Chúng đè tôi xuống giường, chụp hai khong cùm sắt vào chân tôi, một tên đẩy suốt cùm vào, rồi khóa lại.
- Anh bị thi hành kỷ luật mười ngày vì tội xúc phạm lãnh tụ. Anh được phép xin ân giảm. Nếu xin, nói với ông quản giáo cho giấy bút.
Y liếc mắt ra hiệu. Một tên chồm tới lấy còng số 8 khóa chặt hai tay tôi. Rồi tất cả rùng rùng kéo đi.
Còn lại một mình, tôi cố nhỏm dậy để quan sát hai cổ chân đau rát như phải bỏng. Khi cái tên công an tống suốt cùm vào, tôi phải nghiến răng lại để chặn một tiếng thét đau đớn. Thì ra cái khong quá chật, suốt cùm sắt lại có những vết chém như răng cưa, làm tôi bị sứt sát một số chỗ ở kheo chân, máu chảy ra tong tỏng. Nhưng đó chưa phải là cái tồi tệ nhất. Khoảng nửa giờ sau tôi thấy cảm giác nặng ở hai bàn chân, sờ thấy chân sưng phồng, da lạnh ngắt. Chân bị tụ máu rồi. Loay hoay một lát, tôi nghĩ ra cách dùng ngón tay đút vào khong cùm để tĩnh mạch không bị chẹn, máu có thể trở về tim. Rồi lại phải thay chỗ chèn cho động mạch đưa được máu xuống. Kế này tốt nhưng rất mệt, tôi không dám nằm xuống sợ ngủ quên.
Phải gày đi thật nhanh thì mới cứu vãn được tình thế, tôi nghĩ. Tuyệt thực lúc này là tốt nhất. Ðàng nào thì cũng phải tỏ thái độ. Tuyệt thực là một trong những hình thức đấu tranh, là sự biểu thị ý chí. Nhưng sự biểu thị cần có người biết, mình thì lại ở một khu cách xa trại, kêu chẳng ai nghe thấy thì tuyệt thực là vô bổ. Mà bó tay mặc cho chúng hành hạ mình thế nào thì hành cũng dở. Tôi quyết định dùng hình thức bán tuyệt thực. Cho tới nay bọn công an ở đây vẫn không trực tiếp quản lý chúng tôi, chúng vẫn phải báo cáo tình hình chúng tôi cho Lê Ðức Thọ. Cần phải cho thằng này biết tôi không phải dễ bị bẻ gãy.
Tôi gõ tường thông báo cho Phùng Mỹ biết quyết định của tôi. Anh gõ lại:
- Cố gắng lên!
Lộc và Ðinh Chân cũng đã biết tôi bị cùm. Các anh cũng nghe được thông báo. Từ phòng hai anh vang lên tiếng gõ:
- Tiên sư chúng nó!
Tôi cảm thấy trong lòng ấm áp khi biết tôi đang ở đây với bạn bè bên cạnh.
Buổi chiều viên quản giáo trông khu kỷ luật, một người đứng tuổi, mặt rỗ hoa, đi cùng một người tù tự giác mang cơm vào. Tôi bảo y:
- Tôi đang bị ốm. Tôi không ăn cơm. Anh cho mang ra. Ngày mai, báo cháo cho tôi.
Y ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì.
Hai chân bị cùm, hai tay bị còng, lại còn phải canh chừng cho chân không bị tụ máu, tôi cứ ngồi suốt buổi chiều và cả đêm, không dám nằm xuống. Hồi ở Hỏa Lò với cái cùm gắn chết vào chân phản tôi cứ nghĩ mãi: không biết khi bị cùm người tù đại tiểu tiện ra sao. Ðến khi mình bị cùm mới biết làm mấy chuyện đó không đến nỗi khó lắm, mặc dầu rất bất tiện. Hai tay tuy bị còng vẫn có thể di chuyển cái bô đặt ngay trên phản, sau đó thì lựa tư thế khi ngồi khi nằm mà giải quyết.
