Ðáng lẽ, do khoảng thời gian rất dài cuối chiến tranh thế giới thứ hai và những thế hệ mới ở cuối thế kỷ này, chủ đề phát xít sẽ ít được chú ý, nhưng chúng ta quan sát thấy một xu thế hoàn toàn ngược lại. Chủ nghĩa phát xít như hệ tư tưởng, như chế độ chính trị và hiện thực xã hội, ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tài liệu về chủ đề này có thể chất cao như núi. Rõ ràng, nguyên nhân của hiện tượng đặc biệt này không thể giải thích bằng mối quan tâm đến lịch sử quá khứ. Tồn tại nhiều nguyên nhân chính trị và xã hội, bắt rễ trong những điều kiện phức tạp của thế kỷ 20 có thể giải thích được điều này: Một bộ phận đáng kể những người đương thời và cùng cộng tác với chế độ phát xít vẫn đang còn sống; chiến tranh đã thay đổi số phận của họ và để lại những dấu ấn không thể phai mờ. Ðối với những người này, nghiên cứu về chế độ phát xít được xem như là mô tả về cuộc đời, cuộc đấu tranh và những khổ đau của họ. Rất nhiều nơi trên hành tinh xuất hiện có tính chất định kỳ các chế độ cảnh sát quân sự, sử dụng thẳng thừng những biện pháp chính trị của chế độ phát xít (kiểu hủy diệt các đối thủ chính trị của Pinoche, chính sách diệt chủng ở Campuchia). Những chế độ này có xu hướng tiến tới hiện tượng quái dị được gọi là chế độ phát xít. Bối cảnh quốc tế phức tạp, mâu thuẫn thế giới càng ngày càng tăng và mối đe dọa đối đầu gữa các nước có vũ khí hạt nhân khiến chúng ta nhớ lại những bài học của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, mà châm ngòi là các nước phát xít; càng làm chúng ta quan tâm đến chủ đề phát xít. Sau cùng để xác định những di sản văn hóa và nhận định đúng chu kỳ chuyển động và phát triển phức tạp của xã hội văn minh, chúng ta cần quan tâm đến chủ đề phát xít, vì biết đâu nó chưa bị hủy diệt triệt để và cần phải nhổ tận gốc một lần chót mọi mầm mống của nó. Rõ ràng, còn có thể tồn tại nhiều nguyên nhân khác. Nhưng điều đó càng nhắc nhở chúng ta rằng, đã đến lúc phải xây dựng một Lý Thuyết Thống Nhất Về Chế Ðộ Phát Xít, có thể thâu tóm mọi nghiên cứu riêng biệt đã làm. Sự thật là, dù tài liệu về chủ đề này có thể chất cao như núi, nhưng một lý thuyết thống nhất vẫn chưa được xây dựng. 1- Tính thời sự của chủ đề Ba mươi sáu năm trôi qua, kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khoảng thời gian này đã xuất hiện thêm hai thế hệ mới trong cuộc sống loài người. Các thế hệ này không có ấn tượng cụ thể về chế độ phát xít, mà chỉ hiểu nó qua phim ảnh và sách báo. Vì lý do này, đối với đa phần thế hệ trẻ, chế độ phát xít được xem như kỳ dị, nhiều hơn là kinh hoàng. Những nỗi khổ đau, kinh hoàng, những cuộc giết người hàng loạt, đẫm máu, mà chế độ phát xít đã gây cho các thế hệ tiền bối, đối với họ không còn sống động và rõ ràng như đối với những người đương thời. Thời gian đã có tác động của nó. Ðấy là lẽ đương nhiên. Những gì xảy ra hôm nay, ngày mai đã trở thành lịch sử. Không thể bắt thế hệ trẻ sống với qúa khứ, với khổ đau và hy sinh của thế hệ trước đó. Họ có những nhiệm vụ mới, đeo đuổi mục đích mới. Nếu không, làm sao có thể phân biệt được họ với các thế hệ tiền bối. Nhưng cũng chính tại đây chứa đựng một mối nguy hiểm khôn lường. Bởi vì, cách sống này chỉ sinh ra ảo tưởng tốt đẹp, làm lu mờ những mối nguy hiểm to lớn nhất của thời đại, trong