ai người vừa đi vừa ngắm hoa thưởng cảnh, rồi cũng đến bên ngoài thành Hải trữ, Cốc Chẩn nói: “Trong thành tỏa ra nhiều chướng khí quá, không nên vào. Đệ biết một chỗ hay lắm.” Lúc này hai người đang ở bờ sông Tiền Đường, bèn đi ngay vào trong bến thuyền, tìm đến một toà tửu lâu. Tửu lâu có tên “Quan hải”, mái hiên hoành vĩ, cao lớn, trước cửa treo một đôi câu đối được viết rất khéo: “Lâu quan thương hải nhật, Môn thính chiết giang triều” - “Lầu nằm ngắm thương hải, Cửa nghe sóng chiết giang”. Câu đối này, ứng với toà tửu lâu, không hề sai trật. Cốc Chẩn chỉ đôi câu đối đó cười nói: “Thấy hai câu này, dường như là thơ của Lạc Tân Vương thời Đường [1], lão ấy cũng giống hệt bọn ta, phải làm hoà thượng trọc đầu ngang nhiên đào thoát khỏi đại ngục.” Lục Tiệm cười đáp: “Ngươi là hoà thượng, chứ không phải ta. Nhưng mà ý hai câu này rất có khí phách. Lạc nhân vương đó, chắc chẳng phải kẻ kém cỏi đâu.” Cốc Chẩn vỗ tay cười: “Đúng đúng, Lạc nhân vương đó, đúng là không phải kém cỏi.” Lục Tiệm biết hắn đang trêu mình, mỉm cười, cũng không thèm để tâm đến. Hai người đi lên đến tầng ba, chọn chỗ đối diện với biển ngồi xuống. Cốc Chẩn giơ tay chỉ núi sông xung quanh nói: “Thành hải trứ này phía nam giáp biển, phía tây nam giáp núi, có sông Tiền đường chẩy xuyên qua, phía đông lại giáp biển rộng, vì vậy còn có tên là cửa biển.” Lục Tiệm không tin hỏi: “Sao đệ lại biết những điều đó?” Cốc Chẩn đáp: “Đệ từng làm ăn buôn bán ở khu vực này. Làm người kinh doanh mà không tường địa lý, không biết phong tục nhân tình, tất nhiên sẽ gặp thất bại hao tiền tốn của.” Lục Tiệm lại càng ngạc nhiên hỏi: “Đệ bị giam trong ngục mất 2 năm, cứ như vậy thì ngày đó không quá 14, 15 tuổi, tuổi nhỏ vậy thì làm ăn buôn bán gì?” Cốc Chẩn cười chúm chím: “Có chí đâu cần ở tuổi cao, hà huống đạo làm ăn buôn bán rất thú vị, so với việc học văn tập võ thì hơn rất nhiều.” Lúc này ở bàn bên cạnh có một vài văn sĩ ăn vận theo lối học trò, đang uống rượu làm thơ, nghe thấy mấy lời đó, vô cùng khó chịu. Rồi có một người quát hỏi: “Ngươi là người tuổi nhỏ óc tối, không phải tăng cũng chẳng phải tục, sao lại nói những lời trái với kinh sách thế hả? Nhớ ngày xưa, trong đám đệ tử của Khổng thánh nhân, Nhan hồi theo nghiệp văn, Tử cống theo nghiệp kinh thương, sao không thấy ai bảo Tử cống bỉ Nhan hồi chút nào. Tử cống còn nói mình không bằng Nhan hồi, Nhan hồi vốn nghe một hiểu muời, mình nghe một chỉ hiểu hai. Tiểu tử nhà ngươi, bản thân tự không thể theo nghiệp văn thì thôi, lại còn dám ăn nói lung tung, vũ nhục thánh hiền.” Cốc Chẩn cười lên ha hả. Văn sĩ kia bực quá hỏi: “Ngươi cười gì hả?” Cốc Chẩn bỗng nhiên nhẹ giọng ngâm: “Sư dữ thương thục hiền Tứ dữ hồi thục phú Đa thiểu cùng ô sa Giai bị tử viết ngộ.” Bọn văn sĩ nghe xong mặt đần ra, bốn câu thơ đó đã nói rất rõ ràng: Làm thầy hay làm ăn buôn bán cái nào hơn, trước tiên hãy nhìn xem Tử cống và Nhan hồi ai giầu hơn, Tử cống giầu ngang vương hầu, Nhan hồi thì chết trong nghèo đói. Từ xưa tới nay người đọc sách rất nhiều, tất cả đều bị lời bình của Khổng tử với hai người đó lừa dối, kết cục rơi vào cảnh cùng khốn cả. Đám văn sĩ vừa rồi mới chỉ không vui, giờ thì thảy đều bực tức, rối rít đáp: “Hữu nhục thánh hiền, hữu nhục thánh hiền.” Cốc Chẩn cười đáp: “Các người nói ta hữu nhục thánh hiền. Vậy nói thử cho ta cả cuộc đời Nhan hồi làm được gì? Ngoài việc đọc sách, rồi thì luận đạo, với gia đình thì là người vô dụng, với quốc gia thì là người vô ích, kiếm được cái danh ‘á thánh’ vô tích sự, khi chết đến cái quan tài cũng không có. Còn Tử cống đi sứ bốn nước, trước giúp giữ được Lỗ, sau làm loạn Tề, phá Ngô, giúp Tấn lên ngôi bá. Dụng trí trong vòng 10 năm, thay đổi hoàn toàn đại thế năm nước. Ông ấy là người làm ăn buôn bán loại gì hả? Lúc Khổng tử chết, ai khác không phải là ông ấy đứng ra lo liệu việc hậu sự hả? Lão hoàng đế tất nhiên là muốn bọn ngươi đều theo Nhan hồi, cam chịu sống cuộc đời nghèo khổ hiền lành, chỉ để một mình lão tiêu diêu khoái hoạt; Chứ nếu ai ai cũng học theo Tử cống, hehe, giang sơn đang yên ấm của lão nhân gia ấy có còn dễ ngồi nữa hay không.” Hắn đưa tay chỉ lũ văn sĩ, cười nói: “Bọn ngươi vốn là người đọc sách, chẳng vẫn thường hay nói ‘Ẩn trong sách có cả phòng đầy vàng, trong sách sáng như ngọc’ đúng không hả? Đúng là chỉ nhân nghĩa đạo đức miệng, rốt cục cũng không ngăn được việc cuối cùng đều muốn có tiền bạc, có nữ nhân. Trong bọn ngươi đây có ai dám học cái sự nghèo giống như Nhan hồi, chết không có quan tài mà chôn thì ta mới thực sự phục. Tiền bạc kiếm được của người làm ăn buôn bán tuy rằng không thật sự sạch sẽ, nhưng so với tiền những tên xú quan tham nhũng ép luật mà có, thì còn sạch sẽ gấp vạn lần.” Đám văn sĩ bị ép đến líu lưỡi không nói được gì, chỉ biết nói lại mỗi câu: “Hoang đường, hoang đường.” Cốc Chẩn không thèm để ý, cười gọi: “Tiểu nhị lại đây.” Tên tiểu nhị vốn trải đời, nhãn thần rất tinh, nhìn thấy khí phái của Cốc Chẩn biết rõ không phải người thường, ở bên cạnh thích thú nghe hắn biện bác với bọn văn sĩ, cứ phải cố nén cười, giờ nghe thấy hắn gọi, vội đáp: “Tiểu gia có việc gì cần sai bảo sao?” Cốc Chẩn đáp: “Có nghiên bút ở đây không?” Tên tiểu nhị đó đáp: “Có, có.” rồi mang lại ngay. Đám văn sĩ trước bị Cốc Chẩn áp đảo, vẫn căm phẫn trong lòng. Thấy vậy một người bèn cười lạnh: “Kẻ này mà cũng dám viết thơ hả? nếu có viết ra thơ, thì chắc cũng là loại thối không thể ngửi được.” Cốc Chẩn cười đáp: “Cha ngươi thơ vẫn chưa viết, mà đã nghe thấy hai tiếng bủm rồi, mặc dù thối không chịu được, nhưng ông ngoại ngươi đây khí độ rộng rãi, nên vẫn không thèm chấp.” rồi cũng không thèm để tâm đến lũ văn nhân đang giương mắt tức giận kia, chấm đậm mực đen, phóng tay viết: “Đi đường khốn đốn, Hết sạch tiền bạc”, xong đề tên lên trên, đưa cho tiểu nhị, cười dặn: “Ngươi mang cái này vào thành Hải trứ tìm đến phủ của Ngô Lãng Nguyệt trạng nguyên, giao cho lính canhcửa, rồi bảo hắn đưa cho ngươi mười lượng gọi là tiền phí đi lại.” Tiểu nhị nghe xong mặt đần ra, lắp bắp hỏi: “Ngài, ngài nói Ngô Lãng Nguyệt có phải là Ngô đại quan nhân không?” Cốc Chẩn cười đáp: “Hoá ra hắn đã được gọi là đại quan nhân rồi à, đúng vậy, chính là kẻ đó.” Tiểu nhị sợ run, lại hỏi: “Thế mà, thế mà lại còn bảo ông ấy đưa cho tôi mười lượng?” Cốc Chẩn vẫn cười: “Ngươi chê là ít hả, thế thì vậy đi, một trăm lượng vậy, cũng không có vấn đề gì.” Tiểu nhị đó nghe xong đầu mê mắt quáng, thoát hơi nói: “Chỉ cần hai mươi lượng trong tay thôi, cũng đủ, đủ cho tôi mở được tiểu điếm của riêng mình rồi.” Đám văn sĩ nghe vậy, một người cười lạnh bảo: “Cái tên tiểu nhị không biết giữ bổn phận kia, nghe theo lời tên giang hồ lừa đảo này, rồi thì sau này bị chửi, cũng đừng có hối hận.” Tiểu nhị nghe vậy bất giác do dự. Cốc Chẩn cười bảo: “Đưa có một bức thư thôi, dù có tội gì cũng không đến mức phải ra pháp trường. Tiểu nhị, ngươi chẳng dám đánh bạc một phen sao, nếu mà thắng thì có phải có vài chục lượng trong tay, nhược bằng thua, cũng chỉ bị vài cái trợn mắt của lính gác nhà họ Ngô kia là cùng, có thể có chuyện gì nguy hiểm hả?” Tiểu nhị đó cười đáp: “Tiểu gia nói chí phải.” hai tay bèn đưa ra cầm tờ giấy, khẽ thổi cho mực khô đi, rồi cất chân chạy vội, nhoáy cái đã biến mất. Cốc Chẩn liếc đám văn sĩ một cái, cười nói: “Bọn ngươi vừa rồi mà giúp ta chuyển thư đi, trong sĩ nông công thương, thì sĩ tử đứng đầu, các ngươi là người đã từng đọc sách, do vậy công lao chạy đưa thư tự nhiên phải cao hơn nhiều.” Bọn người kia đại nộ, một người quát lên: “Ngươi phong thái phóng túng, trước tiên nhục mạ thánh hiền, rồi sau đó lại khinh rẻ bọn ta. Ta sẽ báo cáo quan phủ, tố ngươi tội báng bổ đạo văn.” Cốc Chẩn làm như chưa nghe rõ, tiếp lời hỏi: “Ngươi có dám nói lại không? Ta phạm phải tội gì?” Người kia huyết khí lại càng lớn lên, lớn tiếng thét: “Có gì mà không dám nói lại, tố ngươi tội báng bổ đạo văn” Cốc Chẩn cười đáp: “Nói hay lắm, tất cả mọi người đều nghe thấy cả rồi.” Người kia cười nhạt: “Nghe thấy cả rồi thì sao?” “Ngươi nói cái tội danh này rất là kì quái.” Cốc Chẩn cười cười rồi nghiêm mặt nói: “’Đại minh luật’có 30 quyển, 460 điều, ta đều có thể nói là thuộc cả, duy nhất là chưa bao giờ nghe thấy cái tội ‘báng bổ đạo văn’. Trong ‘Đại minh luật’, quyển thứ 11 ‘hình luật’ có 8 tội nói về báng bổ, chỉ có con không được chửi cha mẹ, vợ không được chửi chồng, quan không được cãi vua, không hề có luật dân không được cãi lại thánh hiền, hay cãi lại sách vở. ‘Đại minh luật’ này vốn là do thái tổ hoàng đế định ra, phải chăng các vị có ý nói thái tổ hoàng đế không cao minh, nên các vị phải đưa thêm một tội gọi là ‘báng bổ đạo văn’ vào.” Văn sĩ kia vừa nghe đến đây, sắc mặt tím như chàm đổ. Cái tội tự ý sửa đổi ‘Đại minh luật” kia nặng như núi thái sơn, không có người nào lại dám đeo vào người. Bọn họ vốn dĩ nghĩ rằng kẻ thanh niên đầu trọc kia là người dân bình thường, chỉ cần mang quan phủ ra doạ, tuỳ ý gán ghép một tội danh, là có thể làm hắn nể sợ chịu phục. Chẳng ngờ hôm nay số mệnh trùng sao thái bạch, gặp phải một nhân vật hiểu luật hạng nhất, chẳng những miệng lưỡi lợi hại, mà còn thành thục luật pháp, lật ngược gán lại cho bọn họ cái tội đáng bị diệt tộc, tịch thu gia sản như vậy. Cốc Chẩn thấy bọn họ thần sắc hoảng sợ, hai mắt láo liên miệng dài ra, trong lòng cười thầm, cất giọng thét lớn: “Tất cả mọi người trên lầu đều nghe rõ rồi đấy, những kẻ này dám tự tiện sửa lại ‘Đại minh luật’, tội không thể tha. Chưởng quỹ đâu, ngươi có biết hết đám người này không? Viết tên tuổi của bọn họ lại cho ta, nhược bằng có gì dối trá, ta sẽ tố lên quan phủ, báo ngươi tội bao che đồng loã.” Lúc nãy chưởng quỹ của “Quan hải lâu” thấy chuyện ầm ĩ, đã đến từ lâu, nghe vậy trong lòng thầm kêu khổ, không biết phải làm gì. Đám văn sĩ kia thì toàn thân phát run, trong đám có một người thể trạng vốn yếu đuối, sợ hãi quá ngã ngất luôn ra đấy. Cốc Chẩn đang định nói tiếp. Lục Tiệm thấy vậy bất nhẫn bèn bảo: “Cốc Chẩn, bỏ qua đi, sao lại dùng mấy lời nói bông đùa đó mà hại người làm gì.” Cốc Chẩn trừng mắt nhìn hắn một cái, hậm hực nói: “Huynh chỉ được cái mềm lòng.” rồi chuyển hướng sang đám văn sĩ quát: “Coi như bọn ngươi còn vận khí, ta vì nể mặt vị Lục gia đây, mà tha tội cho bọn ngươi một lần, sao không mau lại tạ ơn Lục gia đi.” Đám văn sĩ kia chuyển buồn làm vui, cũng không còn nghĩ gì đến việc giữ thể diện, rối rít quay người, hướng về phía Lục Tiệm cúi mình vái lậy, miệng hô Lục gia. Lục Tiệm đỏ mặt, vội vã đứng lên đáp lễ. Cốc Chẩn cười khàch khạch, vẫy vẫy tay, quát lớn: “Tất cả cút đi cho ta.” Bọn họ không đợi nói lần thứ hai, vội vàng trả tiền rồi chạy vội đi. Cốc Chẩn cười: “Cái bọn hôi hám này vừa đi khỏi, trên lầu bớt hẳn đi 3 phần hôi thối, thêm được 7 phần thanh tịnh.” Lục Tiệm thở dài nói: “Không lạ khi người trong Đông đảo ai cũng sợ đệ, đệ lúc nào cũng tranh thắng với người ta, ai mà không sợ?” Cốc Chẩn nghiêm sắc mặt đáp: “Đệ với tất cả mọi người luôn tranh đấu thắng thua, duy có mỗi huynh là đệ sẽ không tranh mà thôi.” Lục Tiệm lắc đầu cười khổ. Cốc Chẩn nhẹ giọng nói: “Huynh không tin cũng không sao, đệ đã nói là sẽ giữ lời.” Ngồi được một lúc, bỗng nghe thấy tiếng chân chạy bịch, bịch, bịch lên lầu, hoá ra là gã tiểu nhị đưa thư lúc nãy quay lại. Chỉ thấy gã sắc mặt đỏ rực, hai mắt lấp lánh, trong tay cầm một bọc bằng vải, vừa thở hổn hển vừa chạy đến trước mặt bọn họ nói: “Tiểu gia, tiểu gia quả là có mắt nhìn thấu trời xanh.” Cốc Chẩn cười đáp: “Lấy được bao nhiêu tiền thế?” Tiểu nhị đó mở bọc vải, chỉ thấy hàng hàng lũ lũ từng khối bạc hiện ra, thất thanh đáp: “Hai trăm lượng. Tiểu nhân, tiểu nhân nguyên bổn chỉ nói có 20 lượng, ai ngờ lão gác cửa mang tờ giấy vào xong, lúc ra bèn bảo: ‘Chủ nhân nói rằng, ngươi giúp Cốc gia việc này, nếu chỉ đưa ngươi có 20 lượng thì quá ít, ít nhất cũng phải phải đưa cho ngươi hai trăm lượng, thế mới phải phép’. Nói rồi lại bảo, đồ vật Cốc gia cần dùng, Ngô đại quan nhân đang chuẩn bị, rồi tự mình sẽ mang đến sau.” gã đang hưng phấn quá, nói xong mấy câu này, thì người mệt như mềm nhũn xuống. Cốc Chẩn cười đáp: “Ngươi gói lại bọc tiền đi, để ý tiền bạc hay toả sáng lắm đó, lọt vào mắt người khác bây giờ.” Tiểu nhị quay người nhìn, quả nhiên thấy mọi người trên lầu ai cũng trừng trừng nhìn mình, mắt ai cũng như sắp lồi cả ra ngoài. Hắn thấy vậy sợ quá, vội gói gém lại bọc tiền, nhưng cũng không bỏ đi ngay. Cốc Chẩn cười: “Sao? Vẫn chê ít hả?” Tiểu nhị đó bỗng nhiên đặt bọc tiền xuống, khuỵu chân quỳ lạy, lớn tiếng đáp: “Tiểu nhân không cần số tiền này, tiểu nhân tình nguyện đi theo Cốc gia, dù vào lửa hay xuống nước, cũng không từ nan.” Thấy gã trạc tầm 30 tuổi, lại quỳ xuống xưng lạy với Cốc Chẩn trẻ tuổi như vậy, trên lầu mọi người đều lộ ra vẻ khinh thường. Cốc Chẩn cười đáp lời: “Tên tiểu nhị này, tính toán giỏi quá nhỉ. Hôm nay nếu rời bỏ ta mà đi, bất quá chỉ thu được có 200 lượng mà thôi. Nhưng nếu có thể đi theo ta chăm chỉ làm ăn, sang Nhật buôn bán, sau này há chỉ có bấy nhiêu thôi.” Tiểu nhị đó bị hắn chỉ ra tâm cơ, ngượng ngập đáp: “Cốc gia thần toán, tiểu nhân quả có tâm tư như vậy, không dám giấu ngài.