guyễn Phúc Chu là người kế nghiệp, chỉ mới mười bảy tuổi. Đó là người văn hay chữ tốt, được nuôi ăn học cẩn thận đủ tài văn võ, hay ăn chay niệm Phật và lấy hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân, còn được gọi là Quốc Chú Minh Vương. Chúa cho xây một loạt chùa chiền, riêng chùa Thiên Mụ và chùa Mỹ Am thường mở nhiều hội lớn. Sau khi lên ngôi chúa chưa yên vị, vua Kế Bà Tranh của nước Chiêm Thành không tiến cống, mà còn thường mang quân sát hại dân Việt tới tận Nha Trang. Chúa rất yêu thương dòng họ Nguyễn Hữu, nên đặt niềm tin vào Nguyễn Hữu Cảnh rất nhiều. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống Suất hành quân vào miền trong để tìm đánh quân Chiêm Thành. Đời người chín chắn nhất từ quảng bốn mươi đến năm mươi, Nguyễn Hữu Cảnh giờ đã bốn mươi hai và là người rất ôn hòa. Lúc can gián, lúc hăng hái, lúc cần không nói gì đều hành động phải lẽ. Giờ chàng dồn hết tâm sức giành cho nước Việt và yêu thương dân lành như con. Khi chúa phong cho mình chức Thống lĩnh. Nguyễn Hữu Cảnh rất ý thức trọng trách mình được giao phó và lần này chàng quyết vào nước Chiêm đánh bắt cho được vua Chiêm Thành giao nộp cho chúa công. Người ngựa hành quân vào đất Ninh Thuận, Nguyễn Hữu Cảnh cảm thấy thương xót cho một đất nước giờ chỉ còn lại hai phủ, mà trước từng là đế quốc xâm lược Ăngkor hùng mạnh. Giờ chàng đang chuẩn bị đối đầu với nhà vua nước ấy, nhưng lực lượng không còn bao nhiêu, sớm chiều ắt không còn giữ được. Tuy thương xót nhưng trên chiến tuyến khó mà nương tay, vua Kế Bà Tranh thường mang quân quấy nhiễu. Giờ chàng nhận lệnh phải trừng trị, làm tướng thì chàng phải trung thành với chúa thượng mình. Một nhánh quân khác do tham mưu Nguyễn Đình Quang theo đường biển, ghé vào đổ quân ở mũi Né. Phó tướng bắt đầu khiêu chiến từ biển, đánh rát từ biển đông vào. Vua Kế Bà Tranh sớm vội rút lui lên miền rừng núi Đơn Dương, nhưng Nguyễn Hữu Cảnh đã chia quân phục kích ở đó từ lâu rồi. Chàng không cho quân lính giết vua Chiêm Thành, quyết bắt sống như mong muốn ban đầu. Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh tài nghệ bắt được vua Bà Tranh đem về Phú Xuân để chúa trị tội, chiếm được đất Bình Thuận nhưng vẫn giao cho em trai của Bà Tranh là Kế Bà Tử làm đề đốc trấn giữ, bắt dân chúng mặc y phục người Việt để dần cải hóa họ. Nước Chiêm Thành chỉ còn hai Trấn nhỏ bé, biết sớm muộn cũng thuộc về người Việt. A Bân thuộc nhóm người Thanh dấy loạn, xúi giục dân Champa quấy rối sự cai trị của Chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Cảnh lại phải vào đất Ninh Thuận và lần này đặt phủ Bình thuận ở Phan Rang, Phan Rí. Lúc bấy giờ cũng ở phía trong, vua Nặc Thu nước Chân Lạp cho rằng vua Nặc Nộn ở Gia định đã đầu hàng chúa Nguyễn giờ họ muốn đòi đất lại. Chúa Nguyễn Phúc Chu muốn Nguyễn Hữu Cảnh đến xứ Đồng Nai đặt Đại Bản Doanh nơi đó, phòng khi có loạn thì trấn áp kịp lúc. Nguyễn hữu Cảnh nhận lệnh và theo đường biển ngược dòng Đồng Nai, đến Cù Lao Phố. Trần Thượng Xuyên đã tạo dựng nơi đây thành một thương cảng sầm uất, dù là một người hướng đến chính trị hơn Dương Ngạn Địch nhưng dù sao Nguyễn Hữu Cảnh cũng muốn thuyết phục ông ta cho dân Việt vào đây cùng mưu sinh với người Minh hương và Khmer. Hai người dạo bước qua những con đường làng gốm sứ, Nguyễn Hữu Cảnh tâm tình:- Sẵn dịp, ta đặt Bản doanh ở đây rất muốn Trấn Biên để người Việt cùng khai khẩn. Trần Thượng Xuyên không dám trái lời, đồng tình:- Đất nơi đây còn nhiều vùng còn hoang hóa, khai khẩn đất hoang để hung thú không còn nơi quấy nhiễu.