Trong xà lim rất hôi hám, tanh tưởi, muỗi như trấu, lại thêm cái nạn rĩn. Những ủa bà André Viollis, các lực lượng phái tả của Pháp lên án mạnh chính quyền thuộc địa trong việc giam giữ tù chính trị, cho nên chế độ sinh hoạt cho tù chính trị được cải thiện hơn trước nhiều.
Không biết được ai mách giúp bảo giùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm Phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn. Cảnh con chắc khai cũng lăng nhăng lắm, hắn có liên lạc với ai đâu mà bảo hoạt động. Thế mà hắn được đưa sang bên chính trị, mới lạ. Tại Sơn La hắn nói với tổ chức Ðảng rằng hắn là người trong tổ chức, viện tên những đồng chí Thái Lan trước đây đã kết nạp hắn (nay đã chết hết), xin được kết nạp lại. Tổ chức nhờ bên ngoài xác minh, thấy quả có những đồng chí tên tuổi đúng như vậy, bèn cho hắn sinh hoạt. Lê Ðức Thọ cũng kết tình thầy trò với hắn ta từ đó
- Chẳng lẽ Trường Chinh hoặc những đồng chí gần Trường Chinh không nhớ chuyện Cảnh con từ chối không bán chữ in cho họ?
- Nhớ thì cũng thế thôi. Có lục chuyện ấy ra Cảnh con cũng thiếu gì cách chống chế. Nguyên tắc bí mật chẳng hạn, chưa bắt được liên lạc thì biết ai là ta ai là địch. Theo nguyên tắc đó Cảnh con có quyền không biết Trường Chinh là ai, nói gì người của Trường Chinh cử tới gặp. Sau, Cảnh con đã làm to rồi, có ai biết chuyện cũ cũng im thin thít, không dám hó hé. Chỉ tội bọn lưu manh tép riu, hồi Cách mạng Tháng Tám chúng bị giết vô số kể, là lệnh của Trần Quốc Hoàn đấy.
- Hoàn muốn bịt miệng những người biết quá khứ của hắn?
- Tất nhiên.
- Hồi ấy ai nắm công tác tổ chức, thưa bác?
- Chẳng có ai. Hoặc có thì cũng là phân công miệng với nhau, bảo nhau mà làm, mỗi người một mảng việc, mỗi người một địa phương. Ngay các chức vụ trong Trung ương cũng vậy, nhiều khi ới nhau mà giao, ai gần thì gọi. Nói chung là phải tự động giải quyết. Ðấy, như Văn Tiến Dũng đấy. Có hồi anh ta mất liên lạc với Ðảng, chẳng được tổ chức phân công việc gì, nhưng anh ta cứ đi các nơi xây dựng cơ sở, kết nạp đảng viên như thường. Cho tới khi bố anh đi tìm được thì Văn Tiến Dũng đã có sẵn một mớ chi bộ của anh ta rồi.
- Có phải hồi chú Văn Tiến Dũng đóng giả nhà sư không?
- Ðấy là hồi sau, khi đã bắt được liên lạc. Phải công nhận Văn Tiến Dũng kiên trì cách mạng lắm. Chưa bắt liên lạc lại với đồng chí thì tự nghĩ ra việc mà làm. Văn Tiến Dũng đúng. Nhưng nếu bắt bẻ thì có cái chi không bắt bẻ được, Văn Tiến Dũng làm thế gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật rồi, phải không? Tổ chức Ðảng trong những năm ấy chẳng chặt chẽ gì. Vả lại số đảng viên bấy giờ ít lắm, đâu có như bây giờ, thêm được một người là quý. Là đảng viên trước đây có nghĩa là tù đầy, là máy chém...
- Bác nghĩ Cảnh con rồi sau cũng giác ngộ cách mạng?
- Ai biết được?! Cũng có thể là như thế - con người ta thay đổi.... Mà cũng có thể không... Tôi chỉ tin một điều: con người ta rất khó thoát khỏi bản chất của nó, khó lắm.
Tôi trách cha tôi nhiều. Lẽ ra ông phải cho tôi biết những điều ông biết, nhưng ông đã lảng tránh.
Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi:
- Con lấy xe đưa bố đi một lát.