khi đó rõ ràng chủ nghĩa phát xít không chỉ là lịch sử. Chủ nghĩa phát xít tồn tại cả ở thời kỳ hiện đại như một mối đe dọa thực sự. Rất nhiều sự việc khiến chúng ta phải liên tưởng tới nó. Gần đây là cuộc đảo chính không thành công nhằm phục hồi chế độ phát xít ở Tây Ban Nha, do những phần tử cận vệ dân tộc tiến hành bằng cách tấn công vào quốc hội. Vụ mưu sát Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan cho thấy có liên quan đến đảng Quốc Xã Mỹ, tồn tại gần như tự do ở đất nước này. Rất nhiều đảng phái, nhóm quốc xã cận phát xít tồn tại công khai ở các nước Tây Âu. Hiện nay những đảng này đang còn yếu và chưa gây ảnh hưỏng lớn đến đời sống chính trị, nhưng không phải là không nguy hiểm. Một số trong những đảng này tổ chức huấn lyện và vũ trang quân sự cho đảng viên, số khác tổ chức những cuộc gặp gỡ và hội nghị quốc tế, những cuộc diễu hành trên đường phố và hát những bài hát phát xít, đập phá tượng đài chống phát xít, tấn công nhà thờ người Do Thái, gây tội ác với người da màu. Hiện tượng đặt bom nổ chậm ở những nơi công cộng trở thành phổ biến, làm thiệt hại tính mạng cả những người hoàn toàn vô tội. Ở các nước phương Tây xuất hiện thường xuyên khi thì mốt râu, khi thì mốt tóc cuả Hitler. Chúng tôi cho rằng vấn đề khả năng phục hồi chế độ phát xít cần phải đặt ra và giải quyết trên cơ sổ khoa học nghiêm túc, chứ không thể bằng hình thức hoặc tuyên truyền. Nhưng trước tiên cần phân biệt giữ vấn đề tuyệt diệt của chủ nghĩa phát xít trên quan điểm chính trị và lịch sử. Về mặt Lịch Sử, chủ nghĩa phát xít đã bị tuyệt diệt và không thể nói đến khả năng phục hồi. Ðiều đó có nghĩa rằng, như hệ tư tưởng và thực tiễn chính trị được tô vẽ như con đường mới mẻ của loài người, như một trật tự mới cho thế giới và mang ý nghĩa cao đẹp hơn về cuộc đời, chủ nghĩa phát xít đã bị phá sản hoàn toàn và không thể tái sinh! Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, đạc biệt là sau phiên tòa Nuernberg, các dân tộc được chứng kiến những tư liệu khổng lồ về tội ác của chế độ phát xít; do đó, nó không còn có thể thu hút bất kỳ dân tộc nào. Ðối với loài người, chủ nghĩa phát xít là một thứ tư tưởng phản động, suy đồi. Trong thời đại chúng ta, chủ nghĩa phát xít đồng nghĩa với đồi bại nhất về chính trị và tinh thần. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng, trên quan điểm lịch sử chế độ phát xít đã bị tuyệt diệt hoàn toàn! Nhưng từ đó không thể suy ra rằng, trên quan điểm chính trị nó cũng đã bị tuyệt diệt, rằng trong những điều kiện nhất định giới cầm quyền chóp bu của một nước nào đó sẽ từ chối không dám xử dụng những vũ khí chiến lược của chủ nghĩa phát xít. Không ai có thể đảm bảo được điều này. Hơn thế nữa, những người theo dõi tình hình chính trị đều không chỉ một lần quan sát thấy những âm mưu tương tự của các tập đoàn quân sự giành chính quyền thông qua đảo chánh. Chế độ chính trị của Pinoche là một dẫn chứng mới mẻ nhất. Về mặt Chính Trị, khả năng tuyệt diệt của chủ nghĩa phát xít có cơ sở sâu xa trong lĩnh vực kinh tế, trong quá trình tập trung, thâu tóm tư bản và sở hữu- những đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc. Ở đây không muốn nói về những hiện tượng lỗi thời, mà về xu hướng khách quan của giới tư bản lũng đoạn. Mức độ tập trung và thâu tóm