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Đạo làm ăn, thứ nhất là mắt phải biết nhìn người. Ngươi không sợ mọi người chê cười, nghe theo lời ta mà làm, chứng tỏ là biết nhìn người. Thứ hai là phải trung thực. Ngươi nói ra mấy câu vừa rồi, chứng tỏ ngươi không có gì dấu giếm. Thứ ba là phải biết bỏ nhỏ cầu lớn. Ngươi không bị hai trăm lượng kia làm cho hoa mắt, chứng tỏ có mắt nhìn xa. Chỉ ba điểm đó mà để ngươi phải làm tiểu nhị là không được rồi. Được, mang văn phòng tứ bảo lại đây.” Tiểu nhị đó vui mừng vội mang bút mực tới. Cốc Chẩn hỏi: “Tên ngươi gọi là gì?” Tiểu nhị đó đáp: “Tiểu nhân họ Trần, tên Song Đắc.” Cốc Chẩn nói vào: “Cái tên Song Đắc rất hay.” Hắn viết nhanh như chạy, xoèn xoẹt cả một tờ giấy, rồi bảo: “Ta đang có việc bên người, trước tiên tiến cử ngươi đến chỗ Ngô Lãng Nguyệt, vẫn bắt đầu từ chân Tiểu nhị, ngươi có làm không.” Trần Song Đắc cười đáp: “Kể cả Cốc gia bảo tiểu nhân phải làm ăn mày, tiểu nhân cũng làm.” Cốc Chẩn mỉm cười, đặt thư tiến cử lên trên tay gã. Trần Song Đắc như nhận được của chí bảo, hai tay không kìm được khẽ run lên. Cốc Chẩn bảo: “Cái tiền 200 lượng này, ngươi mang cùng với thư tiến cử, nhất nhất giao lại cho Ngô Lãng Nguyệt.” Trần Song Đắc cũng là người thông minh, trong lòng hiểu ngay hoàn lại tiền để lấy lòng tin, bèn gật đầu liên tục. Cốc Chẩn nheo mắt nhìn lên trời, cười bảo: “Bây giờ vẫn sớm, Lục Tiệm, bọn ta chơi trò ‘song lục’[2] đi.” Lục Tiệm lắc đầu bảo: “Ta không biết chơi.” Cốc Chẩn cười: “Cái này không giống như cờ tướng gì đâu mà sợ phải vận lực suy nghĩ, cái này toàn phụ thuộc vào vận khí thôi, đặt xuống là xong.” Trần Song Đắc không cần hắn phải gọi, đã mang bộ cờ lại. Cốc Chẩn bảo cách chơi: “Quân đen này là của đệ, quân trắng là của huynh. Tổng cộng có 15 quân. Bọn ta trước tiên đổ xúc xắc, nếu đổ được một, thì đi một nước, đổ được hai thì đi hai nước. Ai mà có tất cả 15 con cờ của mình vượt sang được bên kia của đối phương, thì tính là thắng.” Lục Tiệm nhìn qua, quả nhiên dễ chơi. Hai người bèn mải miết chơi, quên cả thời gian. Mãi đến khi khách khứa ở trên lâu đi cả, đèn đóm được bật lên, thì bỗng nghe bên dưới lâu tiếng ngựa hí vang như sấm, tựa như có rất nhiều binh mã đi đến. Lục Tiệm trong lòng kì quái, nhíu mày lại. Cốc Chẩn thì vẫn chăm chú vào bàn cờ, đến mí mắt cũng không hề động đậy. Rồi lại nghe thấy tiếng chân chạy, cờ phướn tập hợp. Ngay sau đó, cửa lâu đèn đuốc sáng rực, rồi 12 cô gái muôn phần xinh đẹp tiến vào, y phục rực rỡ, ánh mắt lấp lánh như nước hồ thu, trang sức hoa lệ, bước đi uyển chuyển như múa, đôi tay trắng nõn nâng hộp thức ăn sơn mầu đỏ bóng loáng. Giây phút sau một bàn tiệc yến tuyệt phẩm đã hiện ra, chỉ thấy nào là vi cá mập loại thượng hạng, óc khỉ loại cực phẩm,cá tầm quý hiếm, tôm hùm cực to, cá tươi thịt mới, nghêu sò tươi rói, lại có một đôi đũa vàng, long đỉnh đốt xạ hương, vô số hoa quả ngon lành, hương toả khắp lầu, mâm ngọc tròn chặn như trăng rằm, đế mâm điêu khắc tỉ mỉ. Bầy yến xong xuôi, một nữ tử tuyệt sắc chầm chậm tiến lên, vén tay áo nghiêng người chào, miệng hoa thánh thót ngân: “Đại quan nhân đang ở bên dưới lâu, không có lời của Cốc gia nên không dám tự tiện đi lên. Ngài nhờ nô tì báo với Cốc gia, xa mã đã chuẩn bị xong, ngựa kéo 4 con, đều là danh câu, xe ngựa một cỗ, dùng gỗ trầm hương phương nam tạo thành. Trong xe có ngàn lượng hoàng kim, minh châu mười hộc, mười bộ quần áo để thay, đều bằng gấm lụa dệt ở tận Tô châu, do Lưu Hương Sơn đại sư của ‘thiên y phường’ đích thân may, mười tám bình rượu ngon trăm năm, sáu chén uống rượu hoa điêu Thiệu Hưng. Còn như bọn tiểu tì, xin Cốc gia tuỳ ý lựa lấy 6 người để tiện bề hầu hạ.” Lục Tiệm nghe mà lạnh người, bỗng thấy Cốc Chẩn cười bảo: “Lục Tiệm, huynh thua rồi.” Lục Tiệm định thần nhìn xuống, quả nhiên quân cờ của Cốc Chẩn đều đã vượt sang bên mình. Cốc Chẩn hoan hỉ bảo: “Hay quá, chơi tiếp nào.” Hắn miệng nói tay làm, mắt không hề ngó qua nữ tử kia. Nữ tử đó vẫn thuỷ chung nhún chào miệng tươi như hoa, không hề có vẻ gì bất kính. Lục Tiệm trong lòng ngạc nhiên, nhưng vẫn nhẫn nhịn chơi một ván cờ nữa. Ván cờ này kéo dài tầm ba cây nhang, cuối cùng Lục Tiệm là người thắng. Cốc Chẩn đẩy bàn cười lớn, quay đầu nhìn nữ tử kia, ôn hoà nói: “Mĩ nhân ơi, nàng nhún chào mãi thế không mỏi hay sao?” Nữ tử đó cười đáp: “Được xem Cốc gia đánh cờ, dù có phải đứng cả một ngày, tiểu tì cũng không thấy mỏi.” Cốc Chẩn cười cười, gật đầu nói: “Nói với Ngô Lãng Nguyệt, ngựa xe để lại, quần áo mĩ tửu cũng để lại, hoàng kim minh châu bỏ đi, đưa cho ta 30 lượng, những thứ linh tinh cũng như đồ ăn và nàng hầu, tất cả đều không cần. Trần Song Đắc đâu!” Trần Song Đắc đã sớm mắt mở to miệng há hốc, nghe tiếng gọi vội vàng thưa. Cốc Chẩn dặn: “Ngươi bảo đầu bếp làm cho bọn ta hai cái bánh rán, nấu hai bát mì nước trong, năm cân thịt bò, rồi xuống xe ngựa bên dưới mang hai cái chén rượu hoa điêu lên đây.” Nữ tử tuyệt sắc kia không hề lộ vẻ kinh ngạc, nghe thấy mấy lời đó, chỉ mỉm cười rồi bảo các nữ tì dọn dẹp bàn tiệc, theo hết ra bên ngoài. Hồi lâu sau, nữ tử đó lại đi lên lầu, thi lễ nói: “Ngô đại quan nhân rất mong mỏi được diện kiến Cốc gia, nhưng không biết ý Cốc gia thế nào.” Cốc Chẩn vẫn cúi đầu ăn mì xì xụp, khoát tay bảo: “Hôm nay không gặp, sau này rồi tính.” Nét mặt nữ tử đó bỗng tỏ vẻ tần ngần, lưỡng lự hồi lâu rồi lại đi xuống lầu. Chẳng mấy chốc, nghe thấy dưới lầu tiếng ngựa hí người kêu bỏ đi nhanh như gió. Lục Tiệm thở dài bảo: “Cốc Chẩn, đệ quả thật chẳng có nhân tình gì cả. Người ta đối với đệ cung kính như thế, lại đưa đến bao nhiêu đồ đạc tiền của, mà đệ đến nhìn mặt họ cũng không thèm.” Cốc Chẩn uống cạn một chén rượu, rồi cười nói: “Lục Tiệm, Huynh xem việc xẩy ra, có vẻ thấy rất lạ hả.” Lục Tiệm gật đầu: “Ta thấy thế không lạ mới là lạ.” Cốc Chẩn nói: “Hay cho câu không lạ mới là lạ.” rồi lại uống một chén, đưa tay lau vệt rượu trên môi, cười nói: “Huynh không biết đâu, bốn năm trước, Ngô Lãng Nguyệt này là một thủ hạ của đệ, ngày nay hắn dậm chân một cái thì chấn động đến cả 3 châu 8 phủ 16 huyện. Người này tài cao mật lớn, khôn ngoan quỷ quyệt. Đệ hai năm phải ở trong tù ngục, bọn chúng không có người quản thúc, tựa như mãnh hổ xổng chuồng, giao long thoát xích, không biết đã làm bao nhiêu điều gian dối rồi. Huynh nghĩ đồ của hắn ngon lành lắm hả? Hắn đưa huynh một vạn lượng hoàng kim, hắn nuốt không biết bao nhiêu hoàng kim khác, ít nhất cũng là 3 vạn lượng. Hắn đưa huynh mười hộc minh châu, hắn làm vấy bẩn bao nhiêu minh châu khác, ít nhất cũng phải tám đấu. Còn đến mĩ nhân, hương xa, y phục tốt quý, chỉ cốt để làm người ta điên đảo, làm người ta hồ mê đùa giỡn hưởng thụ, Huynh một khi bị chìm đắm vào đó, sao còn có thời gian để tính sổ với hắn nữa?” Hắn lại cúi người cười cười nói: “Ngô Lãng Nguyệt bày trăm phương ngàn kế để yết kiến đệ, có phải vì đệ này ưa nhìn hay không? Ha ha, chỉ là vì nếu đệ chịu gặp hắn, tức là có ý không truy cứu những chuyện ngày xưa nữa. Đệ không gặp hắn, hắn sẽ gặp nhiều phiền nhiễu đây. Có điều, đệ nhận ngựa xe mĩ tửu của hắn, cũng có ý nói chuyện ngày trước dù không bỏ qua nhưng cũng sẽ nhẹ tay xử lý hơn. Nhưng kể cả như vậy, thì tối nay Ngô đại quan nhân cũng khó mà ngủ ngon được.” Trần Song Đắc không chịu được thở dài nói: “Cốc gia tuổi hẵn còn trẻ, không ngờ đã nhìn thấu hết thế sự ở đời rồi.” Cốc Chẩn cười nói: “Đó là bởi vì, bọn người như Ngô Lãng Nguyệt, không kể giàu có đến đâu, khi trong tay có tiền, thì trong tim cũng chỉ nghĩ đến tiền. Chỉ có mỗi ta dù trong tay có tiền, nhưng trong lòng vẫn không nghĩ đến tiền. Lòng nghĩ đến tiền, sẽ dễ dàng bị tiền điều khiển, phải làm nô lệ của đồng tiền. Lòng không nghĩ đến tiền, mới có thể bắt tiền phục tùng, dùng đồng tiền điều khiển cả thiên hạ.” Trần Song Đắc nghe đến đây xuất thần, miệm lẩm bẩm: “Trong tay cầm tiền, nhưng trong lòng lại không nghĩ đến tiền.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Song Đắc, ngươi nghe câu này, tất nhiên không thể hiểu ngay được. Ta năm 9 tuổi đã nghe câu này, mãi đến cách đây nửa năm mới hiểu được đạo lý đó.” Lục Tiệm nghĩ thầm: “Nửa năm trước, chẳng phải vẫn ở trong cửu ư tuyệt ngục hay sao?” lại nghe Trần Song Đắc cười hì hì hỏi: “Còn vị Lục Gia này, không biết là người nghĩ đến tiền hay không nghĩ đến tiền?” Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm một cái cười nói: “Mũi của ta rất thính. Phàm ở trên người mà có mùi tiền dù nhỏ đến đâu, bất kể là ở trong tay hay trong tim, ta đều ngửi ra được. Duy độc ở trên người vị Lục Gia này, ta ngửi một chút xíu cũng không thấy. Chứng tỏ tay cũng không cần tiền mà lòng cũng không nghĩ đến tiền.” Lục Tiệm cười ngất: “Cứ vậy mà nói, thì ta là một kẻ không tiền, nghèo xác xơ rồi.” Cốc Chẩn gật đầu nói: “Nghèo xác xơ như huynh, không phải là dễ dàng đâu. Giầu có địch quốc thì dễ, nghèo địch quốc lại rất khó. Đệ tuy rằng chê cười Nhan hồi,Khổng tử đấy, nhưng thật ra đó là những vị thánh hiền, bần tiện không thay đổi, phú quý không tham lam, uy vũ không khuất phục, tuy nói rằng nghèo khổ cùng cực, nhưng lại là thầy của hàng trăm thế hệ đế vương. Được một người như được cả một nước. Cái gọi là nghèo địch quốc nghĩa là vậy.” Hai người vừa đi vừa ngắm cảnh, đến bên ngoài thành Hải Ninh, Cốc Chẩn nói: "Trong thành rối loạn, không vào cũng tốt. Ta biết một nơi rất tuyệt vời". Hai người lập tức tìm đến một tòa tửu lâu bên bờ sông Tiền Đường nơi cửa biển. Tửu lâu có tên là "Quan Hải Lâu", cao rộng hùng vĩ, trước cửa tửu lâu là một đôi liễn mĩ lệ:"Lâu quan thương hải nhật, môn thính Chiết Giang triều 1". Đôi liễn này càng tô điểm nổi bật cho quang cảnh của tòa tửu lâu. Cốc Chẩn chỉ vào đôi liễn, cười nói: "Nghe nói hai câu này là do Lạc Tân Vương người Đường viết, khi đó y cũng giống như chúng ta, đều là hòa thượng trọc đầu mới vượt ngục." Lục Tiệm cười nói: "Ngươi mới là hòa thượng, ta thì không phải. Nhưng mà, câu thơ này rất có khí phách, Lạc cái gì vương đó cũng rất là phi thường". Cốc Chẩn vỗ tay cười nói: "Đúng, đúng, Lạc cái gì vương đó thật là phi thường " Lục Tiệm biết y cười nhạo mình, chỉ cười cười, không thèm tranh luận. Hai người bước lên lầu ba, ngồi xuống nơi nhìn ra biển. Cốc Chẩn chỉ chỉ núi sông, nói: "Thành Hải Ninh phía nam