Hôm ấy tôi có một cái hẹn, nhưng đành phải bỏ - trong gia đình tôi sự không tuân lời người trên là lỗi nặng. Ðành phải dịch cái hẹn sang ngày khác để đưa cha tôi đi. Ông ngồi sau chiếc Jawa 05 thấp tè, vốn không được thiết kế để chở hai người, hai chân khuỳnh khuỳnh. Nhưng ông chịu khó ngồi lắm, không kêu ca. Năm ấy cha tôi không còn đi được Mobylette nữa, dắt xe ra cửa, cái xe kéo ông theo làm ông ngã dúi dụi. Trước đó, khi còn làm ngoại giao có tiêu chuẩn xe hơi ông cũng chỉ đi xe Mobylette của riêng, do bạn bè ở Pháp gửi cho. Ông bảo: "Nước ta còn nghèo, xe cấp cứu cho đồng bào còn chẳng có, mình đi một mình một xe hơi làm gì, phí phạm!". Có hôm tới dự kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga ở đại sứ quán Liên Xô lính gác (Việt Nam) không cho ông vào chỉ vì ông đi Mobylette.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái.
- Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống - cha tôi chỉ tay về phía trước - Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại...
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
- Con không hiểu bố muốn nói gì...
- Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên, sau này... Thôi, ta về.
Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau:
- Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ... Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
- Bác biết?
Ông gật đầu:
- Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả...
- Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác?
- Một vụ án mạng oan khuất.
- Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu?
- Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó.
- Một hiện trường giả?
- Chính là như vậy. - ông ngậm ngùi - Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ...
- Thời gian nào, thưa bác?
- Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955...
- Cùng được Trần Ðăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về...
- Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu?
- Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm... Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi...
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín.
- Như vậy, có thể coi như bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam?
Ông cười chua chát:
- Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha... Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể đó là tội lỗi.
- Ai đã giết bà Xuân?
- Ðừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này: vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm(14). Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Ðức, được nhận dạng. Ðó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn.
- Tại sao lại Trần Quốc Hoàn?
- Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết.
- Rồi sau thì sao?
- Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh... thần kinh. ớt lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang... Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng.
- Những đầu mối đều bị bịt?
- Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
- Về những cái chết này không có ai điều tra hết?
Ông Tạo cúi mặt xuống.
- Không.
- Tại sao, thưa bác?
- Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới.
- Trần Quốc Hoàn?
- Phải. - ông thở dài - Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Ðảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy...
- Vì sao Trần Quốc Hoàn giết bà Xuân?
- Ðó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
- Và Trung ương im lặng?
- Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này...
- Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
- Có nhiều điều chúng ta không biết được. - ông nói, giọng bùi ngùi - Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai? Với Lê Duẩn chăng? Hay Lê Ðức Thọ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng...
- Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi?
- Trong mấy cái chết nói trên? Không.
- Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ? Ông Hồ cũng không có lỗi? - tôi gặng - Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào?
- Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. - ông thở dài - Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự ràng buộc với Ðảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Ðảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Ðảng bị phỉ báng. Ðảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Ðúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người? Dù họ có là ai đi chăng nữa...
(1) Beria Lavrenti Pavlovich (1899-1953), đồng hương với Stalin, năm 1938 được Stalin giao cho phụ trách NKVD (tiền thân của KGB, Nha An Ninh Quốc Gia), phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô năm 1941, vào Bộ Chính trị năm 1946. Tháng 12.1953 bị hành quyết vì tội phản bội tổ quốc.
- Anh dại lắm! Bướng có được cái gì đâu, mà khổ vợ khổ con... - cho người tù tự giác ra ngoài, y nói với tôi - Tôi vẫn cầm giấy bút cho anh đây, anh nên viết đơn lên trên, hay ngại đơn từ lằng nhằng viết tự kiểm(11) cũng được, để tôi chuyển cho.
Nghe giọng nói của y thì hình như đó là lời khuyên thật lòng. Tôi cảm ơn, nói rằng mỗi người có một cách sống, và tôi thích sống như tôi đã sống, tôi không chọn cách sống khác, cho dù nó hay hơn.