- Ta cũng có ý muốn để dân Việt học hỏi nghề người Minh Hương, cùng tạo dựng làng ấp để trông chừng giặc giã từ phía Tây. Khi đặt bản doanh ở Cù Lao Phố, Nguyễn Hữu Cảnh cho Nguyễn Hữu Tín về Bố Chính nơi quê nhà, kêu gọi mọi người vào Nam để khai khẩn vùng đất Biên Hòa còn hoang hóa. Lúc bấy giờ, việc khai khẩn vùng đất mới là một xu hướng. Cho nên, mọi người ùn ùn vào Nam, để tìm nơi đất mới lập nghiệp. Câu nói: "An cư lập nghiệp" cũng bắt đầu từ đây. Một người Bắc Bố Chính, bị đem đến chỗ quan Thống Suất. Mọi người nói rằng người này sống ở đất Đàng Ngoài, theo vào ắt có mưu lược từ quân Trịnh. Nguyễn Hữu Cảnh nhớ lại chuyện của Thị thừa, nên không thể qui tội oan cho người đó mà phán rằng:- Ở đây đất đai còn hoang hóa mênh mông, nhưng toàn là sình lầy rừng rậm. Nhân lực vẫn còn yếu kém, chi bằng ngươi vào nơi hiểm nghèo, khai phá chỗ khác mà tránh được nghi ngờ. Bố Chính dù sao cũng là quê hương mình, nên người ở đấy được chiêu dụ vào. Lễ Thành Hầu không nỡ đối đối xử phân biệt, nhất là nơi đất khách làm họ bị chơi vơi. Nhiệm vụ của mình là bảo vệ cho dân tình thế thái an nhàn. Buổi ban đầu người Việt tự phát, thiếu tính rạch ròi mạnh ai nấy sống. Thế nhưng phía trước còn nhiều gian nan thử thách, cần người gan dạ xông pha vào nơi hoang vu. Từ đấy, Nguyễn Hữu Cảnh hoạch định cương giới xóm làng, ổn định dân sinh. Xứ Đồng Nai giờ trở hành huyện Phước Long, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Nguyễn Hữu Tín, cùng với Nguyễn Hữu Hào cùng vào cai quản. Tất cả dân số người Minh Hương đều nhập sổ bộ Đại Việt. Giờ họ không còn luộm thuộm, nhếch nhác mà có qui cũ đâu vào đấy, có xã làng Thanh Hà và Minh Hương dành cho họ. Lúc bấy giờ, hoàng tộc nước Chân Lạp vẫn luôn tranh chấp quyền bính. Họ còn sợ người Việt tiến chiếm các vùng đất phía Tây. Năm 1699, vua Nặc Thu đem quân tiến công Đại Việt. Chúa Nguyễn lại sai Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, cùng với phó tướng Phạm Cẩm Long, tham tướng Nguyễn Hữu Khánh, cùng hợp quân với Trần Thượng xuyên, dùng thuyền chiến đi theo đường sông đánh thẳng đến thành La Bích (Nam vang), đánh quân Nặc Thu tan tác. Sau khi vua Chân Lạp qui hàng, Nguyễn Hữu Cảnh trở về ghé thăm mọi nơi có người Việt sinh sống. Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân tới đâu được dân chúng ủng hộ lính tráng của mình tới đó, đồng thời khích lệ dân chúng Hoa, Việt, Khmer giữ gìn tinh thần đùm bọc, thân thiện, yêu thương nhau như người một nhà. Nguyễn Hữu Cảnh làm cho người dân thực lòng yêu mến. Đang trên đường trở về thành Gia Định, tháng 4 năm 1700 đến Châu Sao Mộc ông mở tiệc để khuyến lạo binh lính, uống rượu quá đà rồi bị thổ huyết, gấp rút đưa về đến Mỹ Tho thì mất. Quan Tài tiếp tục mang về Trấn Biên để cho hai anh em trông coi, chúa Nguyễn Phúc Chu thương tiếc sắc tặng là Hiệp Tán Công Thần, thọ 50 tuổi. Có một bài thơ truyền tụng công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn truyền tụng tới nay:Từ ngày vâng lịnh Trấn Bình Khương,Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường,Vun bón cột nền nơi tổ phụDãi dầu tên đạn giúp quân vươngGiặc ngoài vừa nép bên màn hổSao tướng liền sa giữa giọt tương! Hết3/1/2010 - 15/8/2011