Giả thử chúng ta nhìn Nho học bằng khái niệm tổng quát, thì thấy Khổng Tử thuộc về đạo "Nhân", Mạnh Tử thuộc về đạo "Nghĩa", còn Tuân Tử thì thuộc về đạo "Trí". Nhân giả, giàu tình thương, có lòng thành khẩn và tâm hồn quảng đạt; Nghĩa giả, cương trực tiết tháo, thị phi phân minh, biểu lộ khí phách hiên ngang, độc lập của phần tử trí thức; Trí giả, nhận xét sự vật bằng lý tính, phải là phải, trái là trái, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm. Dùng lý trí khách quan của Tuân Tử, bổ túc cho đạo đức chủ quan của Khổng - Mạnh, giúp cho chủ thuyết Nho học càng hoàn hảo hơn, hội đủ điều kiện tất yếu, vừa là giáo phái, vừa là học phái. Phần bổ túc đó, có ba điểm trọng đại nhất sau đây:1/- Túc dục: Khổng Tử từng chủ trương "tiên phú hậu giáo" Mạnh Tử cũng từng khuyên vua chúa, nên hữu sản hóa cho lê dân, chứng tỏ Nho học đã có sẵn quan niệm "túc dục" (thỏa mãn cho đòi hỏi). Song, quan niệm đó, vô tình lại mâu thuẫn với giá trị căn bản trong tư tưởng Khổng - Mạnh, như Khổng Tử từng bảo: "Quân tử mưu đạo bất mưu thực". Và Mạnh Tử cũng kêu gọi người đời nên "quả dục" (bớt đòi hỏi đi). Trái lại, giá trị căn bản của Tuân Tử bất do Nhân, bất do Nghĩa mà đánh giá vào chữ LỄ". Một trong những công hiệu của Lễ, là "Dưỡng nhân chi dục cấp nhân chi cầu”. (Chấp nhận những đòi hỏi chính đáng của người ta, và thỏa mãn theo nhu cầu cho người ta). Cho nên Tuân Tử đề xướng chính sách tăng gia sản xuất cho nước giàu mạnh, đặng có đủ điều kiện "túc dục" cho dân.2/- Hợp quần: Đây là tư tưởng xã hội của Tuân Tử với câu: "Lực bất nhược ngưu, tẩu bất nhược mã, nhi ngưu mã vi dụng hà giã? Viết: Nhân năng quần, bỉ bất năng quần... Cố nhân sinh bất năng vô quần, quần nhi vô phấn tắc tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc ly, ly tắc nhược, nhược tắc bất năng thắng vật... Năng dĩ sư thân vị chi hiếu, năng dĩ sư huynh vị chi dễ, năng dĩ sư thượng vị chi thuận, năng dĩ sư hạ vị chi quân. Quân giả, thiện quần giã, quần đạo đương, tắc vạn vật giai đắc kỳ nghi". (Sức chẳng mạnh bằng trâu, chạy chẳng nhanh bằng ngựa, sao trâu ngựa lại để cho ta khiển dụng? Câu trả lời là: Người ta biết hợp quần, trâu ngựa không biết hợp quần... Cho nên người ta sinh ra chẳng thể không hợp quần, nhưng đã hợp quần mà không định phận là tranh giành nhau, hễ tranh là loạn, loạn thì chia rẽ nhau, chia rẽ nhau thì yếu, đã yếu thì chẳng thành tựu được việc gì cả... Biết lấy đạo hợp quần mà thờ song thân gọi là hiếu, biết lấy đạo hợp quần mà trọng đàn anh, gọi là đễ, biết lấy đạo hợp quần mà kính bề trên, gọi là thuận, biết lấy đạo hợp quần mà xử kẻ dưới, gọi là chúa. Người làm chúa phải giỏi đạo hợp quần, đạo hợp quần tốt, là tất cả mọi sự vật đều được giải quyết một cách thỏa đáng). Đoạn văn này của Tuân Tử gồm có bốn điểm chánh sau đây:(1) Hợp quần là một trong những đặc tính của loài người. Nói khác đi, con người là loài động vật có đặc tính xã hội, nhờ vậy mới ưu việt hơn các loài động vật khác. (2) Hợp quần tốt, là một phương thức giải quyết được các vấn đề phân tranh trong xã hội.