phương tiện sản xuất vào tay bọn tư bản kếch xù và nhà nước càng lớn bao nhiêu, tiềm lực kinh tế của chúng càng hùng hậu bao nhiêu, thì khả năng hủy diệt những tư tưởng tự do và triệt tiêu quyền tự do chính trị, quyền tự do công dân càng dễ xảy bấy nhiêu, rồi từ đó dẫn đến độc tài phát xít. Cách đây 60 mươi năm, Lênin đã giành sự chú ý cho vấn đề này trong Chủ Nghĩa Ðế Quốc và nhiều công trình khác: việc thay thế cạnh tranh tự do bằng thống soái trong nền kinh tế tương ứng với việc thay thế nền dân chủ tư sản bằng chế độ chính trị phản động tại thượng tầng kiến trúc. Nói cách khác, độc đoán trong nền kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến độc đoán trong chính trị và mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Và như chúng ta đã biết, độc đoán trong chính trị chỉ có độc một hình thái duy nhất: chuyên chính độc tài. Tất nhiên khả năng về chuyên chính phát xít không phải bao giờ cũng được hình thành trong đời sống chính trị, nhưng nó tồn tại một cách khách quan và trong những bối cảnh mâu thuẫn xã hội gay gắt ở thời đại chúng ta thì điều đó không phải là không nguy hiểm. Xu hướng độc tài hóa trong thế giới hiện đại mạnh đến mức ngay cả những nền dân chủ tư sản truyền thống cũng không còn được bảo tồn như ở thế kỷ 19; trong đời sống chính trị của những nước này thường xuất hiện những hành động và sự kiện gần với chuyên chính hơn là dân chủ. Tính thời sự của chủ đề này còn được xác định từ một vấn đề khác: sự cần thiết phải diễn giải cấu trúc, những quy luật, cơ cấu và đòn bẩy ẩn giấu trong nhà nước phát xít. Thiếu cái đó, sẽ không thể giải thích được bằng cách nào mà chế độ phát xít, đặc biệt là phát xít Ðức, với hệ tư tưởng phản động và phản khoa học của nó, có thể lôi cuốn tất cả các dân tộc châu Âu, biến họ thành những công cụ cho những mục đích tội lỗi; không thể hiểu được hệ thống chính trị man rợ, mị dân, ngu dân, vô lương tâm, vô nhân đạo đã biến hàng nhiều triệu công dân tự do, hàng triệu những người lạc hậu, phục tùng mù quáng thành một đội quân hỗn tạp Tamerlanov hiện đại, đe dọa hủy diệt nền văn minh nhân loại. Chúng ta biết rất nhiều về những tội ác của chế độ phát xít (trại tập trung cải huấn, lò hơi độc, thiêu hủy sách báo tiến bộ, v.v...), nhưng biết quá ít về cơ cấu bộ máy nhà nước phát xít đã gây ra những tội ác này. Chúng ta cũng biết rất nhiều về "chế độ phát xít man rợ", nhưng hầu như không biết gì về chế độ phát xít bình thường, mà từ đó mới phát triển thành chế độ phát xít man rợ. Bởi vậy khi nghiên cứu những vấn đề này, không thể xem đã đầy đủ nếu chỉ kết luận rằng, chế độ phát xít là nền chuyên chính của các tầng lớp đế quốc phản động nhất (tất nhiên điều này hoàn toàn đúng), mà cần thiết phải phát triển rộng hơn nữa: tìm hiểu chi tiết nền chuyên chính phát xít như hệ thống chính trị và hình thái chính quyền.2- Những định nghĩa về chủ nghĩa phát xít Trong những giai đoạn khác nhau, rất nhiều định nghĩa về chủ nghĩa phát xít đã được đưa ra, dựa trên những cơ sở khác nhau. Vào năm 1921, sau sự kiện "Tiến Về Thành Rôma", bọn phát xít Italia cướp được chính quyền, rất nhiều nhà macxit đã xem đó như là một cuộc cách mạng tiểu tư sản. Ngay từ năm 1923, X.M. Bronxci đã xem đó như là một "cuộc cách mạng tiểu tư sản" và "cuộc đấu tranh đòi quyền tự