- Anh nên ăn cơm, húp có một ngụm cháo rồi bỏ hại người lắm. Còn phải nghĩ đến ngày về chứ!
Y nói trước khi khóa cửa lại. Thì ra y chuyển lời của người khác.
Tôi vẫn tiếp tục tuyệt thực.
Mấy ngày sau tình hình còn dễ chịu hơn nữa. Dường như dự trữ trong người bắt đầu được huy động từ từ, có tính toán, bù đắp dần cho sự thiếu hụt. Cảm giác đói vẫn còn đó, nhưng hoàn toàn không nặng nề. Tôi cảm thấy mình tồn tại trong một trạng thái lạ lùng: tôi nằm thiêm thiếp nửa mê nửa tỉnh, có vẻ như hơi mệt mỏi, nhưng cơ thể lại nhẹ nhàng.
Sáng ngày thứ bảy, tôi bị đánh thức bởi tiếng ồn ào của nhiều người. Viên quản giáo mặt rỗ mở cửa rồi đứng né sang một bên, nhường lối cho tên mặt nung núc thịt với cặp môi dầy.
- Anh có kêu xin gì không?
- Không!
Tôi đáp và quay mặt đi. Tưởng chúng sẽ bỏ đi, nhưng một tên đi sau tiến lên, mở khóa, tháo cùm cho tôi. Tôi đứng lên, nhưng đôi chân không nghe lời, làm tôi suýt ngã. Y vội đỡ, nhưng tôi gạt ra:
- Tôi tự đi được!
Họ giải tôi về phòng giam. Phùng Mỹ ái ngại nhìn tôi lảo đảo vịn cửa bước vào. Chắc tôi xanh và gày đi nhiều. ấy là người ta đã bớt cho tôi ba ngày cùm, kết quả của việc tôi tuyệt thực. Nghe nói có người bị cùm liền mấy tháng khi ra không đi được, phải bò. Càng phục anh tù tử hình Hỏa Lò, cùm suốt mà không sao cả.
- Thu xếp đồ đoàn!
Anh chàng môi dầy ra lệnh.
Tôi mặc y, đi đến chỗ cái xô đựng nước san ra chậu rửa mặt, cạo râu và gội đầu. Nước mát làm cho tôi tỉnh lại. Chỉ cần nghỉ một lát, vận động qua loa cho máu chạy đều trong huyết quản là đâu sẽ vào đó.
Như vậy, tôi sẽ không được ở với Phùng Mỹ nữa, tôi nghĩ. Không biết người ta định đưa tôi đi đâu? Tôi bắt đầu nhớ anh. Nhớ và thương, bởi vì Phùng Mỹ sẽ phải chịu đựng cuộc sống cô đơn một cách cực nhọc. May, chúng tôi đã tạo được thói quen học tập. Anh ở lại một mình cũng khó khăn, nhưng dễ vượt qua. Chỉ sợ cùng với sự chia lìa chúng tôi bắt đầu một chế độ giam cầm mới, chưa biết là thế nào.
Phùng Mỹ pha trà. Chúng tôi uống và nhìn nhau lưu luyến.
- Nhanh lên! - viên quản giáo ra lệnh.
Tôi đặt chén nước xuống.
- Xong rồi!
Y trợn mắt:
- Anh không mang theo đồ đoàn à?
Tôi lẳng lặng bỏ vào cái túi vải đựng đồ tiếp tế mấy cuốn sách, bàn chải, dao cạo râu, nhét thêm vào đó một bộ quần áo rồi bắt tay Phùng Mỹ. Chúng tôi ôm lấy nhau, từ biệt.
- Có thể đi được rồi! - tôi tiến ra cửa.
- Anh không mang đồ tới chỗ ở mới không có cái mà dùng đâu. Mang hết đi!
Tôi bỏ lại tất: chăn, màn và thức ăn gia đình tiếp tế. Phùng Mỹ sẽ dùng. Anh còn ở lại một mình.
- Tôi yếu, không mang được nặng!
- Ði!