giáp biển lớn, tây nam có Giả sơn, sông Tiền Đường xuyên qua ở giữa, tây giáp biển lớn mênh mông, do đó còn gọi là Hải Môn". Lục Tiệm ngạc nhiên hỏi: "Những điều này ngươi cũng biết?". Cốc Chẩn nói: "Ta từng kinh doanh buôn bán ở nơi này. Người buôn bán, nếu không biết thiên thời địa lý, không rõ phong tục nhân tình, nhất định sẽ lỗ vốn". Lục Tiệm càng cảm thấy kinh ngạc, hỏi: "Ngươi bị giam trong lao hơn hai năm, xét theo lý thì khi đó mới mười bốn mười năm tuổi, ngươi mới chút tuổi như vậy, đã làm ăn buôn bán rồi sao?". Cốc Chẩn mỉm cườii: "Có chí không phải do tuổi tác, hơn nữa cái đạo làm ăn buôn bán vốn thú vị, so với học văn học võ còn vui hơn nhiều". Lúc này bàn bên cạnh có vài văn sĩ mặc áo nhà nho, đang uống rượu ngâm thơ, nghe thấy Cốc Chẩn nói vậy, tức giận vô cùng, một tên trong bọn quát: "Tên thiếu niên nhà người, đầu thì trọc lốc, không ra tăng ra tục, nói lời cũng xa rời đạo lý? Nhớ năm xưa, trong các đệ tử của Khổng thánh nhân, Nhan Hồi thì theo văn, Tử Cống thì làm ăn buôn bán, tại sao lại không có người nói Tử Cống tốt hơn Nhan Hồi. Tử Cống cũng nói bản thân không bằng Nhan Hồi, Nhan Hồi nghe một biết mười, còn bản thân chẳng qua chỉ là nghe một biết hai; tiểu tử nhà ngươi, bản thân không có bản lĩnh học văn, thì đừng có nói xằng nói bậy, làm nhục thánh hiền " Cốc Chẩn ha hả cười lớn. Văn sĩ đó tức giận nói: "Ngươi cười cái gì?". Cốc Chẩn chợt sang sảng ngâm: "Sư dữ thương thục hiền? Tứ dữ hồi thục phú? Đa thiều cùng ô sa, giai bị tử viết ngộ". Đám văn sĩ nghe vậy lặng người ra, bốn câu thơ này nói rõ ràng: Làm thầy và kinh doanh buôn bán thì ai tốt hơn, trước tiên là xem ở Tử Cống và Nhan Hồi ai giầu có hơn, Tử Cống giầu hơn cả vương hầu, còn Nhan hồi thì chết vì nghèo, nhưng biết bao nhiêu người đọc sách xưa nay, đều bị sự bình luận của Khổng Tử về hai người ấy lừa gạt, rơi vào cảnh ngèo túng chán nản. Đám văn sĩ lúc đầu ngẩn cả người, tiếp đó liền tức giận, tới tấp mắng: "Sỉ nhục thánh hiền, sỉ nhục thánh hiền". Cốc Chẩn cười nói: "Các người nói ta sỉ nhục thánh hiền, vậy thử hỏi cả đời của Nhan Hồi từng làm được cái gì? Ngoại trừ đọc sách thì là luận đạo, với gia đình chẳng không có tác dụng gì, với quốc gia thì không có ích chi, kiếm được cái danh tiếng Á Thánh cũng chẳng có tích sự gì, khi chết đến quan tài cũng không có. Còn Tử Cống đi sứ bốn nước, trước sau giữ Lỗ, loạn Tề, phá Ngô, cường Tấn rồi bá Việt, đến nỗi trong vòng mười năm, đại thế của năm nước này có sự thay đổi rõ rệt. Y là thương nhân thì sao chứ? Sau khi Khổng Tử chết, chẳng phải là y bỏ tiền ra lo liệu hậu sự sao? Hoàng đế lão nhi tất nhiên hi vong các ngươi đều làm Nhan Hồi, mọi người đều an bần lạc đạo, còn ngài thì tiêu diêu khoái lạc; nhưng nếu như ai ai cũng giống như Tử Cống, hắc hắc, giang sơn của ngài khó ngồi rồi". Y chỉ tất cả đám văn sĩ, cười nói: "Các ngươi đám người đọc sách này, không phải thường nói thư trung tự hữu hoàng kim ốc, thư trung tự hữu nhan như ngọc 2 sao? Đủ thấy miệng thì đầy nhân nghĩa đạo đức, nhưng trong lòng chẳng phải nghĩ đến tiền, đến mĩ nhân sao. Nếu các ngươi ai thật sự có thể học nghèo như Nhan Hồi, khi chết đến quan tài cũng không có thì ta bội phục. Tiền mà thương nhân kiếm tuy không sạch sẽ cho lắm, nhưng so với đám quan lại thối tha tham ô thì còn sạch sẽ hơn ngàn vạn lần". Đám văn sĩ bị phản bác đến nỗi cứng lưỡi, chỉ biết liên hồi mắng: "Hoang đường, hoang đường". Nhưng Cốc Chẩn không đoái hoài, kêu: "Tiểu nhị, qua đây". Tên tiểu nhị đó thông minh cơ linh, hắn thấy khí thế của Cốc Chẩn liền biết là bất phàm, nghe Cốc Chẩn biện luận với đám văn sĩ một cách thú vị, ở bên cạnh không kìm được cười trộm, vừa nghe thấy Cốc Chẩn gọi, vội đáp: "Tiểu gia phân phó điều gì?". Cốc Chẩn nói: "Có giấy mực không?" Tên tiểu nhị đó cười nói: "Có, có", lập tức bưng lại. Đám văn sĩ trước đó bị Cốc Chẩn phản bác, trong lòng cáu giận, một tên cười lạnh nói: "Tên này lẽ nào lại muốn làm vài bài thơ? Nếu như làm ra, nhất định là thối không thể ngửi được". Cốc Chẩn cười nói: "Thơ của lão tử chưa làm ra thì đã nghe thấy hai tiếng rắm thối rồi, tuy rằng thối không thể ngửi nổi, nhưng gia gia độ lượng, có thối hơn đi nữa cũng vui vẻ tiếp nhận". Rồi không thèm để ý ánh mắt phẫn nộ của đám văn sĩ, chấm đầy mực đen, viết trên giấy: "Trên đường khốn đốn, ngân lượng thiếu thốn. Viết xong ký tên lên trên, giao cho tên tiểu nhị kia, cười nói: "Ngươi cầm cái này đến phủ của Ngô Lãng Nhuyệt đường Trạng Nguyên thành Hải Ninh, đưa cho lão Chung coi cửa, rồi tìm y lấy hai mươi lạng bạc, làm phí đưa thư". Tên tiểu nhị đó nghe Cốc Chẩn nói vậy, trợn mắt há miệng, lắp bắp nói: "Ngài... ngài nói Ngô Lãng Nguyệt... há không phải Ngô đại quan nhân sao?". Cốc Chẩn cười nói: "Thì ra y bây giờ gọi là quan nhân. Không sai, chính là hắn". Tên tiểu nhị đó sững người, rồi lại hỏi: "Nhưng... nhưng y làm sao lại có thể đưa ngân lượng cho tiểu nhân?". Cốc Chẩn cười nói: "Nếu như ngươi chê ít, lấy thêm là được, trong khoảng một trăm lạng đều không có vấn đề gì cả". Tên tiểu nhị nghe đến nỗi choáng váng, buột miệng nói: "Hai mươi lạng vào tay thì không tồi rồi. Đủ... đủ để tiểu nhân mở một tiểu điếm rồi". Mấy tên văn sĩ kia nghe Cốc Chẩn nói vậy, một tên cười lạnh nói: "Tên tiểu nhị ngươi không chịu yên bổn phận, lại nghe lời xui của tên giang hồ lừa đảo này, đến khi bị lừa ăn mắng, đừng có hối hận". Tên tiểu nhị đó bất giác trở lên do dự. Cốc Chẩn cười nói: "Chỉ đưa một tờ giấy, chứ có phải đi cướp pháp trường đâu. Tiểu nhị, ngươi không ngại cược một ván, nếu như cược đúng thì được mấy chục lạng bạc trắng, nếu như cược sai, chẳng qua cũng chỉ bị người nhà họ Ngô lườm vài cái, cũng chẳng thiệt t hòi gì cả". Tên tiểu nhị đó cười nói: "Tiểu gia nói đúng". Lập tức hai tay bưng tờ giấy đó lên, nhè nhẹ thổi khô mực, sau đó chân như cưỡi gió, nhanh chóng chạy đi. Cốc Chẩn liếc đám văn sĩ một cái, cười nói: "Các ngươi muốn giúp ta đi đưa giấy không? Sĩ nông công thương thì sĩ tử đứng đầu, các vị là người đọc sách thì phí đưa thư này cũng gấp bội". Mấy tên văn sĩ đó tức giận vô cùng, một tên quát: "Ngươi ăn nói thật là bữa bãi, trước thì nhục mạ thánh hiền, sau lại nhạo báng bọn ta, cẩn thận ta cáo đến quan phủ, trị ngươi tội khinh nhờn văn nhân". Cốc Chẩn làm ra vẻ ngãng tai, hỏi: "Ngươi dám nói lại một lần nữa, trị ta tội gì?". Người ấy huyết khí dâng trào, lớn tiếng nói: "Sao không dám nói. Trị ngươi tội khinh nhờn văn nhân". Cốc Chẩn cười nói: "Nói rất hay, mọi người đều nghe thấy rồi". Tên ấy cười lạnh hỏi: "Nghe thấy rồi thì sao?". "Cái tội này của ngươi có thể nói là kiếm lạ kỳ quặc". Cốc Chẩn cười cười, thong thả nói: "Ba mươi quyển, bốn trăm sáu mươi điều của Đại Minh Luật, điều nào ta cũng có thể đọc ra được, chỉ là chưa từng nghe nói tội khinh nhờn văn nhân. Quyển mười một Hình Luật của Đại Minh Luật, trong đó có mạ lị bát điều, cũng chỉ có con không mắng chửi cha mẹ, vợ không mắng chửi chồng, thần không mắng chửi quân, nhưng không có nói lão bách tính không được mắng chủi thánh hiền, mắng chử thư sinh, Đại Minh Luật là do thái tổ hoàng để định ra, chẳng lẽ các vị còn cao minh hơn hơn thái tổ hoàng đế, định ra cái tội khinh nhờn văn nhân". Mây tên văn sĩ đó vừa mới nghe thấy lời này, sắc mặt đều tái xám, cái tội xuyên tạc Đại Minh Luật này nặng như thái sơn áp đỉnh, bất luận là ai cũng không thể gánh vác nổi. Bọn chúng vốn cho rằng, tên thanh niên trọc đầu này chẳng qua là một bách tính bình thường, chỉ cần khiêng quan phủ ra, tùy ý bịa đặt một tội danh, thì có thể dễ dàng áp chế. Không ngờ hôm này mệnh phùng thái tuế, gặp phải một tụng sư (thầy kiện) hàng đầu, không những có tài ăn nói sắc nhọn mà còn tinh thông luật pháp, ngược lại đội cho bọn chúng một cái tội đủ để tịch thu gia tai, chu di cửu tộc. Cốc Chẩn thấy đám văn sĩ thần sắc kinh hoàng, hai mắt nhìn chòng chọc vào cửa cầu thang. Trong lòng cười thầm nhưng miệng thì quát lớn: "Người trên lầu đều nghe rồi nhé, mấy người này xuyên tạc Đại Minh Luật, tội không thể tha. Chưởng quầy, những người này ngươi đều quen biết sao? Ghi hết tên họ của bọn chúng lại, nếu như lừa dối, ta sẽ cáo lên quan phủ, trị ngươi tội thông đồng bao che". Lúc này chưởng quầy của Quan Hải Lâu nghe thấy huyên náo, sớm đã chạy lên, nghe Cốc Chẩn nói thế vậy, trong lòng kêu khổ, không biết làm gì. Mấy tên văn sĩ toàn thân run rẩy, một tên trong đó nhát gan yếu ớt, trong lúc kinh hoàng đã ngất đi. Cốc Chẩn còn định làm ầm ỹ, nhưng Lục Tiệm không đành lòng, nói: "Cốc Chẩn, thôi đi, tội gì chỉ vì vài lời đàm tiếu mà hại người". Cốc Chẩn trừng mắt nhìn y, cười lạnh nói: "Ngươi chỉ biết mềm lòng thôi". Nói rồi quay về hướng mấy tên văn sĩ quát lớn: "Coi như các ngươi gặp may, ta nể mặt vị Lục gia này, tha cho các ngươi một lần, còn không mau đến cám ơn Lục gia". Mấy tên văn sĩ chuyển buồn thành vui, cũng không buồn quan tâm đến thể diện gì, xôn xao đứng dậy, khom người vái chào Lục Tiệm, miệng thì gọi Lục gia. Luc Tiệm đỏ mặt tía tai, vội vàng đứng dậy hoàn lễ. Cốc Chẩn ha hả cười lớn, vung tay một cái, hét lớn: "Cút hết đi cho ta". Đám văn sĩ nào dám nhiều lời, vội vàng thanh toán tiền rồi xuống lầu. Cốc Chẩn cười nói: "Đám hủ nho này vừa đi, trong lầu quả thật ít đi ba phần chua thối, nhiều thêm bảy phần thanh tịnh". Lục Tiệm thở dài nói: "Chẳng trách nào người của Đông Đảo đều sợ người, ngươi chốn chốn đều muốn tranh cái được thua, ai mà chẳng sợ?". Cốc Chẩn nghiêm sắc mặt: "Ta với người khác đều phải tranh được thua, duy chỉ có ngươi thì ta không tranh". Lục Tiệm lắc đầu cười khổ. Cốc Chẩn đạm nhiên nói: "Ngươi không tin thì thôi, ta nói lời là giữ lời". Ngồi được một lúc, chợt nghe thấy tiếng chân thình thịch bước lên lầu, là tên tiểu nhị đi đưa mảnh giấy kia quay về, chỉ thấy y khuôn mặt đỏ bừng, hai mắt phát sáng, tay bưng một bọc, thở hồng hộc chạy đến trước bàn, nói: "Tiểu gia, thủ đoạn của tiểugia thật là lợi hại". Cốc Chẩn cười nói: "Kiếm được bao nhiêu ngân lượng?". Tên tiểu nhị mở bọc ra, đều là từng thỏi từng thỏi ngân lượng chỉnh tề, thở dốc nói: "Hai trăm lượng, tiểu nhân vốn chỉ muốn hai mươi lượng, ai ngờ Chung lão coi cửa đưa mảnh giấy vào, quay lại liền nói: Lão gia nói, ngươi làm việc cho Cốc gia, chỉ đưa hai mươi lượng, thì quá hổ thẹn, ít nhất cũng phải đưa hai trăm lượng mới đủ bày tỏ tấm lòng. Còn nói, mọi thứ Cốc gia cần, Ngô đại quan nhân sau khi chuẩn bị xọng, tự mình mang đến". Y không kìm được hưng phấn, nói xong mấy câu này, cả người gần như mềm nhũn đi. Cốc Chẩn cười cười, nói: "Thu bọc vải lạ đi, cẩn thận bạc quá sáng, chọc vào mặt người khác". Tiểu nhị đưa mắt nhìn đi, quả nhiên thấy mọi người trên lầu trợn mắt nhìn mình, con ngươi giống như muốn rớt ra ngoài, trong lòng kinh hãi, vội vàng gói bọc bạc lại, nhưng không rời đi. Cốc Chẩn cười nói: "Thế nào? Còn chê ít sao?". Tên tiểu nhị đó bỗng nhiên đặt túi bạc xuống, quỳ đánh bịch một cái, lớn tiếng nói: "Tiểu nhận thà không cần chỗ bạc này, cũng nguyện đi theo Cốc gia, nước sôi lửa bỏng cũng không từ chối". Hắn gần ba mươi tuổi, nhưng lại quỳ xuống kêu Cốc gia với người thiếu niên trẻ tuổi Cốc Chẩn, mọi người trong lầu đều lộ ra vẻ khinh bỉ. Cốc Chẩn mỉm cười nói: "Tên tiểu nhị ngươi, tính toán cũng rất tinh tế, nếu như hôm nay bỏ qua ta, chẳng qua chỉ có thể kiếm được hai trăm lượng bạc; nhưng nếu như lôi kéo một chút xíu quan hệ với ta, sau này kiếm được không chỉ là chút này". Tên tiểu nhị đó bị Cốc Chẩn vạch rõ tâm cơ, ngượng ngùng đáp: "Cốc gia thần toán, chút tư tâm này của tiểu nhân không thể qua mặt được ngài". Cốc Chẩn gật đầu nói: "Đạo kinh doanh, một là huệ nhãn biết người, ngươi không sợ người khác chế nhạo, vì ta mà ra sức, đó là ngươi có nhãn quang; hai là ở tự thân thẳng thắn