chủ của các tầng lớp trung lưu". Theo L. Longo, trong nhận thức lúc bấy giờ của những người cộng sản và những người xã hội Italia, phong trào phát xít được xem như "kết quả cuộc bạo loạn của giai cấp tiểu tư sản, do nó bị chèn ép giữa giới đại tư sản và phong trào công nhân". Sau năm 1926, khi bọn phát xít Italia xây dựng hệ cơ cấu nhà nước đặc biệt, và ở chân trời đã xuất hiện thắng lợi của phong trào quốc xã Ðức phản động hơn nhiều, người ta cũng bắt đầu thêm vào định nghĩa về chủ nghiã phát xít tính chất phản cách mạng của nó. Vào năm 1942, Ẹ Telman định nghĩa chủ nghĩa phát xít như "cuộc phản cách mạng vũ trang, thể hiện như một phong trào quần chúng, được chuyển thành những tổ chức hitlerist". Nhà sử học người Italia, Dele Piane, gọi chủ nghĩa phát xít là "cuộc phản cách mạng triệt để"; còn L. Longo thì xem đó là "một trong những hình thái phản cách mạng triệt để". Vào những năm 1940, người cộng sản Pháp J. Politxer, định nghĩa chủ nghĩa phát xít như "cuộc cách mạng phản động nhất trong lịch sử" và "cuộc phản cách mạng của thế kỷ 20". Evgeni Cocx: "Cuộc cách mạng phản động". E. Franxel: "Cuộc cách mạng cánh hữu". Erikh Hex: "Chủ nghĩa phong kiến công nghiệp". Herman Rausing: "Cuộc cách mạng cuả chủ nghĩa hư vô", và "Cuộc cách mạng phủ định". Uinxtun Trurtrin: "Chủ nghĩa phát xít là cái bóng hay con đẻ của chủ nghĩa cộng sản". Giáo sư triết học và xã hội học Luidji Xturxo: "Thực chất nước Nga và nước Italia chỉ có một khác biệt nhỏ - cụ thể là chủ nghĩa Bonsevist hay chuyên chính cộng sản là chủ nghĩa phát xít tả, còn chủ nghĩa phát xít hay chuyên chính bảo thủ là chủ nghĩa bonsevist hữu. Nước Nga Bonsevist sinh ra huyền thoại Lenin, còn nước Italia phát xít sinh ra huyền thoại Muxolini". L. Mumford cho rằng cội rễ của chủ nghĩa phát xít phải tìm "trong tâm hồn con người chứ không phải trong cội rễ kinh tế". Vilhelm Raikh: "là sự thể hiện cấu trúc phi lý của con người đã bị bóp méo, trở nên đần độn". Cần phải nói rằng, trong tất cả những định nghĩa trên đây đều chứa đựng một phần sự thật của vấn đề. Chúng phản ánh những khía cạnh riêng biệt của một hiện tượng chính trị có thật, được gọi là chủ nghĩa phát xít. Bởi vì chủ nghĩa phát xít đồng thời vừa là "phong trào quần chúng", "cuộc cách mạng tiểu tư sản", "cuộc cách mạng cánh hữu", "cuộc cách mạng triệt để", v.v... Nhưng trong tất cả các định nghĩa trên không có một định nghĩa nào cho thấy được cội rễ sâu xa và bản chất đặc biệt của chủ nghĩa phát xít. Tại đại hội lần thứ 7 của quốc tế cộng sản, chủ nghĩa phát xít được định nghĩa như: "Nền chuyên chính khủng bố trắng trợn của những phần tử đế quốc phản động và sô-vanh nhất trong giới tư bản tài chính". Giới tư bản tài chính là cội rễ của chủ nghĩa phát xít và xác định cương linh của nó. Thiếu sự có mặt của giới tư bản tài chính, chủ nghĩa phát xít sẽ đánh mất bản chất, đặc điểm và nội dung chính trị của mình. Thiếu sự có mặt của giới tư bản tài chính, chủ nghĩa phát xít không thể trở thành một phong trào dân tộc sâu rộng và không thể cướp chính quyền. Không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa phát xít xuất hiện trong thời đại đế quốc, trong điều kiện của cuộc khủng khoảng xã hội sâu sắc, đe dọa sự tồn tại của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Trong