Y dẫn tôi ra khỏi trại. Ban ngày, sân trại vắng ngắt. Xa xa tôi thấy mấy người tù mặc áo chàm xám ngồi trên hè. Ðó là những người tù ốm, không phải đi lao động.
Tôi được giao cho hai công an viên trẻ, mặt lầm lì.
- Ði!
Một trong hai tên hất hàm, lia mũi tiểu liên chỉ ra con đường trước mặt.
Thì đi.
Rời khỏi khu trại chừng một cây số thì hết con đường rộng. Hai tên áp giải chỉ cho tôi đi vào đường rừng.
Ðến đây thì đầu óc tôi căng thẳng. Chúng dẫn tôi đi đâu? Con đường trước mặt thấp thoáng, heo hút. Quanh đây tịnh không một bóng người. Người tôi căng ra như sợi dây đàn.
Làm ra vẻ uể oải bước, tai tôi vẫn bắt được từng tiếng sỏi đá lạo xạo dưới đế giầy vải của hai tên cầm tiểu liên đi sau. Không nhìn lại tôi vẫn cảm thấy hai nòng tiểu liên hướng vào lưng tôi.
Nếu chúng có ý định thủ tiêu tôi thì con đường rừng hoang vắng thích hợp lắm, tôi nghĩ. Hai tên áp giải có thể bất thần nhả đạn vào tôi, rồi hất xác tôi xuống vực. Kịch bản tuyệt vời: tên tù vùng chạy, người áp giải nổ súng.
Không có lẽ tôi sẽ chết ở đây, bên con đường heo hút này?
Không thể chết như thế được! Tôi không chịu được một cái chết thụ động. Dù sao tôi cũng đã là người lính. Người lính không thể chết mà không chống cự, dù trong tình thế hiểm nghèo nhất, tuyệt vọng nhất. Nếu sự xấu đó xảy ra, và viên đạn đầu tiên không trúng tim, tôi sẽ phải nhảy ngược lại, rất nhanh, giật lấy súng mà chiến đấu cho tới hết giây phút cuối cùng của đời mình.
Tôi nhớ tới những miếng võ đoạt súng mà anh Báu, một sĩ quan Nhật, dạy chúng tôi ở Trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng viên sĩ quan này đã không nộp súng cho quân Tưởng mà chạy sang hàng ngũ Việt Nam. Tôi không gặp lại anh sau khi hòa bình lập lại. Không biết giờ anh ở đâu. Có người nói do ngờ vực lòng trung thành của họ, tất cả sĩ quan và hạ sĩ quan Nhật bị tập trung lại trong một lớp rèn cán chỉnh quân, và khi họ xuống suối để rửa ráy sau bữa ăn thì những khẩu trung liên được bố trí sẵn trong rừng nhả đạn vào họ. Không rõ thực hư ra sao.
Có lẽ sự căng thẳng tột độ đã làm cho tôi đi nổi đoạn đường rừng mười cây số sau bảy ngày bị cùm trong phòng kín không ăn uống. Nhớ lại chuyến đi đó tôi gọi nó là "mười cây số đi bên Thần Chết". Tôi lo lắng vô ích - người ta căm ghét chúng tôi, nhưng chưa đến độ dám làm điều đó!
Khi con đường rừng kết thúc trước mặt tôi hiện lên một ngôi nhà hai tầng mà tầng dưới là cái cổng lớn, với hai bức tường dài hai bên. Tôi không nhận ra cái trại giam tôi bị đưa tới vào ban đêm.
Ðưa tôi vào bên trong cổng, hai tên áp giải bảo tôi ngồi đợi ở đó rồi bỏ đi. Tôi buồn rầu nhìn cái sân trại trắng lốp đất sét, với mấy ngọn cỏ lơ thơ. Xa xa là dãy nhà giam quét vôi trắng, rất đông tù đi đi lại lại. Chủ nhật, họ được nghỉ lao động. Trong mấy nhà giam này có một cái tôi đã ở qua cùng với Phùng Mỹ. Nắng xiên khoai chiếu vào chỗ tôi ngồi, một mình, bên dưới cái ban-công có quả bom chết, tiếng lanh lảnh của nó đã làm khổ tôi và Phùng Mỹ trong những buổi sáng trước đây.