ngay thật, lời nói lúc nãy của ngươi, đủ thấy ngươi không phải là loại người lấp liếm giả dối; ba là ở bỏ nhỏ cầu to, quyết đoán kịp thời, ngươi có thể không bị hai trăm lạng bạc che mờ con mắt, đủ thấy nhãn quang sâu rộng. Nội ba điểm này, để người làm tiểu nhị của tửu lâu, cũng thật là oan uổng. Được, lấy văn phòng tứ bảo lại đây. Tên tiểu nhị đó vui mùng, vội bưng bút mực lại, Cốc Chẩn nói: "Ngươi tên là gì?". Tên tiểu nhị đó nói: "Tiểu nhân họ Trần tên Song Đắc". Cốc Chẩn khen: "Hay cho cái tên nhất cử song đắc". Y múa bút như bay, xoàn xoạt viết đầy một trang giấy, nói: "Ta có việc bên người, trước tiên tiến cử ngươi đến chỗ của Ngô Lãng Nguyệt, vẫn bắt đầu từ người hầu làm đi, ngươi có làm hay không?" Trần Song Đắc cười nói: "Cho dù Cốc gia kêu tiểu nhân làm ăn mày, tiểu nhân cũng làm". Cốc Chẩn cười nhẹ, đưa thư tiến cử vào tay hắn, Trần Song Đắc như nhặt được bảo vật, hai tay bất giác nhè nhẹ run rẩy. Cốc Chẩn nói: "Hai trăm lạng bạc kia, ngươi cả thư lẫn bạc đưa cho Ngô Lãng Nguyệt". Trần Song Đắc cũng là người cơ linh, biết rõ hành động giả lại bạc là để lấy lòng tin, lập tức gật đầu liên tiếp. Cốc Chẩn nheo mắt nhìn lên bầu trời, cười nói: "Thời gian cũng không sớm, Lục Tiệm, chúng ta đánh một ván Song Lục3". Lục Tiệm lắc đầu đáp: "Ta không biết chơi". Cốc Chẩn cười nói: "Cái này không lao tâm khổ tứ và tốn thời gian như cờ vây cờ tướng, mà toàn là ở vận may, chơi một ván là biết". Trần Song Đắc không đợi y nói, sớm đã bưng bàn cờ lại, Cốc Chẩn biểu diễn, nói: "Quân đen là của ta, quân trắng là của ngươi, đều là mười năm quân. Chúng ta ném xí ngầu trước, nếu như ném được một điểm, quân cờ đi một bước, nếu như ném được hai điểm, thì đi hai bước, mười năm quân cờ của ai qua được đường biên của đối phương thì coi như thắng". Lục Tiệm nhìn một cái, quả nhiên dễ chơi, hai người lập tức đánh cờ, quên cả thời gian, cho đến khi khách trên lầu đều đi hết, hoa đăng vừa thắp, chợt nghe tiếng vó ngựa như sấm dưới lầu, giống như có vô số binh mã đến, Lục Tiệm trong lòng kinh ngạc, chau mày lại, Cốc Chẩn vẫn chuyên chú vào bàn cờ, mí mắt cũng không động đậy. Lại nghe thấy bước chân nhỏ nhẹ rời rạc, nhịp nhàng đều đặn. Trong khoảnh khắc, cửa cầu thang thắp đế bạc nến hồng. Ánh nến soi rọi mười hai nữ tử tuyệt sắc, áo hoa rực rỡ, ánh mắt như nước mùa thu, bước chân như phụng múa, tay trắng thon thon bưng hộp thức ăn đỏ hồng, trong chớp mắt bày ra một bàn thịnh yến tuyệt phẩm; chỉ thấy vòi voi vây cá mập, óc khỉ bướu lạc đà, cá Chim cá Tầm, tôm to như rồng, chân giò hun khói đỏ như son, ngao sò ngâm trong rượu như sắc đào mùa xuân; đũa làm bằng ngà voi có khảm vàng, đỉnh rồng đốt xạ hương, trăm quả tươi ngon, mùi thơm tràn ngập tửu lâu, mâm ngọc tròn như trăng, chuông ngọc kỳ xảo như ngọn núi nhỏ. Bày tiệc xong, một nữ tử tuyệt sắc chầm chậm lên trước, vái chào một lượt, cười nói: "Ngô đại quan nhân ở dưới lầu, chưa được Cốc gia gọi cho nên không dám tự ý lên. Đại quan nhân nhờ tiểu nữ chuyên lời cho Cốc gia, xe ngựa đã chuẩn bị đầy đủ. Ngựa bốn con, đều là danh câu Đại Lương; xe một cỗ, được chạm khắc bằng trầm hương An Nam, trong xe có vạn lượng hoàng kim, mười hộc minh châu; mười bộ y sam, đều làm bằng tơ lụa của Tô Châu, do đại sư Lưu Hương Sơn của Thiên Y Phường ở kinh thành tự tay may; mười tám vò rượu ngon trăm năm gồm sáu vò Hoa Điêu của Thiệu Hưng, sáu vò Mao Đài của Quý Châu, sáu vò Trúc Diệp Thanh của Xuyên Trung. Còn như những nữ tử ở đây, Cốc gia có thể chọn bất kỳ sáu người để làm thị tỳ. Lục Tiệm nghe thấy kinh hãi trong lòng. Chợt nghe Cốc Chẩn cười: "Lục Tiệm, ngươi thua rồi. Lục Tiệm định thần nhìn lại, các quân cờ của Cốc Chẩn đều đã qua đường biên. Cốc Chẩn hoan hỉ nói: "Tốt, chơi thêm ván nữa". Y miệng thì nói, tay cầm xí ngầu, nhìn cũng không nhìn nữ tử kia, nữ tử đó vẫn mỉm cười, không một chút gấp rút. Lục Tiệm trong lòng nghi hoặc, kiên nhẫn chơi thêm một ván, ván cờ này chơi hết ba tuần hương thời gian, là Lục Tiệm thắng. Cốc Chẩn đẩy bàn cờ sang một bên cười lớn, chuyển mắt nhìn nữ tử kia, ôn hòa nói: "Mỹ nhân, nàng đứng vậy không thấy mệt sao?". Nữ tử kia cười nói: "Có thể hầu cờ cho Cốc gia, cho dù đứng thêm một ngày tì nữ cũng không cảm thấy mệt". Cốc Chẩn cười cười, gật đầu nói: "Nói cho Ngô Lãng Nguyệt, xe ngựa lưu lại, áo quần và mỹ tử lưu lại, hoàng kim minh châu thì mang về, để lại cho ta ba mươi lạng bạc, tạm thời làm lộ phí, còn như mỹ nữ và thức ăn, tất cả đều không cần. Trần Song Đắc!". Trần Song Đắc sớm đã ngẩn cả người, nghe Cốc Chẩn gọi, vội vàng trả lời. Cốc Chẩn nói: "Ngươi kêu nhà bếp nướng cho bon ta hai chiếc bánh tráng, nấu hai bát mì sợi, năm cân thịt bò, rồi ra xe ngựa lấy hai vò Hoa Điêu lên". Nàng nữ tử tuyệt sắc kia cũng không kinh ngạc, nghe thấy câu này, chỉ cười cười, gọi đám nữ tử còn lại thu dọn bàn tiệc, rồi đi xuống lầu. Qua một lúc, nàng nữ tử kia lại lả lướt lên lầu, thi lễ nói: "Ngô Đại Quan nhân vô cùng muốn gặp mặt Cốc gia, không biết ý của Cốc gia như thế nào?". Cốc Chẩn húp mì xoàn xoạt, vung tay nói: "Hôm nay không được, để hôm khác rồi nói". Sắc diện của nàng nữ tử kia bất giác khó coi, ngần ngừ một lúc rồi mới xuống lầu. Tiếp đó liền nghe thấy tiếng vó ngựa dưới lầu nhanh như gió đi khói. Lục Tiệm than: "Cốc Chẩn, ngươi làm như vậy cũng thật bất cận nhân tình. Người ta đối với ngươi cung kính, lại tặng cho ngươi nhiều đồ như vậy, còn ngươi đến gặp mặt cũng không gặp". Cốc Chẩn uống cạn một bát rượu, cười nói: "Lục Tiệm, ngươi nhìn những việc này tựa hồ có vẻ không kinh ngạc?". Lục Tiệm lắc đầu nói: "Ta thấy nhiều việc lạ cho nên cũng chẳng lạ". Cốc Chẩn nói: "Hay cho thấy nhiều việc lạ nên không lạ", lại uống thêm một bát rượu nữa rồi lau đi vết rượu trên khóe miệng, cười nói: "Ngươi không biết đây thôi. Bốn năm trước, Ngô Lãng Nguyệt là người hầu của ta, còn bây giờ là một nhân vật lợi hại, chỉ cần y giậm chân một cái, ba châu tám phủ mười sáu huyện đều chấn động. Loại cậy của khinh người này, giảo hoạt vô cùng. Hai năm nay ta bị giam trong ngục sâu, bọn chúng không có người quản thúc, giống như mãnh hổ thoát khỏi lồng, như giao long thoát khỏi xích, không biết làm ra bao nhiêu việc vô liêm sỉ. Ngươi tưởng rằng đồ của bọn chúng dễ ăn, dễ dùng sao? Hắn đưa cho ngươi vạn lượng hoàng kim, số hoàng kim mà hắn nuốt ít nhất cũng có ba vạn; y cho ngươi mười hộc minh châu, sô minh châu mà y giữ ít nhất cũng có tám hộc. Còn như mỹ nữ giai nhân, danh câu hương xa, y sam rực rỡ, sơn hào hải vị, đều là những thứ làm cho người ta điên đảo thần hồn, mụ mẫm đầu óc, một khi ngươi lún vào trong, há còn công phu thanh toán với y sao?". Y dừng lại, cười cười rồi nói tiếp: "Ngô Lãng Nguyệt đối xử tốt với ta, muốn gặp mặt ta, chẳng lẽ bởi vì lão tử dễ nhìn sao? Hắc hắc, chỉ bởi vì nếu như ta gặp hắn, thì có nghĩa là không trách cứ sai lầm đã qua; ta không gặp hắn, vậy thì hắn rắc rồi lớn rồi. Nhưng, ta thu xe ngựa, mỹ tửu của y, cũng có nghĩa là, việc trước kia tuy rằng không phải là bỏ qua hết, nhưng có thể nhẹ nhàng phát lạc. Cho dù như vậy, đêm nay Ngô đại quan nhân cũng khó ngủ rồi". Trần Song Đắc không nén được thở dài, nói: "Cốc gia tuy ít tuổi, nhưng lại nhìn việc đời thông sốt như vậy". Cốc Chẩn cười nói: "Đó chỉ là bởi vì loại người như Ngô Lãng Nguyệt, dẫu rằng giầu có, nhưng trong tay có tiền, trong lòng cũng có tiền; chỉ có ta là trong tay có tiền, còn trong lòng thì không có tiền. Trong lòng có tiền, dễ bị đồng tiền sai khiến, làm nô lệ cho đồng tiền; trong lòng không có tiền, thì tiền là nô lệ của mình, có thể chế ngự tiền trong thiên hạ". Trần Song Đắc nghe đến xuất thần, lẩm bẩm nói: "Trong tay có tiền, trong lòng không có tiền". Cốc Chẩn lắc đầu nói: "Song Đắc, cho dù ngươi nghe được câu này nhưng cũng không thể làm được. Năm ta chín tuổi đã nghe người khác nói rồi, nhưng mãi đến nửa năm trước mới thông ngộ đạo lý này". Lục Tiệm nghĩ thầm: "Nửa năm trước, không phải y còn trong Cửu U Tuyệt Ngục sao?". Lại nghe Trần Song Đắc hinh hích cười nói: "Vậy vị Lục gia này, có tiền hay không có tiền?". Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm một cái, cười nói: "Mũi của ta rất thính, chỉ cần trên thân người có mùi tiền, bất luận là trên tay hay là trong lòng, ta đều có thể ngửi ra, duy chỉ trên người vị Lục gia này, một chút mùi tiền cũng không ngửi thấy. Đủ thấy y trong tay không có tiền, trong lòng cũng không có tiền". Lục Tiệm bật cười nói: "Câu này có lý, ta vốn không có lấy một đồng, là một kẻ khố rách áo ôm". Cốc Chẩn lắc đầu nói: "Kẻ khố rách áo ôm như ngươi cũng không phải dễ làm. Phú khả địch quốc dễ dàng, nhưng cùng khả địch quốc thì khó. Tuy ta chế giễu Khổng Tử Nhan Hồi, nhưng những bậc thánh hiền này, nghèo hèn không thay đổi, giầu có không phóng đãng, uy vũ không thể khuất phục được, cũng là bậc thầy của trăm đời hoàng đế, được một người còn hơn được một nước, đó gọi là cùng khả địch quốc". Lục Tiệm còn chưa kịp đáp lời, chợt nghe một giọng nói già nua từ dưới lầu vang lên: "Hay cho cùng khả địch quốc, cháu ngoan vào ngục mấy năm, quả nhiên hiểu biết nhiều hơn". Ánh mắt của Cốc Chẩn hơi biến đổi, rồi bỗng nhiên cười: "Doanh gia gia, thâm canh bán dạ, người không ở nhà đếm tiền, đến đây để làm gì?". "Đừng nhắc đến chữ tiền". Lão nhân kia hềnh hệch cười nói, "Chút của nả của gia gia ngươi không phải không biết, còn không đủ nhét kẽ răng cho ngươi kìa". Lão nhân vừa nói vừa bước lên lầu, tựa hồ già yếu vô lực, cứ đi ba bước lại nghỉ. Cốc Chẩn mỉm cười nói: "Doanh gia gia đến thật là nhanh, ta còn cho rằng người đến đầu tiên là Cửu Biến Long Vương, không ngờ rùa đen bò còn nhanh hơn rồng". "Cháu ngoan". Lão nhân kia ha hả cười, "Tuy ngươi đoạt hồng mao chiến thuyền của Diệp Phạn, nhưng cho dù thuyền có nhanh đến mấy cũng không thể nhanh bằng chim bay trên trời. Ngươi thoát khỏi ngục đảo ngày thứ nhất, thì ngày thứ hai gia gia đã nhận được truyền thư. Mọi người canh giữ ở bờ biển, thử vận may. Chỉ là gia gia may mắn hơn, ở gần đây. Ngươi tìm Ngô Lãng Nguyệt, lại gây ra động tĩnh lớn như vậy, cho dù ta có thật sự là một con rùa đen, cũng nghe thấy được". Trong tiếng trò truyện, từ cửa cầu thang xuất hiện một lão nhân tám chín mươi tuổi, áo hoa tóc vàng, lông mi dài rủ xuống, lưng cong như một chiếc cung, tay chống một cây trượng bằng trúc mầu xanh, nhởn nhơ tiến lại. Cốc Chẩn cười nói: "Song Đắc, còn không dọn chỗ cho Doanh gia gia". Trần Song Đắc vô cùng tinh nhanh, không đợi y lên tiếng đã bưng một chiếc ghế dựa lại, đặt trước bàn. Cốc Chẩn lại nói: "Song Đắc, nơi này không có việc của ngươi, ngươi lui xuống đi". Trần Song Đắc dạ một tiếng, vừa đinh xuống lầu thì lão nhân tóc vàng kia ha hả cười nói: "Hắn là người hầu mà cháu ngoan mới thu nhận sao? Quả nhiên tinh khôn, lại đây, gia gia thưởng người một đồng tiền". Nói xong chậm rì rì thò tay vào trong lòng, moi ra một đồng tiền đồng có sắc xanh. Trần Song Đắc đang định vươn tay nhận, bỗng Cốc Chẩn nhíu ngược mày, nghiêm giọng quát: "Doanh Vạn Thành, ngươi còn muốn tiền không?". Lão nhân tóc vàng ngẩn người một lát, thu lại đồng tiền đồng, cười nói: "Muốn, sao mà không muốn chứ?". Trần Song Đắc không hề biết rằng bản thân vừa mới đi một vòng trước Quỷ Môn Quan, vươn tay ra một nửa, lấy làm miễm cưỡng vô cùng, chợt nghe Cốc Chẩn cười nói: "Song Đắc, vị tiền bối này chọc ngươi chơi thôi, còn không mau lui xuống". Doanh Vạn Thành nghe Cốc Chẩn nói, đôi mắt vẩn đục già nua chợt lóe lên một tia sắc nhọn, đưa mắt nhìn đi, bỗng thấy Lục Tiệm thở ra một hơi dài, toàn thân thả lỏng, bất giác thầm kinh ngạc: "Tên tiểu tử này có lai lịch như thế nào, lại có thể nhìn ra sát khí của lão phu". Trầm ngâm một lúc, lão ngồi xuống cười nói: "Cháu ngoan, bản lĩnh của ngươi