lịch sử đã từng có các phong trào quần chúng của giai cấp tư sản và sinh ra chủ nghĩa Bonapac, nhưng không phải là chủ nghĩa phát xít. Cho đến nay, định nghĩa của Quốc tế Cộng sản, trong diễn văn của Georgi Ðimitrov tại Ðại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 7 năm 1935, vẫn là định nghĩa sâu sắc nhất về chủ nghĩa phát xít, thể hiện được bản chất xã hội và giai cấp của hiện tượng này. Tuy nhiên, thật sai lầm nếu như cho rằng định nghĩa của Quốc tế Cộng sản đã thâu tóm được mọi khía cạnh đặc biệt của chủ nghĩa phát xít. Trong định nghĩa này còn thiếu hẳn cơ cấu chính trị đặc biệt và hình thái chuyên chính đặc thù, mà nếu không có chúng thì không bao giờ có thể cắt nghĩa được sức mạnh quỷ quái cuả các nhà nước phát xít, những kẻ đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đẫm máu với mức độ khủng bố và tội ác đối với loài người đã đạt tới đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng rằng, chế độ phát xít trước hết là chính quyền, là nền chuyên chính của giới tư bản tài chính và đây là đặc thù xã hội giai cấp cụ thể nhất của nó, nhưng cũng rõ ràng rằng, trong tất cả những nước tư bản phát triển, chính quyền nhà nước là chính quyền của giới tư bản tài chính với những hạn chế nhất định về dân chủ, quyền tự do công dân, tự do chính trị... Ðiều này đúng cho tất cả các nước tư bản phát triển trong thế giới hiện đại. Nhưng chỉ trên cơ sở đó, không ai có thể khẳng định rằng, tại các nước này đang hiện hành chế độ phát xít, rằng hình thái nhà nước là chuyên chính phát xít. Ðiều đó chứng tỏ, định nghĩa chế độ phát xít như chính quyền, như chuyên chính của giới tư bản tài chính, dù thể hiện được nội dung cơ bản nhất của hiện tượng này, vẫn chưa thâu tóm được toàn bộ bản chất của nó. Cần phải thêm vào định nghĩa này cơ cấu chính trị đặc biệt và hình thái chuyên chính đặc thù, mà chính quyền của giới tư bản tài chính đã được cấu thành trong những điều kiện khủng khoảng xã hội tổng thể không bao giờ còn có thể xảy ra giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Ở đây không chỉ nội dung giai cấp, mà cả hình thái chuyên chính đặc thù cũng là khía cạnh đáng kể cuả vấn đề. Sự thống nhất hai đặc tính này phản ánh bản chất đặc biệt của chế độ phát xít. Việc thiếu mất khía cạnh "hình thức" này trong định nghĩa của Quốc tế Cộng Sản kể cũng là lạ, bởi vì tất cả những nhà tư tưởng của Quốc Tế Cộng Sản đều đã từng quan tâm nghiêm túc đến dấu hiệu này của chế độ phát xít. Như chúng ta sẽ thấy trong những mục tới, ngay từ phiên tòa Laixich, G. Ðimitrov đã giành sự chú ý đặc biệt đến cơ cấu chính trị đặc biệt và đặc thù độc tài của nhà nước quốc xã. P. Toliati trong "Những Bài Giảng Về Chủ Nghĩa Phát Xít" đã phân tích rất chi tiết về cơ cấu cuả chế độ phát xít Italia, đã nhìn thấy thực chất đặc thù độc tài đặc biệt cuả nó. Và dựa trên tính chất đặc biệt này của chuyên chính phát xít, các nhà Mác-xít như E. Telman, L. Longo, V. Pic, v.v... đã thử giải thích một vài hiện tượng trong đời sống chính trị của những nhà nước này, những hiện tượng có vẻ như là khác lạ, khó nhận biết, nếu đặt chúng ra khỏi cấu trúc của các hệ thống chính trị này. Như vậy chúng ta có thể nói, dấu hiệu độc tài là khía cạnh đặc biệt quan trọng của chuyên chính phát xít, phản ánh được bản chất