(3) Hợp quần cũng là một phương cách, tiến hành sự việc chung trong xã hội, và mọi người đều có vị trí cùng quyền lợi tương xứng.(4) Tuân Tử muốn lấy đạo hợp quần thay thế cho giá trị cũ của đạo hiếu đễ. Nghĩa là, một khi con người ta đã góp phần cống hiến thích đáng cho xã hội, thì kể như đã làm tròn bổn phận trong đạo Hiếu và Để rồi.3/- Bình đẳng: Khổng Tử từng chủ trương bình đẳng về kinh tế, như câu: "Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân". (Chẳng lo ít, chỉ lo chia không đều), nhưng tư tưởng bình đẳng của Tuân Tử thì hướng về địa vị xã hội nhiều hơn.Bởi vì đưa ra chủ trương bình đẳng về kinh tế, trong lúc xã hội cổ Trung Quốc còn rất nghèo nàn về điều kiện vật chất, xét ra chẳng có ý nghĩa gì cho lắm. Trái lại, ý thức bình đẳng về địa vị xã hội, mới đúng là một đòn đả kích mạnh, nhắm vào chếđộ phong kiến, một thể chế chính trị bất hợp lý của tầng lớp quý tộc. Riêng về điểm này, Tuân Tử đã nói rất rõ: "Tuy vương, công, sĩ đại phu chi tử tôn, bất năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi thứ nhân; tuy thứ nhân chi tử tôn giã, tích văn học, chánh thân hạnh, năng thuộc ư lễ nghĩa, tắc quy chi khanh tướng, sĩ đại phu'. (Dù là con cháu của bậc vương công, sĩ đại phu chăng nữa, nếu chẳng vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên đánh xuống hạng thường dân; tuy là con cháu của thường dân, giá như có học thức cao, hạnh kiểm tốt, thuộc vào khuôn phép Lễ Nghĩa, thì nên nâng lên hàng khanh tướng, sĩ đại phu).Tuân Tử có thể kết luận là, một triết gia theo chủ nghĩa nhân bản. Ở Trung Quốc, Khổng Tử là người khởi xướng chủ nghĩa nhân bản, nhưng so sánh ra thì, chủ nghĩa nhân bản của Tuân Tử có nhiều tiến bộ hơn. Một là, tuy Tuân Tử cũng nhiệt tình với nền văn hóa truyền thống, nhưng không có ý phục cổ, trái lại, còn rất mạnh dạn phê bình người xưa. Ngoài Khổng Tử ra, ít có nhân vật tiêu biểu nào trong các học phái thời Chu Tần, thoát khỏi lời phê bình của Tuân Tử, kể cả Mạnh Tử và Tử Tư. Tuy nhiên, khi phê bình, Tuân Tử luôn luôn đứng vào cương vị học thuật để đánh giá tư tưởng của người khác. Hai là, Tuân Tử chú trọng thực tiễn hơn là lý thuyết suông, cho nên luôn luôn nhấn mạnh vấn đề chính trị xã hội, gạt bỏ mọi ý tưởng than thoại ảo huyền, theo đuổi lý tưởng giải phóng con người. Đáng liếc là, lừ đời Chu Tần trở đi, xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội nặng về truyền thống, chính trị Trung Quốc vẫn là chính trị chuyên chếvua quan, thiếu các chất tố dân chủ khoa học như trong xã hội Tây phương, rút cuộc phong trào nhân văn, mà các triết gia thời Chu Tần đã khởi xướng trước đây trên hai ngàn năm, bị mai một từ đời nọ qua đời kia.