thật là lợi hại, Cửu u Tuyệt Ngục cũng không giam được ngươi, giống như một câu nói, gọi là cái gì nhỉ, đúng rồi, cá muối sống lại. Ha ha, nếu như không phải gia gia ta, thiên hạ lại có chuyện náo nhiệt để xem rồi". Cốc Chẩn cười nói: "Câu này của Doanh gia gia, có ý là xơi chắc ta rồi?". "Không có quạt Ba Tiêu, dám qua Hỏa Diệm Sơn sao?". Doanh Vạn Thành hềnh hệch cười nói: "Nếu như ngươi có hận, thì hận bản thân ngươi không chuyên tâm luyện võ. Nếu ngươi có một nửa bản lãnh của Cốc Thần Thông, thì bộ xương già này của gia gia, há dám tự đưa đến cổng để bị bẻ gẫy sao?" Cốc Chẩn nói: "Thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, ta trước nay vẫn bội phục, nhớ năm xưa khi ta thử tuổi 4...". Còn chưa nói hết câu, Doanh Vạn Thành đã hừ lạnh một tiếng, chặn lời: "Chuyện đã qua nhiều năm, còn có gì để mà nói chứ?". Cốc Chẩn cười nói: "Việc thú vị như vậy, bằng hữu của ta còn chưa nghe qua kìa. Lục Tiệm, ngươi có muốn nghe không". Lục Tiệm cười đáp: "Chuyện hồi nhỏ của ngươi sao? Kể ra nghe xem". Doanh Vạn Thành hừ một tiếng, khuôn mặt già nua u ám. Cốc Chẩn uống một bát rượu, thong thả cười nói: "Khi đó ta mới sinh ra chưa được bao lâu, cha ta vứt nhiều đồ vật cho ta chộp, nói là chộp được cái gì, sau này nhất định có duyên với đồ vật đó, ví như cầm bút thì học văn, cầm đao thì học võ. Nhưng vị Doanh gia gia này lại biết một bản lĩnh lợi hại, có tên là Quy Kính, không những có thể đoán được tâm tư của đối thủ, mà đến tâm tư cua trẻ con, y cũng có thể đoán được. Khi ấy y đánh cuộc với cha ta, nói ta nhất định chộp bàn tính, vật cược là một trăm lượng hoàng kim, có đúng vậy không, Doanh gia gia?" Doanh Vạn Thành bực tức, nói: "Vậy thì sao, chẳng lẽ ngươi không chộp bàn tính sao?" Cốc Chẩn cười nói: "Ta có chộp bàn tính, cho nên nói thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, không phải là khoác lác. Nhưng mà, một trăm lượng hoàng kim là ai thắng?". Cơ mặt của Doanh Vạn Thành co rút một lúc, lộ ra vẻ đau lòng, cáu giận nói: "Là cha ngươi thắng". Cốc Chẩn cười nói: "Lục Tiệm, ngươi đoán xem, tại sao rõ ràng là Doanh gia gia đoán trúng bàn tính, nhưng lại thua cuộc?". Lục Tiệm nghĩ một hồi, lắc đầu cười nói: "Ta không đoán ra được". "Cái này rất là đơn giản", Cốc Chẩn nói: "Bởi vì y chỉ đoán trúng có một nửa". Lục Tiệm kinh ngạc hỏi: "Tại sao lại nói như vậy?". Cốc Chẩn nói: "Đứa trẻ bình thường, đều là một tay thử tuổi, nhưng ta thì hai tay cùng chộp, tay phải chộp bàn tính, tay trái thì chộp một chiếc thuyền gỗ đồ chơi; mà hai tay còn không phân biệt trước sau chộp đồ, theo cái lý bình thường thì Doanh gia gia chỉ đoán trúng một nửa, thua mất một trăm lượng vàng". Doanh Vạn Thành nghe đến bực bội, dậm trúc trượng một cái, quát: "Việc nhỏ con ngày trước, cũng đem ra tự khoe". "Doanh gia gia hiểu sai rồi!". Cốc Chẩn lành lạnh cười một cái, mục quang sáng rực: "Ta nói cái chuyện này, không phải là kể lại kỷ niệm xưa. Mà là muốn gia gia biết, bắt từ ngày hôm đó, ta chính là khắc tinh của Kim Quy Doanh Vạn Thành gia gia. Trừ khi vừa gặp mặt gia gia liền giết ta, bằng không nhất định sẽ gặp rủi ro". Đôi mắt già nua của Doanh Vạn Thành híp lại, quan sát Cốc Chẩn một hồi, hì hì cười nói: "Gia gia già rồi, không uống được rượu, không ăn được thịt, cho dù nhìn nữ nhân xinh đẹp, cũng hoàn toàn không có hứng thú, chỉ riêng thích một số vật trắng vàng, những thứ này ngươi có rất nhiều, gia gia thích ngươi còn không kịp, sao lại nỡ lòng giết ngươi chứ?". Cốc Chẩn lành lạnh nói: "Ngươi cần bao nhiêu?". "Gia gia là người không tham lam". Doanh Vạn Thành thở dài nói: "Vạn lượng hoàng kim, mười hộc minh châu gì đó, gia gia đều không cần. Gia gia chỉ cần một chiếc nhẫn phỉ thúy, ngươi đưa cho gia gia, gia gia sẽ phạm cái tội bất nghĩa lớn trong thiên hạ, tha cho ngươi đi". "Ta tưởng là cái gì chứ?". Cốc Chẩn bật cười khanh khách: "Nhẫn phỉ thúy? Cái đó thì dễ dàng, ta viết một lá thư cho Ngô Lãng Minh, gia gia đến chu bảo trai của hắn chọn, muốn mấy chiếc có mấy chiếc". Doanh Vạn Thành híp hai mắt lại, khanh khách cười, lộ ra một cái miệng tối đen: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết gia gia không cần những thứ đó. Nhẫn mà gia gia cần, cả thiên hả này chỉ có một chiếc: Phỉ thúy chi hoàn, huyết văn tam tháp, tài thần thông bảo, hiệu lệnh thiên hạ 5". "Có thứ bảo bối như vậy sao?" Cốc Chẩn kinh ngạc nói: "Sao ta chưa từng nghe nói qua?". "Bậy bạ". Doanh Vạn Thành dậm mạnh trúc trượng một cái, bụp một tiếng, trục trượng xuyên thủng sàn gỗ dày năm tấc: "Nếu như không có chiếc nhẫn Tài Thần đó, dựa vào chút tuổi của ngươi, làm sao có thể hiệu lệnh các thương nhân trong thiên hạ, điều động tiền bạc và hàng hóa trên thế gian?". Trong lúc la hét, mây mù trong đôi mắt của Doanh Vạn Thành đều tan biến, trong như băng tuyết, hai tia sắc lạnh, bức thẳng đến. Hai mắt của Cốc Chẩn cũng sáng đến kinh người, bốn mắt nhìn nhau, giống như sấm sét giao kích, Lục Tiệm chợt thấy toàn thân lạnh toát, thân thể giống như dây cung, không tự chủ được căng lên. Bỗng nhiên, Cốc Chẩn lại cười một tiếng, bầu không khí nặng nề như gặp gió ấm ngày hạ, chớp nhoáng tan chảy. Chỉ nghe y đạm nhiên nói: "Việc này là do Ngô Lãng Nguyệt nói sao?". Doanh Vạn Thành cười khô nói: "Việc nhỏ này, gia gia tự có cách biết, hà tất phải cần hắn nói?". Cốc Chẩn nói: "Hắn thâm nợ không nhỏ, ta lại không tha cho hắn, do đó chó gấp nhẩy tường, biên tạo câu chuyện hoang đường, hãm hại ta. Doanh gia gia, gia gia đã có thần thông Quy Kính, sao không soi soi trong lòng ta, có hay không có nhẫn Tài Thần, không phải soi một cái thì rõ sao?". Doanh Vạn Thành lắc đầu nói: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kinh chỉ có thể soi được hiện tại, không thể giám định được qua khứ, chỉ có thể đoán được ý niệm lúc này của ngươi, nhưng không thể biết được ký ức của ngươi. Hơn nữa, trong thiên hạ, người có thể khắc chế được ký ức của bản thân, không muốn nhớ lại tuy lác đác vài người, nhưng cháu ngoan vừa hay chính là một người trong đó. Gia gia bị ngươi lừa, cũng không phải là một hai lần. May mà, ta bị lừa một lần, học khôn một lần, lần này ngươi muốn lừa bịp ta, hắc hắc, đừng có nghĩ đến". Cốc Chẩn cười cười, rót rượu vào bát, một hơi uống cạn, lúc này y đã uống mười bát rượu, nhưng càng uống ánh mắt càng sáng, hoàn toàn không có vẻ say. "Doanh gia gia". Cốc Chẩn chợt nói: "Chúng ta cược một ván, gia gia thắng thì ta đưa nhẫn cho gia gia, ta thắng thì gia gia để cho ta đi". Doanh Vạn Thành hai mắt trợn ngược, nói: "Cược cái gì?". Cốc Chẩn nói từng chữ một: "Cược Kim Quy Tam Quan ". Doanh Vạn Thành díp hai mắt lại, cười nói: "Được, nếu như ngươi có thể phá được tam quan của ta, gia gia cũng không còn mặt mũi làm khó ngươi". Cốc Chẩn nói: "Vậy thì cược đệ nhất quan trước: Xạ Phúc. Ta là mồi cá, ngươi là lưỡi câu". Doanh Vạn Thành ngẩn người, nói: "Mồi cá? Lưỡi câu? Câu này có ý gì?". Cốc Chẩn cười cười không nói, Doanh Vạn Thành cảm thấy kỳ quặc, dùng "Quy Kính" tra xét, nhưng mạch suy nghĩ của Cốc Chẩn đã chuyển sang hướng khác, bất giác cười lạnh một tiếng, nói: "Ngươi trước hay là ta trước?". Cốc Chẩn nói: "Ta trước". Doanh Vạn Thành quay người lại, vận chuyển "Quy Kính" âm thầm quan sát, chỉ cảm thấy Cốc Chẩn đặt một quân cờ Song Lục dưới bát, tiếp đó lại cảm thấy y quay đầu lại, cười nói:" Được rồi, Doanh gia gia, gia gia đoán xem dưới bát là cái gì?". Doanh Vạn Thành quay người nhìn chừng chừng chiếc bát đó, díp mắt nói: "Là quân cờ Song Lục". Cốc Chẩn mỉm cười, mở bát ra, Doanh Vạn Thành bất giác đờ người, thì ra dưới bát không phải là quân cờ mà là một hạt xí ngầu. Y xoay chuyển ý nghĩ, nghiêm giọng quát lớn: "Tiểu tử thối, ngươi ăn gian". Cốc Chẩn cười đáp: "Ta ăn gian làm sao?". Doanh Vạn Thành tức giận nói: "Ta xạ phúc với ngươi, chứ không phải xạ phúc với y". Nói xong chỉ vào Lục Tiệm, cười lạnh nói: "Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kính của gia gia chỉ có thể đoán được tâm ý của một người, không thể đồng thời quan sát hai người, do đó trước tiên đặt quân cờ vào trong bát, sau đó quay đầu không nhìn, để mặc cho tên tiểu tử này đổi quân cờ trong bát thành hạt xí ngầu, Quy Kính chỉ có thể soi ra tâm tư của ngươi, ngươi còn không biết y đổi thành cái gì, tự nhiên Quy Kính cũng không cách gì soi được". Cốc Chẩn và Lục Tiệm nhìn nhau một cái, lắc đầu nói: "Doanh gia gia nói rất có lý. Nhưng khẩu thuyết vô bằng, gia gia có chứng cứ gì, chứng minh là y đổi xí ngầu? Chẳng lẽ không phải là do thần thông Quy Kính sai sót sao?". Doanh Vạn Thành bất giác im lặng, chỉ trách nhất thời sơ ý, biết rõ là hai người giở trò, nhưng không nắm được chứng cứ, đã không có chứng cứ thì cũng bằng thừa. Chỉ còn biết nói: "Được, đến lượt ta. Nếu như các ngươi không đoán được, đệ nhất quan này cũng chỉ coi là hòa. Hừ, hai người các ngươi, quay đầu hết ra đằng sau cho ta.". Hai người Cốc, Lục nghe lời quay đầu, chớp mắt liền nghe Doanh Vạn Thành nói: "Quay đầu lại đi". Hai ngơời quay người lại, chỉ thấy trước người Doanh Vạn Thành, úp ngược một bát rượu. Cốc Chẩn hơi trau mày, rồi nhìn Lục Tiệm, chỉ thấy y nhắm chặt hai mắt, hai tay ấn xuống bàn, sau đó nhấc tay trái lên, lắc nhẹ, Cốc Chẩn tâm niệm nhất động, buột miệng kêu: "Dưới bát không có gì". Doanh Vạn Thành thần sắc đại biến, Cốc Chẩn thấy thần sắc của lão, cười ha hả: "Thế nào, ta đoán trúng phải không?". Doanh Vạn Thành bực bội trợn mắt nhìn y, cũng không mở bát, sau đó lại cười một tiếng âm hiểm, không để ý nói: "Đệ nhất quan này, coi như ngươi phá được. Bây giờ là đệ nhị quan: giấu vật". Nói rồi lấy ra một đồng tiền đồng, do dự một chút, bẻ thành hai nửa, đưa một nửa cho Cốc Chẩn, nói: "Giấu nửa đồng tiền này trên người ngươi, nếu như rời khỏi người, thì coi như ngươi thua". Cốc Chẩn đặt nửa đồng tiền đó lên bàn, lắc đầu nói: "Không cần, bất luận là ta giấu ở chỗ nào, đều không thể thoát được Quy Kính của gia gia. Đệ nhị quan này ta chỉ mong hòa, đoán được Doanh gia gia giấu ở đầu là được". Doanh Vạn Thành không ngờ y có chiêu này, hơi cảm thấy kinh ngạc, lại thấy y vô cùng tự tin, bất giác thầm bồn chồn, chỉ biết nắm nửa đồng tiền còn lại trong tay, khi xòe tay ra, đồng tiền kia đã biến mất. Lục Tiệm thấy vậy, hai tay ấn xuống bàn, kiếp lực thuận theo chân bàn truyền xuống, lại đi qua sàn lầu, truyền đến dưới chân của Doanh Vạn Thành, trong khoảnh khắc, liền cảm thấy nửa đồng tiền kia bám sát vào da thịt của Doanh Vạn Thành đang nhanh chóng rơi xuống, chớp mắt chui xuống lòng bàn chân trái của lão. Đang định tìm cách ám thị cho Cốc Chẩn, bỗng thấy đôi lông mày dài của Doanh Vạn Thành nhướng cao, mục quang lạnh lẽo bức đến. Cốc Chẩn nhìn thấy, liền biết Doanh Vạn Thành đã hoài nghi, lần này dùng "Quy Kính" lên người của Lục Tiệm, vội cười nói: "Doanh gia gia, gia gia nhìn bằng hữu của ta làm gì? Đánh cược tam quan với gia gia là Cốc Chẩn ta mà" Doanh Vạn Thành hừ lạnh một tiếng, nói: "Ta coi như đã biết thế nào là mồi cá, thế nào là lưỡi câu. Thì ra mồi cá cháu ngoan ngươi chỉ là làm ra vẻ, còn người thật sự đấu pháp với ta chính là tiểu tử này. Nhưng ta có chút kỳ quái, y làm sao có thể biết tâm y của lão phu, chẳng lẽ y cũng luyện Quy Kính không bằng?", vừa mới dứt lời, bỗng nhấc trúc trượng lên, điểm vào Lục Tiệm, Lục Tiệm vội muốn tránh né, nhưng bị Doanh Vạn Thành soi ra tâm ý, nửa đường biến chiêu, vù cái điểm trúng "Kỳ Môn Huyệt" của y. Hiển mạch của Lục Tiệm bị chế ngự, kiếp lực trong ẩn mạch tuôn lên, chuyển hóa thành nội lực, lại đả thông hiển mạch. Doanh Vạn Thành vừa định thu trượng lại, chợtthấy Lục Tiệm hơi trì trệ một lúc, liền có thể cử động được, tay trái móc vào trong, quyền phải tống thẳng ra, kình lực nặng như núi, ập thẳng đến. Doanh Vạn Thành trở tay không kịp, hoành trượng ngăn cản, liền cảm thấy hổ khẩu phát nóng, trúc trượng tựa hồ bật ra khỏi lòng bàn tay, không kìm được tung người nhảy lùi lại, mới hóa giải được quyền kình của "Bán Sư Nhân Tướng", trong lòng kinh dị, bỗng nghĩ lại, quát lớn: "Hảo tiểu tử, ngươi là kiếp nô?". Lục Tiệm bị y nói ra ẩn mật của bản thân, cũng lấy làm kinh hãi. Chợt nghe cốc Chẩn vỗ tay cười nói: "Doanh gia gia cao kiến". Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: "Cháu ngoan, kiếp chủ là ngươi sao?". Cốc Chẩn cười nói: "Nếu như ta nói là không phải, gia gia có tin hay không?". Câu này của y lập lờ nước đôi, Doanh Vạn Thành càng trở lên hồ nghi bất định, bỗng lão nhấc tay, đâm thẳng trúc trượng vào mi tâm của Lục Tiệm. Lão đoán trước tiên cơ của địch thủ, Lục Tiệm né tránh không kịp, bèn dứt khoát dùng "Bạch Hào Tướng", không lùi mà tiến, dùng đầu đón lấy. Kinh Phật có nói: "Giữa hai hàng lông mày của Như Lai phóng ra tia sáng trắng, soi rọi khắp vạn tám nghìn đất Phật tây phương", do đó tướng thái này, có thể đem thần lực toàn thân tụ lại ở giữa hai hàng lông mày, Doanh Vạn Thành điểm trúng, giống như điểm phải thép, mà lại không cách gì đâm vào được. Doanh Vạn Thành tuy có khả năng liệu địch, nhưng không liệu được Lục Tiệm lại có thể dùng thân thể huyết nhục, ngăn chặn được binh đao của bản thân, không kịp thu trượng lại, Lục Tiệm đã nhịn cơn đau buốt ở mi tâm, biến hóa "Chu Thiên Tướng", hai tay đồng loạt xuất chiêu, nắm chặt lấy trúc trúc trượng. Doanh Vạn Thành quát lớn một tiếng, truyền kình lực lên trúc trượng, trúc trượng đó u u rung lên, hai tay Lục Tiệm như gặp phải điện, lập tức buông ra, nhưng tay phải của y nhanh đến kỳ dị, vừa mới bị chấn thoát, lại nắm lấy trúc trượng, mắt thấy eo lưng của Doanh Vạn Thành hơi lộ sở hở, vội biến "Mã Vương Tướng" đá ra. Nhưng vừa mới nhấc chân lên, thì kiếp lực ở tay phải đi qua trúc trượng, liền cảm nhận được các tình cảnh trong cơ thể của Doanh Vạn Thành, lúc này tinh khí của Doanh Vạn Thành lưu chuyển trong "Đái Mạch", chân khí ngưng tụ gia tăng trong "Thủ Thái Âm Phế Kinh", dựa theo mạch lý, chính là dấu hiệu của thân hình lách sang phải, ngũ chỉ cắm xuống dưới, một cước này của Lục Tiệm nếu như thật sự đá ra, nhất định bị ngũ chỉ sắc như đao kiếm của lão xuyên thủng bắp chân. Ý niệm này mới chỉ lóe lên, Lục Tiệm bèn từ "Mã Vương Tướng" biến thành "Đại Tự Tại Tướng", vội thu chân lại, quát lớn một tiếng, chưởng trái thành đao, trước tiên biến tướng "Thọ Giả Tướng", rồi lại biến "Hầu Vương Tướng", thế như chặt tre, hết sức bổ ra. Cú bổ ra này khí thế kinh người, kình phong khắp lầu. Doanh Vạn Thành tuy rằng liệu được, nhưng cũng không cách gì né tránh, chỉ biết vung tay đỡ lấy. Hai chưởng giao nhau, kình phong ào ạt, khuôn mặt nhăn nheo của Doanh Vạn Thành thoáng qua một vệt ửng hồng, Lục Tiệm thì cảm thấy tức ngực tim đập mạch, chợt lại cảm thấy chân khí trong "Thủ Thái Dương Tiểu Tràng Kinh" của Doanh Vạn Thành biến đổi, chiêu sau đó sẽ là khí thông ngón tay trái, điểm vào "Khúc Trì Huyệt" của mình, lập tức tiên hạ thủ vi cường, tay trái biến "Đa Đầu Xà Tướng", một chuyển một chiết, quấn lấy ngũ chỉ của Doanh vạn Thành, Doanh vạn Thành nhận biết được tâm ý của Lục Tiệm, vừa kinh vừa nộ, bất đắc dĩ triệt tiêu kình lực biến chiêu, nhưng lão vừa biến chiêu, Lục Tiệm cũng biến. Trong nhất thời, hai ngươi mỗi người nắm một đầu trúc trượng, Doanh Vạn Thành dùng thần thông "Quy Kính", dự đoán tâm tư của Lục Tiệm, nhưng chỉ cần y xuất chiêu, Lục Tiệm liền dựa vào kiếp lực, từ trúc trượng cảm nhận được hướng đi kình lực của y, biến tướng ứng đối. Doanh Vạn Thành cảm thấy tâm tư của Lục Tiệm có biến, vội vàng biến chiêu, nhưng nội tức của y vừa mới động, Lục Tiệm lại đã biết, tình thế như vậy lặp đi lại lại. Cốc Chẩn từ bên cạnh nhìn, thấy hai người đó khoa tay múa chân, nhưng không một chiêu nào thực sự xuất ra, vừa thấy kỳ quái lại vừa thấy buồn cười. Nhưng Lục Tiệm chỉ biết mười sáu tướng, phản phúc thi triển, không tránh khỏi dùng hết, còn chiêu thức của Doanh Vạn Thành thì huyền kỳ, biến hóa vô phương, dần dần chiếm được thượng phong. Lục Tiệm trong lúc sốt ruột, cảm nhận được hướng đi nội kình của Doanh Vạn Thành, y vội mô phỏng theo, trong nhất thời, Doanh Vạn Thành nhấc chân, y cũng nhấc chân, Doanh Vạn Thành giơ tay, y cũng giơ tay, Doanh Vạn Thành ngưng thần xuất quyền, y cũng xuất quyền, giống như một người đứng trước gương, hình bóng trong gương ngoại trừ diện mạo khác nhau, cử chỉ đều giống hệt nhau. Cốc Chẩn thấy vậy cũng thu lại nụ cười, kinh ngạc nói: "Lục Tiệm, ngươi sao lại biết công phu của Đông Đảo ta? Chiêu này là Bộ Thủ Kình, chiêu kia là Vô Định Cước, ái a, quái sự, quái sự". Doanh Vạn Thành vừa kinh vừa nộ, bất luận lão biến chiêu như thế nào, Lục Tiệm đều có thể rập khuôn y hệt, xuất chiêu không sai, cứ như thế, không bao giờ kết thúc. Dẫu rằng lão nổi nóng, cũng nghĩ không ra nguyên do trong đó. Nên biết thần thông "Quy Kính" tuy lợi hại, nhưng có một sơ hở vô cùng lớn, đó chính là chỉ có thể soi ra công phu của hiển mạch, nhưng không có cách gì cảm nhận được sự vận chuyển của ẩn mạch. Doanh Vạn Thành trong lúc sốt ruột, không nhịn được quát lớn: "Tiểu tử thối, ta thấy ngươi mặt mũi đoan chính, tại sao lại phải nối giáo cho giặc, giúp tên nghiệt chướng cưỡng dâm tiểu muội, giết mẫu thân, câu kết với Oa khấu này?" Lục Tiệm nghe vậy cả kinh, thất thanh nói: "Lão nói cái gì?". Doanh Vạn Thành vốn chỉ là nóng lòng trút căm giận, nhưng thấy Lục Tiệm kinh ngạc như vậy, bèn dùng "Quy Kính" soi, liền biết ngọn nguồn, hăng hắc cười nói: "Ngươi há không biết? Tên tiểu súc sinh họ Cốc này, bức gian muội muội, gian tình bị mẫu thân phát hiện, rồi từ thẹn chuyển thành phẫn nộ, đâm trọng thương mẫu thân. Thậm chí, y câu kết với Uông, Từ, Ma, Trần tứ đại khấu, giết người cướp của, không việc gì không làm, làm cho một vùng Giang Nam rộng lớn, biến thành lò mổ Tu La...". Nói đến đây, Lục Tiệm bất giác buông lỏng trúc trượng, bịch bịch bịch lùi lại sau ba bước, hai mắt mở to, lắp ba lắp bắp nói: "Y... tại sao y... y không nói cho ta?". Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: "Việc xấu xa như vậy, y làm sao có thể nói ra được? Nếu như phạm tội bình thường, y bị nhốt vào trong Cửu U Tuyệt Ngục sao? Người thiếu niên, ngươi cũng không phải ngốc, thử nghĩ kỹ xem, thì có thể minh bạch". Lục Tiệm thừ người ra, quay đầu nhìn đi, chỉ thấy mục quang của Cốc Chẩn rủ xuống, tựa hồ không dám nhìn thẳng vào mắt mình. Trong sát na, các tình cảnh trước đó đều lần lượt hiện qua, trong lòng y bỗng nhiên thông suốt: Tại sao Cốc Chẩn mới chút tuổi thị bị nhốt vào ngục sâu vô đáy, tại sao y lại nhục mạ mẫu thân sinh ra mình, tại sao trước sau không chịu nói bản thân phạm phải tội gì. Chỉ bởi vì tội ác này to lớn, quả thực là thiên lý bất dung. Lục Tiệm nghĩ đến đây, vẫn chưa hết hy vọng, nghẹn ngào hỏi: "Cốc Chẩn, lão ta nói đều là thật sao?". Cốc Chẩn buông tiếng thở dài, nhè nhẹ cười khổ. Lục Tiệm nhìn y, chỉ cảm thấy lồng ngực đau buốt, nên biết, trải qua bao nhiêu kiếp nạn, y đã coi người này là bằng hữu thân thiết nhất của đời mình. Nhưng không ngờ đến bây giờ, lại là kết cục như vậy. Lục Tiệm không đè nén được bi phẫn, bất giác quát lớn: "Cốc Chẩn, ta hận ngươi. Sớm biết như vậy, ta thà chết trong hang động, cũng không cứu ra ngoài". Nói đến đây, bỗng nhiên nhấc quyền, kích vào Cốc Chẩn, nhưng quyền đi được nửa đường, rốt cuộc lại thu về, đấm mạnh lên chiếc bàn gỗ bên cạch, bùng lấy một tiếng, chiếc bàn gỗ bị chấn nát vụn. Lục Tiệm trong lòng rối bời như lửa thiêu, đánh xong một quyền, bước nhanh xuống lầu. Trần Song Đắc đang trông coi trước lầu, thấy vậy hỏi: "Lục gia, ngài đi đâu? Tiểu nhân sắp xếp xe ngựa cho ngài". Lục Tiệm không nói một lời, chỉ biết chạy điên cuồng như bay, cũng không biết chạy được bao xa, chợt cảm thấy hai chân vừa lạnh vừa ướt, mới cả kinh phát giác: bản thân không biết từ lúc nào đã chạy đến bờ biển, từng trận thủy triều ập đến, chìm ngập đến đầu gối. Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, sóng biển đen thẳm cuồn cuộn không ngừng. Trong sát na, trong lòng y lại hiện lên khuôn mặt của Cốc Chẩn, nụ cười kia trong sáng tươi tắn, mang một chút hơi vị trẻ con, hai mắt nhìn mình, luôn có sự chân thành không thể nói ra thành lời. "Ta làm mồi cá, ngươi làm lưỡi câu... Ta từ nhỏ đã thích cười, tên hồi nhỏ là Tiếu Nhi... Ta với người khác đều phải tranh cái được thua, duy chỉ có ngươi là ta không tranh...". Từng câu từng chữ, còn như ở bên tai, Lục Tiệm uất ức khó giải, không kìm được vùi đầu vào trong biển, mặc cho nước biển lạnh lẽo mặn đắng tràn vào mũi miệng, cho đến khi hết hơi, mới nhấc đầu lên, suy nghĩ: "Xem dáng vẻ của Cốc Chẩn, nghe y nói chuyện, làm sao lại có thể là kẻ ác như vậy, nếu như đều là Doanh Vạn Thanh vu cáo, tại sao y lại không biện giải? Y thông minh tuyệt luân, tại sao đến lúc đó, lại thành một kẻ ngốc?". Lục Tiệm trong lòng không yên, chỉ cảm thấy nếu không làm rõ chân tướng, cả đời này chớ mong kê gối ngủ ngon, bỗng nhiên chuyển thân, lại chạy vội về hướng "Quan Hải Lâu". Còn chưa đến gần, thì thấy trong lầu tối om, trong lòng bất giác nặng trĩu, chạy đến trước lầu, cửa tửu lầu đã đóng chặt, trong lòng không cầm được nóng như lửa đốt, giơ tay gõ cửa. Gõ được hai hồi, liền nghe thấy Trần Song Đắc nói vọng ra: "Là Lục gia sao?". Nói rồi dỡ ván cửa, bước ra ngoài. Lục Tiệm buột miệng hỏi: "Trần đại ca, Cốc Chẩn đâu?". Trần Song Đắc cười khổ nói: "Lục gia ngài giết tiểu nhân rồi, hai chữ đại ca vạn lần không dám nhận, ngài giống như Cốc gia gọi tiểu nhân Song Đắc là được. Còn như Cốc gia? Người cùng với vị lão gia kia ngồi xe ngựa đi được hai canh giờ rồi, trước khi đi có nói với tiểu nhân, Lục gia ngài nhất định còn quay lại, kêu tiểu nhân ở đây đợi ngài". Lục Tiệm nghe vậy vậy lặng người đi, lại thấy Trần Song Đắc quay người lấy ra một bọc vải, nói: "Cốc gia nói, ngài muốn hồi hương, không thể không có lộ phí. Cốc gia kêu tiểu nhân đưa một trăm lượng bạc cho ngài, còn nói chỗ bạc này là năm xưa người làm ăn buôn bán kiếm được, sạch sạch sẽ sẽ. Lục Tiệm đón lấy bọc vải, chỉ cảm thấy nặng trình trịch, trong lòng bất giác chua xót, không nén được hỏi: "Song Đắc, ngươi nói xem, Cốc Chẩn có giống một đại ác nhân không?". Trần Song Đắc nghe vậy sững người, lắc đầu nói: "Hai con mắt này của Song Đắc, người nam kẻ bắc cũng thấy nhiều rồi, tuy không dám nói bách phát bách trúng, nhưng cũng có thể nhìn ra một chút manh mối. Vẻ ngoài của Cốc gia có chút tà khí, nhưng trong lòng thật thà rộng lượng, tuyệt không phải là kẻ gian ác gì. Bằng không, Cốc gia sao lại làm bằng hữu với Lục gia ngài? Nghe Cốc gia nói, liền biết là Cốc gia rất tán thưởng phẩm cách của Lục gia, Trần Song Đắc tôi nếu như có thể được Cốc gia tán thưởng như vậy, cho dù lập tức chết ngay cũng cam chịu". Lục Tiệm mặc nhiên một hồi lâu, chợt nói: "Cốc Chẩn và lão nhân kia đi về hướng nào?". Trần Song Đắc nói: "Đi về phía tây bắc". Lục Tiệm chắp tay nói: "Đa tạ". Nói xong quay người nhấc chân, chạy vội về hướng tây bắc. Lục Tiệm trong đêm tối điên cuồng chạy mấy chục dặm, vẫn chưa nhìn thấy hình bóng xe ngựa. Nên biết những con ngựa kéo xe đó, đều là danh câu Đại Lương, thần tuấn vô cùng, sức người há có thể bì kịp. Lục Tiệm chạy cho đến khi sức cùng lực tận mới chịu dừng chân, nhìn đồng rộng mênh mông, chán nản thất vọng vô cùng. Nghỉ ngơi một lúc, y không có cách nào, chỉ biết dạo bước về phía trước, dọc đường hỏi han người đi đường, nhưng không có chút tin tức, đi được hơn một trăm dặm, Lục Tiệm chợt hiểu ra, hoặc là bản thân đuổi nhầm phương hướng, hoặc là Doanh Vạn Thành ngụy kế đa đoan, dọc đường tiêu hủy tung tích. Tóm lại, dựa vào bản lĩnh của y, muốn đuổi kịp hai người, tuyệt đối đã không còn khả năng. Lục Tiệm nản lòng nhụt chí, đành chuyển hướng đi về phía bắc, chỉ thấy thôn làng bỏ hoang khắp nơi dọc đường, nhà cửa thưa thớt, nhiều mảnh ruộng tốt bị cỏ cây mọc um tùm. Hỏi han nông phu may mắn còn sống, mới biết nơi này nhiều lần gặp phải Oa loạn binh họa, thoạt đầu là Oa khấu xâm phạm cướp sạch, sau đó quan binh lại đến, đám quan binh này vừa nghe thấy danh của Oa khấu, trông thấy từ xa mười tên thì chín tên đã tháo chạy, nhưng đối đãi với bách tính thì lại độc địa tàn nhẫn, không việc ác nào không làm, lại còn có tên chuyên giết bách tính vô tội, cắt lấy thủ cấp, mạo xưng Oa khấu để tranh công. Lục Tiệm càng nghe càng phẫn nộ, kêu: "Chẳng lẽ không còn vương pháp sao?". Người nông phu kia tức giận nói: "Vương pháp cái gì? Có đao thương thì có vương pháp". Lục Tiệm nói: "Đám quan binh này, không có tướng lĩnh ước thúc sao?". Người nông phu đó nói: "Tướng lĩnh thì nhiều, nhưng không có mấy người ước thúc binh sĩ. Ngoại trừ Du lão tướng quân Du Đại Du, binh sĩ của Du tướng quân rất tốt, trước nay không xâm phạm bách tính, nhưng chỉ có một mình y là tướng quân tốt, thì làm được cái việc gì? Lấy ví dụ cho người, Oa khấu đến, thì giống như lược thưa chải tóc, dù sao đi nữa còn lưu lại một chút gầu; còn quan binh đi qua, hừ, thì giống như lược bí, lớn đến nhà cửa, nhỏ đến kim chỉ, không lưu lại cái gì cho ngươi...". Trong lúc nói chuyện, bỗng nghe có người kêu lớn: "Quan binh đến rồi". Người nông phu kia sắc mặt đại biến, nhấc chân chạy vội theo đồng bọn, chui vào núi rùng, khoảnh khắc liền không thấy. Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy một đội quan binh khí thế hung hăng, quất ngựa phi đến, một tên quân quan trong đó tức giận nói: "Đám chân đất này càng lúc càng gian hoạt. Giống như con chuột thành tinh, vừa thấy lão tử thì chuồn mất tăm, hôm nay nếu không lấy được mấy cái thủ cấp, làm sao ăn nói với đại soái được?". Hăn liếc Lục Tiệm một cái, "phì" một tiếng, nói: "Còn có một tên không sợ chết, tiếc là chỉ có một cái đầu, gom lại cũng không đủ số". Nộ khí trong ngực của Lục Tiệm trào dâng, nhưng nghe giọng điệu của người này, không giống như người Chiết Giang, vừa mới cảm thấy nghi hoặc, bỗng thấy tên quân quan đó kẹp ngựa phi đến, vung đao chặt xuống. Lục Tiệm kẹp tay đoạt lấy cương đao, lôi hắn xuống ngựa, lại biến thế "Đa Đầu Xà Tướng, tay phải biến hóa như bóng rắn, trái phải khai cung, vả cho hắn mười mấy cái tát liên tiếp, đánh đến nỗi sao vàng bay loạn trước mắt tên quân quan đó, nhưng lại không sờ được cái nào. Lục Tiệm đánh xong, ném mạnh một cái, quẳng tên đó ngã ngất đi. Đám quan binh nhìn thấy, không tên nào không cả kinh, sợ hãi kêu lên: "Oa khấu, má ơi, là Oa khấu". Lục Tiệm nghe vậy vừa bực vừa buồn cười, thấy đám quan binh đó quay ngựa, ôm đầu chạy như chuột, lập tức buông tiếng kêu dài, thi triển thuật khiêu ma, lướt qua bên cạnh đám người, hai tay biến hóa "Chu Thiên Tướng", lúc lên lúc xuống, lôi đám quan binh đó xuống ngựa, ném mạnh ra xa, bọn quan binh bị quẳng đến sứt đàu mẻ trán, tay chân gãy đoạn, nằm dài trong ruộng, oai oái kêu thảm. Lục Tiệm ném bay tên cuối cùng, nhân thế ngồi lên yên ngựa, quát lớn: "Các ngươi thân là quan quân Đại Minh, nhưng không dám chống trả Oa khấu, chỉ biết hiếp đáp bách tính, vô cùng đáng ghét, hôm nay tạm thời trừng trị các ngươi một chút, nếu sau này còn hành hung, đảm bảm các ngươi đầu rơi xuống đất". Quát xong một tiếng liền quất ngựa đi. Trên đường đi, nơi nơi đều có khói lửa tro tàn, thật giống như lời nguời nông phu kia nói: "Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí", vùng đất Giang Nam phồn hoa, trải qua nhiều lần Oa loạn binh hỏa, trở thành vùng đất của ma quỷ, thành lớn đóng chặt, thành nhỏ coi nghiêm ngặt, bên ngoài thành hoang vu vắng lặng, cỏ mọc lan trên mặt đất, vạn phần thê lương. Cốc Chẩn nhìn thấy thảm trạng dọc đường, nước mắt không kìm được như mưa chảy xuống, chợt nhớ lại lời kệ trước khi lâm chung của Ngư hòa thượng, nghĩ thầm: "Kiếp nhân dục sinh, khổ nhân lạc khổ, sương phi mi thượng, kiếm do tâm xuất; thế gian sang di, chúng sinh đa khổ, quỳnh quỳnh bồ đề, tịch tịch chân như. Chẳng trách nào đại sư trước khi tọa hóa sầu bi bất nhẫn như vậy, bách tính trong thiên hạ thật là khổ". Y nghĩ đến đây, nhìn thế giới bi thảm này, bỗng nhiên có chút giận đời ghét tục, lập tức buông lỏng cương ngựa, mặc cho ngựa đi về phía bắc. Chập tối hôm ấy, thì đến một thôn làng bỏ hoang không người, Lục Tiệm xuống ngựa nghỉ ngơi. Lúc đêm khuya, Lục Tiệm còn chưa ngủ say, bỗng bị tiếng động đánh thức, mở mắt bật dậy, nhấc cửa sổ rách nát ra một khe hở, chỉ thấy hắc ảnh lay động bên ngoài cửa sổ, cũng không biết có bao nhiêu người ẩn náu trong thôn, người nào người nấy khom người rón rén, hành tung quỷ dị. Lục Tiệm thấy vậy cả kinh, bỗng nghe có một người dùng Oa ngữ nói: "Sao trong thôn này lại buộc ngựa?". Một người khác thì nói: "Trong thôn có người không?". Lục Tiệm đánh thót một cái: "Bọn chúng là Oa khấu?" Chỉ nghe người nói lúc đầu chuyển qua dùng Hoa ngữ, thấp giọng quát: "Các ngươi vào phòng lục soát, nếu như có người, lập tức giết ngay". Vài tên khác dùng Hoa ngữ trả lời, lục soát bốn phía. Lục Tiệm nghĩ bụng: "Đám ngườii này một lúc thì dùng Oa ngữ, một lúc lại dùng Hoa ngữ, rốt cục là chân Oa hay là giả Oa?". Trong lúc nghi hoặc, bỗng nghe thấy tiếng cửa ken két vang khẽ, một đạo hắc ảnh mở cửa, lặng yên tiến vào. Lục Tiệm không đợi y lục soát, vội lạng người nhào lên, chặt một chưởng lên cổ hắn, tên kia kêu cũng không kịp kêu, liền lập tức ngã nhào. Lục Tiệm kéo hắn vào góc tường, chợt nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài cửa, có tên dùng Oa ngữ nói gấp: "Bẩm Mao quân, đạo quan binh kia đuổi đến nơi rồi". "Kỳ quái". Tên Mao quân cười nói: "Cũng không biết ai dẫn đạo quan binh này, lại không sợ chết như vậy. Mọi người đi mai phục cho tốt, đợi quan binh vào thôn, nghe ta phát hiệu lệnh bằng súng Điểu, thì nhất tề xông ra chém giết". Có tên nói: "Nhưng con ngựa này rất kỳ quái, người đi lục soát vẫn chưa quay về". Mao quân quả đoán nói: "Binh quý thần tốc, cũng chẳng quan tâm nhiều được nữa". Nói xong, bốn phía trở lên trầm lặng, chắc là đám Oa khấu đều ẩn náu mai phục trong chỗ tối. Lục Tiệm nhấc cửa sổ ra, ngưng thần nhìn đi, chỉ thấy ánh lửa chập chờn phía đằng xa, tiếng bước chân lộn nhộn, tựa như có rất nhiều người tiến lại. Lục Tiệm đang do dự có nên nhắc nhở người đến không, bỗng nghe thấy tiếng một súng Điểu vang lên, một tiếng kêu thảm phía đằng xa, một ngọn đuốc tắt ngúm. Tiếp đó liền nghe thấy tiếng súng Điểu dầy đặc như tiếng rang đậu, bùng bùng vang loạn, chốc chốc có người trúng đạn, thảm thương kêu lên. Trong tiếng súng Điểu, đám Oa khấu ô ô oa oa kêu lên, từ góc tường chui ra, từ mái nhà nhảy xuống, Oa đao trường mâu, múa lên vù vù như gió, bỗng nghe thấy một giọng nói phía bên quan quân sang sảng quát lớn: "Không được lùi lại, kết thành Lưỡng Dực Nhạn hành trận". Tiếng hét còn chưa dứt, liền nghe thấy tiếng sắt thép giao nhau vang lên, hai bên đã giáp lá cà. Lục Tiệm cư trụ lâu trong giao giới Tô Lỗ, nghe ra giọng nói kia là khẩu âm Sơn Đông, bất giác đẩy cửa đi ra, nhìn ra phía đằng xa, chỉ thấy đám Oa khấu như hổ vào bầy dê, làm cho đạo quan binh kia tán loạn, trong đó có vài tên Oa khấu đao pháp cao cường, tay phải cần trường đao năm thước, tay trái cầm thái đao hai thước, ngắn dài cùng xuất, xông vào trận thế của đám quan binh, trái đâm phải chém, giống như cắt bí thái rau. Đạo quan binh kia không chống đỡ được, lùi ra khỏi thôn, bỗng nghe thấy một tiếng hét, hơn trăm tên Oa khấu từ rừng trúc bên cạnh thôn xông ra, chặn mất đường rút của quan binh, tên nào tên nấy nhảy lên xuất đao, thế không thể chặn được. Trong trận của đám quan quân, giọng nói sang sảng kia vẫn trầm ổn, liên tiếp quát: "Lá chắn, phía phải, cung tên, trường thương phía phải, xếp thành Tứ Phương trận...". Nhưng đám sĩ binh vốn tham sống sợ chết, lúc này binh bại như núi, làm gì còn chú ý đến lá chắn cung tên, tên nào tên nấy đều như mất hồn phách, hoặc là nằm sấp đợi chết, hoặc là kéo ngược trường thương chạy tháo mạng, nhưng sớm đã có Oa khấu tung người đuổi theo, một đao một tên, chém ngã tất cả, trước sau không đầy ba nén hương thời gian, đám quan quân tử thương gần hết. Lục Tiệm trông thấy vậy trợn mắt há miệng, y đều không có hảo cảm với đám Oa khấu và quan binh, vốn không định giúp đỡ bên nào, nhưng đám quan quân này vô tich sự như vậy, thì thật là ngoài dự liệu của y. Đám Oa khấu rõ ràng ít người, chúng quan quân rõ ràng nhiều người, ai ngờ dùng nhiều đánh ít, trong khoảnh khắc lại bị đám Oa khấu giết hết, không có một người nào chạy thoát. Trong lúc kinh nghi, bỗng nghe thấy trong trận thế của đám Oa khấu, đồng loạt kêu hay. Lục Tiệm trong lòng kỳ quái, tung người lên nóc nhà, chạy nhanh hơn hai chục trượng, nhảy lên không cúi xuống nhìn, chỉ thấy đám Oa khấu vây thành một vòng tròn, đang xem hai người đánh nhau kịch liệt. Một người ăn mặc theo kiểu người Oa, tay trái cầm thái đao, tay phải cầm trường đao, đao quang như gió mạnh thổi tuyết, phiêu hốt tuyệt luân; người kia là tướng lĩnh Đại Minh mặc mãng bào lân giáp, thể hình cao lớn, râu dài phây phất, trên má tóe vài giọt máu tươi, y dùng một thanh trường kiếm, kiếm chiêu đơn giản không hoa mỹ, nhưng mỗi một kiếm đều cay độc xảo quyệt, thường có thể tìm ra kẽ hở trong làn đao quang, làm cho địch thủ phải tự cứu, song đao của Oa nhân kia tuy nhanh, nhưng nhất thời cũng không làm gì được y. Đám người Oa chắc là lâu rồi mới gặp được đối thủ như vậy, đều xem đến hưng phấn, chỉ chỉ điểm điểm, một tên Oa khấu ăn mặc theo lối người Hán trong bọn cười nói: "Tân Ngũ lang, thế nào rồi, đánh hồi lâu rồi mà vẫn chưa thắng, hay là để ta đấu với y?". Tên người Oa kia tức giận hừ một tiếng, tăng nhanh đao pháp, nhưng đao pháp vừa nhanh lên, liền sinh ra sơ hở, người tướng Đại Minh nhìn thấy rõ ràng, tránh qua trường đao, rung tay xuất kiếm, đâm trúng vào đùi của Tân Ngũ Lang, nhưng không đề phòng thái đao bên tay trái của của Tân Ngũ Lang ném ra như điện, cắm ngập vào đầu vai của y. Hai người áp sát rồi lập tức phân khai, Tân Ngũ Lang tập tễnh lùi sau vài bước, trường đao chống đất, quỳ một chân xuống. Hắn ở trong đám Oa khấu, đao pháp xưng hùng, song đao xông vào trận, trước nay chưa từng bị thương, không ngờ hôm nay lại trúng một kiếm, trong lòng vừa kinh nộ, vừa cảm thấy bội phục, dùng tiếng Hoa cứng ngắc nói: "Kẻ đến báo tên!". Người tướng Đại Minh lật tay rút Thái đao ở vai ra, nghe hỏi liền cười đáp: "Ta là tham tướng Đại Minh Thích Kế Quang". Tân Ngũ Lang thấy y mặc cho máu chảy như trút trên vai, mày không trau, sắc diện không biến đổi, trong lòng bất giác lấy làm lạ, đứng thẳng người lên, trau mày nói: "Thích Kế Quang, cái tên này ta chưa từng nghe qua. Thì ra ngươi không phải là Du Đại Du? Nghe nói kiếm pháp của Du Đại Du cao cường, là Trung Hoa đệ nhất kiếm khách, ta sớm đã muốn gặp, không ngờ ngoài y ra, còn có anh hùng. Tên Oa khấu ăn mặc theo lối người hán cười nói: "Y có anh hùng hơn đi nữa, binh sĩ dưới tay đều là kẻ vô dụng, không chịu nổi một kích. Này, Thích tham tướng, ngươi to gan vô cùng, tướng lĩnh khác đều không dám truy đuổi ta, ngươi ngược lại thì lợi hại, dẫn một bọn vô dụng như vậy, cũng dám đuổi theo, chẳng lẽ ngươi không biết lão tử là ai?". Thích Kế Quang cười cười, đạm nhiên nói: "Ta tất nhiên biết người là ai, nghĩa phụ của ngươi là Uông Trực đứng đầu tứ đại khấu, ngươi tên là Mao Hải Phong, biệt hiêu là Thốn Thảo Bất Sinh, gặp trại giết trại, gặp thành giết thành, ngươi lần này liên tiếp