Mải suy nghĩ tôi không thấy một sĩ quan công an đeo quân hàm trung úy đã đến trước mặt tôi:
- Anh là Vũ Thư Hiên, hả?
- Phải.
Tôi lạnh lùng đáp, hơi ngạc nhiên trước giọng nói của viên trung úy. Rất hiếm người Nam Bộ tập kết ra Bắc làm việc trong ngành công an. ớt nhất thì tôi cũng không gặp Nét mặt khắc khổ, người xương xương, anh ta lớn hơn tôi chừng vài tuổi.
- Anh theo tôi!
Tôi nặng nhọc chống tay vào đùi đứng lên, quơ cái túi xách, bước theo.
Viên sĩ quan đưa tôi vào một căn phòng trong tầng dưới ngôi nhà, ngay sát cổng trại. Vừa bước vào nhà, anh ta khóa chặt cửa lại.
Tôi nhìn anh ta, cảnh giác. Tại sao anh ta lại khóa cửa? Ðể làm gì? Ðể đánh tôi chăng? Không phải, để làm việc đó ít nhất phải có vài tên. Công an bao giờ cũng cẩn thận.
Khóa cửa rồi, anh ta quay nhìn tôi trân trân. Thế rồi, dường như không kìm nổi xúc động, anh ta lao tới, ôm chầm lấy tôi. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống vai tôi, thấm qua lần áo mỏng.
- Tôi biết hết những việc xảy ra. Không ngờ chúng nó đối với các anh tàn nhẫn đến thế! Tội nghiệp quá!
Tôi ngượng nghịu gỡ tay anh ta:
- Chuyện thường tình mà! Có gì tội nghiệp đâu.
Tôi không tin cả những giọng nước mắt. Một diễn viên thượng thặng chăng? Anh ta làm thế để làm gì?
- Anh ngồi xuống đây đi!
Anh ta dẫn tôi đến bên bàn, rót trà. Chúng tôi uống trong im lặng. Nhìn tôi đăm đăm một lát, anh ta thở dài, buồn rầu:
- Tôi hiểu, anh hổng tin tôi. Mà cũng phải. Tin sao được khi tôi đang vận bộ quần áo nầy!
Ngừng lại một lát, anh ta cúi xuống, nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống, bùi ngùi:
- Ông già tôi được bác Ung Văn Khiêm giác ngộ cách mạng, là đàn em của bác Khiêm, anh à. Ông già hy sinh lâu rồi. Tôi lớn lên, vô bộ đội, rồi chuyển qua ngành nầy...
- Bác Khiêm có được khỏe không? - tôi ngước mắt nhìn người ngồi trước mặt.
- Nghe nói bác Khiêm vẫn mạnh giỏi.
Anh ta có giọng nói ấm, từ trong ngực. Trực giác mách tôi rằng con người này có thể tin được.
- Tại sao lại nghe nói? Anh không gặp bác Khiêm?
- Không gặp được. - anh ta buồn bã lắc đầu - Bác bị khai trừ Ðảng, không còn chức vụ gì hết, lại bị theo dõi chặt... Tôi là công an, tôi không được phép gặp bác.
Ðến bấy giờ tôi mới biết ông Ung Văn Khiêm bị khai trừ Ðảng.
- Anh em chúng tôi ở cả đây?
- Chỉ một số thôi.
Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa. Hãy tạm tin rằng anh ta không nói dối. Nhưng cho dù những điều anh ta nói là thật thì mình cũng không vội tin được. Mà cũng không thể đòi hỏi ở anh ta những điều không thể nói. Về phía anh ta, anh ta cũng phải giữ gìn.
- Tôi tên là Dứa, làm cán bộ trực trại(12). - anh ta nói và thở dài - Anh tin tôi hay không tin tôi, điều đó không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm bảo vệ anh. Vì, anh biết đấy, những người cách mạng trước đây đối với nhau như thế nào... Tôi là con của ba tôi, là cháu của bác Khiêm, tôi tự hiểu trong trường hợp này tôi phải làm gì cho anh, cho các anh.