chính trị của nhà nước này, và vì thế, nó cần được thể hiện trong định nghĩa về chế độ phát xít. Trong trường hợp đó, định nghĩa của Quốc Tế Cộng Sản cần đuọc bổ xung như chính quyền độc tài, nền chuyên chính độc tài của giới tư bản tài chính, của bộ phận tư bản tài chính phản động nhất. Vấn đề cụ thể ở đây là chuyên chính độc tài - không phải chuyên chính quân sự, hay chuyên chính uy tín, mà là chuyên chính độc tài. 3- Khái niệm về nhà nước độc tài Những người sáng lập nhà nước phát xít xử dụng thuật ngữ "nhà nước độc tài" trước tiên. Muxolini định nghĩa nhà nước độc tài là "nhà nước thâu tóm trong mình... toàn bộ sức mạnh, quyền lợi và hy vọng cuả một dân tộc". Pau Riterbus, một trong những nhà lý luận quốc xã, đã định nghĩa: "... Nhà nước độc tài là nhà nước, mà với sự giúp đỡ của nó, một đảng hoặc một hệ tư tưởng được nâng lên thành tổng thể, thành xu hướng đặc biệt trong xây dựng chính trị của đời sống dân tộc... Nhà nước độc tài là sự phá vỡ mang tính nguyên tắc khái niệm tương đối, trong đó bao hàm một vấn đề là bất cứ một đảng phái nào cũng chỉ chứa đựng một sự thật tương đối". Tại tòa án Niurnberg, Spee, Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh trong chính phủ Hitler, đã đánh giá nhà nước độc tài như nguyên nhân quan trọng nhất gây nên thảm họa cho nhân dân Ðức: "Nhưng mối nguy hiểm ghê gớm, chứa đựng trong nhà nước độc tài, chỉ trở nên rõ ràng ở tận giai đoạn cuối. Hãy cho phép tôi thể hiện điều này như sau: mãi tận giai đoạn cuối, trong sự tan rã của chế độ này, mới thấy được mối nguy hiểm ghê gớm đến mức nào ẩn dấu trong những chế độ như thế, thậm chí kể cả khi chúng ta đặt ra một phía những nguyên tắc tập trung. Sự kết hợp giữa Hitler và hệ thống chính trị này đã mang lại thảm họa kinh hoàng cho toàn thế giới". Tại tòa án Niurnberg, Soucrox gọi chính phủ Hitler là "chính phủ độc tài" vì "không chấp nhận bất kỳ xu hướng đối lập nào" và hủy diệt mọi quyền công dân và tự do chính trị. Eibl Plen lên án đảng "Falanga- Tây Ban Nha" như "đội quân hiếu chiến", "độc tài", xây dựng nhà nước độc tài đồng dạng với nó. Curt Rix mô tả "hình thái chuyên chính độc tài" như sau: "Ðối với nó, tự do in ấn và quốc hội bị hủy diệt". A. Mankhatan, khi trích dẫn báo cáo của Ðại sứ Italia tại Madrid, ngày 25.3.1939, cũng đã nói đến "liên hiệp phát xít châu Âu bao gồm những nước độc tài trên lục địa này". Thuật ngữ "nhà nước độc tài" cũng được những tác giả macxit sử dụng khi xác định chế độ phát xít, đặc biệt là vào những năm cuối cùng của nó. Tại tòa án Laixich, G.Ðimitrov đã dùng thuật ngữ này trong "Mười Câu Hỏi Cho Các Viên Cảnh Sát", đồng thời đã xây dựng cho nó một nội dung cụ thể. Chúng ta sẽ trích dẫn toàn văn câu hỏi thứ mười. "10- Có đúng là trong tình hình căng thẳng như thế, vụ cháy Raihxtaga được sử dụng như nguyên nhân để đàn áp phong trào công nhân, như công cụ nhằm vượt qua những khó khăn trong "liên minh dân tộc", nhằm thiết lập "chính quyền độc nhất" quốc xã và nhằm xây dựng cái gọi là "nhà nước độc tài", nghĩa là dùng bạo lực hủy diệt mọi đảng phát và tổ chức khác, nhằm "đồng hóa" mọi công sở nhà nước, kinh tế, quân sự, văn hóa, tôn giáo, thể thao, thanh niên, ấn loát, tuyên truyền, và những công sở khác, v.v... Nói gọn hơn, theo G. Dimitrov, nhà nước độc tài là nhà