xâm phạm Lạc Thanh, Thụy An, Lâm Hải, giết gần vạn người, nếu như ta không truy đuổi ngươi, thiên lý ở đâu?". "Nói rất hay". Mao Hải Phong vỗ tay cười lớn: "Xem ra uy danh của Mao mỗ lan xa. Nhưng mà, Thích tham tướng, ngươi biết là đuổi đến thì thua, ngươi không sợ chết sao?". Thích Kế Quang nhướng mày, thong thả nói: "Quốc gia gặp nạn, tấm thân này có đáng gì". "Thì ra Thích tham tướng còn là một trung thần". Mao Hải Phong cười ha hả: "Đối phó trung thần, Mao mỗ thích nhất là móc tim của bọn họ ra, xem xem có phải là màu đỏ không". Đám người Oa bất luận là có thể nghe hiểu hay không hiểu, đều cùng Mao Hải Phong cười lớn. Thích Kế Quang cười lạnh một tiếng, lớn tiếng quát: "Bớt nói những lời thừa đi, đến lượt ai lên?". Tân Ngũ Lang sắc mặt trầm lại, vừa định vùng lên, Mao Hải Phong vỗ vỗ vai hắn, hinh hích cười nói: "Tân Ngũ Lang, chân của người không tiện, hay là thôi đi, trận này giao cho ta". Tân Ngũ Lang lộ ra vẻ xấu hổ, nhưng tình hình trớc mắt, không cho phép y tái chiến, chỉ còn cách khập khập khiễng khiễng, lùi sang một bên. Mao Hải Phong tay trái thái đao, tay phải trường đao, bước ra khỏi đám người, cười dài nói: "Thích tham tướng, kiếp sau nếu có làm tướng quân, nhất định phải nhớ kỹ, dẫn quân thì dẫn bọn tốt hơn, chứ đừng dẫn một đám vô dụng". Thích Kế Quang kẹp kiếm quyết, mỉm cười nói: "Túc hạ yên tâm, binh sĩ như của túc hạ, Thich mỗ tuyệt đối không bao giờ dẫn". Lãnh điện lóe qua trong mắt Mao Hải Phong, hắn tức giận hừ một tiếng, hai gối hơi cong xuống, chực lao lên xuất đao, không ngờ một tiếng quát lớn vang lên, như sấm nổ trên trời giáng xuống, đám Oa khấu còn chưa kịp hiểu là việc gì, một một cây trúc xanh biếc to dài phá không quét đến, ba tên Oa khấu bị quét bay ra vài trượng, gẫy xương đứt gân, trong chớp mắt thì mất mạng. Lục Tiệm một quét đắc thủ, lòng tin tăng lên, múa trúc xanh nhanh đến nỗi gió mưa không lọt qua được, vừa quét vừa tiến lại, vẫn là xuất thủ bằng "Thọ Giả Tướng", thu thế bằng "Hầu Vương Tướng". Cây trúc đó là do y nhổ cả rễ ra từ trong rừng trúc ngòai thôn, dài đến bốn trượng, cành lá um tùm, một khi múa lên, nội trong mười trượng, không một ai có thể đứng vững. Lục Tiệm thấy qua bản lĩnh của đám Oa khấu, tên nào tên nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn hẳn đám nhẫn giả chỉ biết tập kích, lập tức toàn lực xuất thủ, không dám thể tình, nơi trường trúc đi qua, đám Oa khấu trúng phải thì chết, chạm phải thì thương, những tên bị thương trong đó đa phần là bị cành trúc quét trúng, da thịt rách toạc, thảm thương vô cùng. Đám Oa khấu dẫu rằng dũng mãnh ngoan cường, nhưng gặp phải binh khí kỳ quặc như vậy, cũng cảm thấy thúc thủ vô sách, bất luận là trường mâu hay trường đao, vừa chạm vào cây trúc đó, đều bị chấn bay. Mao Hải Phong nhìn thấy bộ hạ tử thương cực thảm, không kìm được hét lớn một tiếng, thoắt cái tung người lên, nhẹ nhàng như phi yến, đáp xuống trên thanh trường trúc kia, rồi đạp lên cành trúc thân trúc, đi về phía Lục Tiệm. Lục Tiệm hoảng hồn, đột nhiên rung trường trúc, ra sức giũ một cái, chiêu này vốn là y học trộm từ chỗ của Doanh Vạn Thành, hôm đó Doanh Vạn Thành vài lần dùng cách này rung trúc trượng, muốn chấn thoát tay phải của Lục Tiệm. Lục Tiệm bởi vì có kiếp lực, cảm biết được được biến hóa nội kình của lão, vài lần như vậy, không ngờ lại ghi nhớ. Lúc này theo cách đó một rung một giũ, nội kình thuận theo cành trúc cây trúc truyền ra, Mao Hải Phong chỉ cảm thấy một cỗ tê dại từ hai chân truyền lên đỉnh đầu, ba hồn sáu phách đều giống như bị cái giũ này làm cho rời khỏi thân, bất giác kêu thảm một tiếng, ngã nhào xuống đất. Lục Tiệm thấy vậy, ghìm cây trúc xuống, đè xuống Mao Hải Phong, không ngờ một người tung người nhảy lên, trường đao từ dưới gạt trúng trường trúc. Lực đạo của đao này vô cùng lớn, hổ khẩu của Lục Tiệm phát nóng, định thần nhìn kỹ, kẻ đến chính là Tân Ngũ Lang, bất giác quát lớn một tiếng, lại rung cây trúc trong tay, trường đao của Tân Ngũ Lang lập tức bị chấn bay, nhưng chỉ ngừng một lát này, Tân Ngũ Lang đã đỡ Mao Hải Phong dậy, hai người nâng đỡ lẫn nhau, đồng loạy nhảy lùi lại, tránh khỏi một quét của Lục Tiệm. Lục Tiệm than thầm đáng tiếc, thấy Thích Kế Quang kia đứng cạnh bên trái, liền nói: "Thích tướng quân, đi thôi". Thích Kế Quang nhìn thi thể của quan quân rơi vãi khắp mặt đất, thở dài một tiếng, múa trường kiếm đi vội về phía Lục Tiệm, vài tên Oa khấu muốn ngăn cản, nhưng bị trường trúc của Lục Tiệm đông rung một cái, tây giũ một cái, chấn bay bọn trúng như diều gió, bay bắn lên cao, ngã xuống phía đằng xa, khi rơi xuống đất, không chết thì thương. Hai người Lục Thích hợp lại một chỗ, vừa đánh vừa rút. Đám Oa khấu không dám lại gần, tới tấp kéo cung tên, nhét hỏa dược vào súng Điểu, nhưng cây trúc kia cành lá rậm rạm, được Lục Tiệm rung kình thi triển, trong sát na, giống như một tấm lá chắn lớn dầy đặc không lọt gió, cho dù tên hay đạn chì cũng bị đánh bật ra. Lục Tiệm lùi vào trong rừng trúc, thấy ngựa buộc trên cây, liền nói: "Thích tướng quân, ngài cưỡi ngựa đi trước, ta ở lại đoạn hậu". Thích Kế Quang cười nói: "Tiểu huynh đệ, ngươi coi thường ta rồi. Thích mỗ tuy là tướng bại trận, nhưng cũng không phải là kẻ hèn nhát chạy trốn một mình. Mọi người đi thì cùng đi, chết thì cùng chết". Lục Tiệm nghe vậy hào khí lập tức dâng trào, kêu: "Được, tướng quân đi dắt ngựa, ta ở phía sau, xem bọn chúng có cách gì". Thích Kế Quang cười cười, dắt ngựa ở phía trước, Lục Tiệm kéo ngược trường trúc, bước nhanh theo sau. Đám Oa khấu muốn tiến không được, muốn lùi thì lại cảm thấy bất cam, chỉ biết đứng đằng xa chửi bới, Hai người Lục, Thích thấy vậy khoan khoái, nhìn nhau cười lớn. Thích Kế Quang cao giọng nói: "Mao Hải Phong, tạm thời nhớ lấy trận hôm nay, sau này gặp lại, Thích mỗ nhất định báo đáp". Mao Hải Phong toàn thân còn chưa hết tê dại, được thuộc hạ dìu đỡ, nghe thấy lời này, hổ thẹn căm phẫn không kìm được, lại bị một cây trúc của Lục Tiệm làm khó, nộ khí đầy bụng, nhưng lại không có cách gì. Hai người đi được hai ba chục dặm, đến gần thành trì, đám Oa khấu mới không dám đuổi theo, tức giận thu binh rời đi. Thích Kế Quang thấy kẻ địch rút khỏi, thân hình nhè nhẹ lắc lư, chầm chậm dịch bước, ngồi lên một tảng đá lớn, thần sắc mệt mỏi vô cùng. Lục Tiệm thấy vết thương trên vai y sâu vô cùng, một nửa áo bào đều bị máu tươi nhuộm ướt, lập tức vứt cây trúc xuống, bắt mạch cho y, truyền kiếp lực ra, cảm thấykinh mach của Thích Kế Quang hư nhược tắc nghẽn, rồi đem kiếp lực chuyển hóa thành nội lực, truyền vào trong kinh mạch, chỗ nào rỗng thì bù vào, chỗ nào đầy thì tiết ra. Chân khí di chuyển vài vòng như vậy, vết thương của Thích Kế Quang ngừng chảy máy, tinh lực mạnh dần, chỉ là mất máu quá nhiều, sắc diện lộ ra vẻ tái trắng, mỉm cười nói: "Tại hạ Thích Kế Quang, tự Nguyên Kính, hôm nay bại trận, may được các hạ cứu giúp, xin được hỏi tôn danh?". Lục Tiệm buồn bã nói: "Ta tên là Lục Tiệm, tự cái gì thì không có. Việc hôm nay, đều trách ta. Ta chỉ cho rằng Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn, biết rõ là Oa khấu mai phục, cũng không muốn quan tâm. Nếu như sớm biết ngươi là một tướng quân tốt như vậy, ta đã ra tay trước, các ngươi cũng không đến nỗi toàn quân chết hết. Thích Kế Quang nhìn y, ngạc nhiên hỏi: Tại sao các hạ nói Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn?". Lục Tiệm đem những điều nghe thấy dọc đường kể ra, rồi nói: "Đó gọi là Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí, lão bách tính sợ Oa khấu, nhưng còn sợ quan binh hơn, thậm chí không ít người đầu nhập tứ đại khấu, quay lại đối đầu với quan binh". Thích Kế Quang đứng dậy đi hai bước, than: "Việc mà ngươi nói, tuy rằng ta đến đây chưa bao lâu, cũng có nghe qua, nhưng không ngờ lại đến mức như vậy. Xem ra, quân ta không chỉ đối đầu với Oa khấu, mà còn kẻ địch của bách tính đông nam, há có cái lý không bại chứ? Đáng hận là, đám Oa khấu này còn được lòng dân hơn quan quân Đại Minh ta, chẳng trách nào có thể bị tiêu diệt rồi lại nổi dậy, rốt cuộc không cách gì dẹp yên. Hai người im lặng một hồi, Lục Tiệm hỏi: "Nghe khẩu âm, Thích tướng quân là người Sơn Đông?". Thích Kế Quang đáp: "Thích mỗ là người Bồng Lai ở Sơn Đông, xin đừng nhắc đến hai chữ tướng quân, Thích mỗ lớn hơn vài tuổi, nếu ngươi không chê bỏ, gọi ta một tiếng đại ca là được". Lục Tiệm cười nói: "Quê của đệ rất gần Sơn Đông, Thích đại ca, huynh người SơnĐông, tại sao lại làm quan đánh trận ở Chiết Giang?". Thích Kế Quang nói: "Oa loạn ở Phúc Kiến, Chiết Giang hung hãn nhất, quan quân địa phương không có sức chống giặc, vì vậy triều đình điều động tinh binh thiên hạ đến tăng cường ở Phúc Kiến, Chiết Giang. Nghe nói quan binh trong vùng Chiết Giang, gần thì đến từ Sơn Đông, Giang Tây, xa thì đến từ Lưỡng Việt, Quý Châu, ta vốn ở Sơn Đông phòng Oa, hai năm trước mới đến đây, còn như cầm binh đánh trận, cũng là chuyện trước đây chưa lâu...". Nói đến đây, y dường như hiểu ra điều gì đó, trau mày, bỗng nhiên chìm vào suy nghĩ. Lục Tiệm thấy y bỗng nhiên im lặng không nói, ngạc nhiên hỏi: "Thích đại ca, huynh nghĩ gì vậy?". Thích Kế Quang thở dài một tiếng, than: "Ta bỗng nhiên nghĩ tới một việc quan trọng. Lục huynh đệ, ngươi võ công cao cường, lực địch nghìn người. Nếu như có hai đạo Oa khấu, một đạo xâm phạm xóm làng của ngươi, một đạo xâm phạm xóm làng bên cạnh, ngươi cứu xóm làng mình trước, hay là cứu xóm làng bên cạnh trước?". Lục Tiệm buột miệng nói: "Tự nhiên là cứu xóm làng của mình trước". Thích Kế Quang hỏi: "Vì sao?". Lục Tiệm đáp: "Bởi vì ở xóm làng có gia gia đệ, còn có nhiều bà con quen biết, nếu như thấy chết mà không cứu, há không phải không có thiên lý sao?". Thích Kế Quang gật đầu nói: Nói rất đúng, đó chính là người không vì mình, trờ tru đất diệt, tuy rằng có chút khó nghe, nhưng cũng là cái lý thường tình. Người có thể xem xét kỹ càng đại thế của thiên hạ, suy cho cùng cũng không nhiều; bách tính quê hương đối diện với cái họa diệt vong, tự cứu còn không có thời gian rảnh, há có thể quan tâm đến người khác? Quan binh vùng Chiết Giang quân kỷ bại hoại, sai là ở chỗ quan binh đa phần là đến từ nơi khác, cha mẹ con cái, bạn bèn thân thiết của những người này đều ở quê hương, tự nhiên là cảm thấy bách tính Phúc Kiến, Chiết Giang không liên can gì dến mình, khi đánh trận, đều tham sống sợ chết. Thêm nữa là tướng lĩnh ước thức bất lực, còn có kẻ vô liêm sỉ, ỷ ở nơi đất khách xa xôi, không có người đốc thúc, làm những việc còn ác độc hơn Oa khấu gấp mười lần". Lục Tiệm bỗng nhiên hiểu rõ, buột miệng nói: "Đúng vậy, đệ trên đường đi, thấy quan binh tác ác, nói chuyện đều không phải là tiếng địa phương Ngô Việt, giọng nam điệu bắc, vùng nào cũng có". Thích Kế Quang gật đầu nói: "Cho nên nói, nếu như dùng binh, không bằng dùng bà con địa phương, bọn họ tuy không hiểu quốc gia đại nghĩa gì, nhưng nếu như canh giữ quê hương, an nguy của cha me vợ con gần ngay trước mắt, Lục huynh đệ, đổi lại là ngươi, ngươi sẽ làm gì?". Lục Tiệm khảng khái nói: "Đệ tất nhiên thề chết khổ chiến, tuyệt đối không lùi lại nửa bước". "Nói rất hay", Thích Kế Quang vỗ tay nói: "Đó gọi là đánh hổ phải cần huynh đệ ruột thịt, ra trận phải cần cha con. Muốn dẹp yên Oa khấu, việc đầu tiên là giải tán binh mã bốn phương, luyện một đội quân con em vùng Chiết Giang, nếu như có một đội tinh binh như vậy trong tay, đám Oa khấu không đáng để nói. Lục Tiệm nghe vậy sóng lòng trào dâng, nhất thời cũng không biết nói gì mới tốt. Chợt thấy Thích Kế Quang vì quá kích động, động đến vến thương, lộ ra vẻ đau đớn. Lục Tiệm cuống quít bước lên, truyền nội lực vào. Thích Kế Quang đau đớn giảm đi, mỉm cười nói: "Lục huynh đệ, lại phiền ngươi rồi"