- Tôi tin anh.
- Tóm lại, tôi vẫn là người trong gia đình lớn của cách mạng. Khi có việc gì cần đến tôi, hoặc nghi ngờ có sự nguy hiểm xảy ra với anh, anh cứ chạy thẳng ra đây đòi gặp trực trại, đừng ngại. Tôi có trách nhiệm bảo vệ anh, tôi nhắc lại, đó là trách nhiệm của lương tâm. Trong cương vị tôi, tôi có thể làm được việc đó.
Tôi cảm động. Tôi đặt tay mình lên tay anh mà bóp nhẹ để bày tỏ sự cảm thông và lòng biết ơn. Nước mắt tôi ứa ra, không sao giữ được. Tôi mừng biết bao nhiêu - ở chốn tận cùng của cuộc đời tôi vẫn gặp được người anh em của mình. Cách mạng vẫn đẹp lắm. Những người cách mạng vẫn còn đấy.
Dứa đứng lên. Thời gian gặp tôi đã hết.
- Anh sẽ phải ở trong một toán tù chính trị. Hàng ngày phải đi lao động. Nặng nhọc đấy! - Dứa trầm ngâm, cái nhìn mệt mỏi - Ðây là sự hành hạ, người ta chủ trương như thế, cho anh biết thân. Ráng chịu đựng nghen. Khi nào mệt quá, anh báo ốm mà nghỉ lấy một buổi cho lại sức. Tôi sẽ nói trước với y sĩ trại chuyện này...
Tôi lắc đầu:
- Như thế sẽ lộ ra anh có sự đối đãi đặc biệt đối với tôi. Không nên. Tôi đã ở bộ đội, tôi quen lao động. Tôi sẽ chịu đựng được.
Dứa đặt tay lên vai tôi:
- Tôi biết phải làm thế nào. Anh nhớ lấy nghen: mọi sự tới nay chưa phải là đã kết thúc đâu. Vô trại anh sẽ thấy một tên tù săn đón anh - tên hắn là Trần Chấn Hoa. Tên nầy được Ban Giám thị chiêu mộ để theo dõi anh, báo cáo mọi hành động của anh trong trại. Người được Bộ giao trách nhiệm quản lý các anh tên là Thùy, trung úy Nguyễn Huy Thùy, một tên ra đời để làm đầy tớ cho bọn có quyền, anh phải rất cẩn thận với tên này...
Chúng tôi ôm lấy nhau.
Ngày hôm sau Dứa gặp
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Ctôi với bộ mặt vô cảm.
    (1) Tiếng lóng: dạt vòm (bỏ nhà đi lang thang), lính đú (tên theo đòi, a dua đi ăn cắp ăn trộm), mổ (móc túi).
    (2) Tiếng lóng: lính mổ (tên ăn cắp chuyên móc túi), lính đột (tên ăn trộm), lính cắc cùng kinh (tên ăn cắp chuyên lấy củ đèn (dinamo), yên xe đạp.
    (3) Cách những người tù gọi tắt một hạn 3 năm của lệnh tập trung cải tạo.
    (4) Tiếng lóng: nấu nướng.
    (5) Anh chị lưu manh, phân biệt với các đàn em trong trại.
    (6) Tiếng lóng: thuốc lá.
    (7) Tiếng lóng: đổi.
    (8) Tiếng lóng: điếu thuốc lá.
    (9) Nhà xuất bản sách chính trị, lý luận của Ðảng.
    (10) Ban giám thị.
    (11) Tự kiểm thảo, nhận lỗi.
    (12) Cán bộ trực trại trong một trại giam làm công việc quản lý số tù xuất nhập trại khi đi lao động hoặc được giữ trong trại ban đêm, cùng công tác an ninh trong khu vực trại giam. Có nơi gọi là đội trưởng. Từ toán trưởng thường được tù chính trị gọi người được Ban Giám thị chọn cho làm công việc cầm đầu một toán tù (hoặc đội tù). Toán là từ được tù chính trị ở Hà Giang chuyển về dùng quen miệng.