nước có tham vọng: thứ nhất, "dùng bạo lực hủy diệt tất cả các đảng phái và tổ chức khác"; và thứ hai, nhằm đồng hóa mọi công sở nhà nước, kinh tế, văn hóa, quân sự, thể thao, thanh niên, tôn giáo, ấn loát, tuyên truyền, và những công sở khác, v.v...", nghĩa là nhằm đồng hóa toàn bộ đời sống xã hội. P.Toliati, trong "Những Bài Giảng Về Chủ Nghĩa Phát Xít" đã xem phát xít Italia như "chế độ độc tài", "nhà nước độc tài". Với những khái niệm này, Toliati đã nêu bật được bản chất của chế độ phát xít và xây dựng những nội dung sau: Thiết lập "chính quyền độc nhất" hay cơ cấu một đảng quyền của chế độ phát xít bằng cách dùng bạo lực hủy diệt tất cả những đảng phái và tổ chức quần chúng khác, không kể là cánh tả hay cánh hữu; Ðảng phát xít khống chế nhà nước, biến nhà nước thành công cụ của nó; Thiết lập hệ thống các tổ chức quần chúng quốc gia, và thông qua chúng đảng phát xít kiểm soát toàn bộ xã hội công chúng (tổ chức công đoàn, thanh niên, tổ chức Dopolavoro), v.v..; Thành lập hệ thống hợp tác xã như cơ sở kinh tế của nhà nước phát xít và "chế độ phát xít" (Muxolini) tương lai. Trong tác phẩm Sau Franco "Ði Hướng Nào", Cantiago Carino đã xác định chế độ phát xít Tây Ban Nha như "chính quyền độc tài" và "chuyên chính độc tài". Trong tác phẩm Tây Ban Nha Thế Kỷ 20 của Hoxe Garxia, chúng ta có thể bắt gặp những nhận định về chế độ phát xít như "chuyên chính độc tài phát xít tập trung", nhà nước với "đặc thù độc tài", "chế độ độc tài phát xít", hay "nhà nước độc tài phát xít", v.v... Như vậy khái niệm "nhà nước độc tài" mang ý nghĩa như là nhà nước phát xít lý tưởng và thuần nhất cho một nhóm cụ thể những hiện tượng, để sau đó có thể dùng mô hình này làm cơ sở, đi sâu vào bản chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng biệt. Xây dựng mô hình nhà nước phát xít "lý tưởng" có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt, nó cho phép chúng ta trong những trường hợp cụ thể, xác định một nước nào đó có thể xem là nhà nước phát xít hay không. Và thí dụ, nếu không có mô hình tổng quát về nhà nước phát xít điển hình, thì không thể phát hiện được "tính chất đặc biệt" của chế độ phát xít Bungaria. Trước khi xác định tính chất dân tộc đặc biệt của một chế độ phát xít cụ thể (Bungaria, Rumania, Hunggaria hay Anh), cần phải nhận biết được thế nào là chế độ phát xít và những dấu hiệu cơ bản của nhà nước này. Trên cơ sở những phân tích đã nêu, con đường nhiều hứa hẹn nhất để xây dựng được mô hình nhà nước phát xít lý tưởng là nghiên cứu cấu trúc của các nhà nước phát xít điển hình, nhằm phát hiện những nét chung tiêu biểu nhất, mà thiếu chúng một nhà nước cụ thể không thể là phát xít. Bằng phương pháp so sánh, chúng ta thu được những đặc thù cơ bản sau đây cho một nhà nước độc tài Thiết lập cơ chế một đảng quyền bằng cách dùng bạo lực hủy diệt mọi đảng phái khác; Sát nhập đảng phát xít và nhà nước; Ðồng hóa toàn bộ đời sống xã hội; Tư duy uy tín với tôn thờ lãnh tụ dân tộc; Trại tập trung cải huấn. Tất nhiên, các nghiên cứu mà tác giả làm ở đây chưa thể giải quyết được ngọn nguồn mọi vấn đề đặt ra. Mục đích những nghiên cứu này khiêm tốn hơn nhiều: nhằm chỉ ra một hướng khác trong quá trình nghiên cứu chế độ phát xít và góp phần tiến tới xây dựng "Lý thuyết thống nhất về chế độ phát xít".