úc này tiếng phá cửa càng lớn, Cốc Chẩn nói: - Lục Tiệm, ngươi đem thằng cha này vào trước đi. Lục Tiệm đem theo Từ Hải tiến vào đường hầm, Trầm Tú theo sau. Diêu Tình vừa định vào theo thì chợt thấy Cốc Chẩn dập tắt hết toàn bộ đèn đuốc trong đại sảnh, bất giác tỉnh ngộ: “Đúng rồi, trong đường hầm tất có cơ quan để chuyển hình đầu thú về hồi phục cơ quan. Nếu không ai dập tắt đèn đuốc thì Oa khấu phá của xong, những kẻ thông minh dựa vào chỗ sơ hở có thể nhìn ra bí ẩn bên trong. Chỉ có cách dập tắt hết ánh sáng thì mới có thể khiến đám tặc khấu đó không đoán ra.” Nghĩ đến đó thì rất hận bản thân mình lúc nào cũng nghĩ ra sau hắn, liền không kìm được thầm mắng một tiếng: “Xú hồ ly” rồi mới hậm hực tiến vào đường hầm. Cốc Chẩn cũng tiến vào sau, lối vào tuy nhỏ nhưng vào trong rộng dần ra. Cốc Chẩn sờ mó một lúc đã tìm ra được một cái vòng sắt, xoay bốn vòng liền nghe tiếng ken két rồi khối đá lớn đó lại lấp vào chỗ cũ. - Cốc huynh lợi hại. – Trầm Tú đột nhiên âm trầm nói – Trầm mỗ dù không muốn bội phục cũng khó. Cốc Chẩn nghe trong lời nói của hắn có sự thù hận liền cười nói: - Không biết thương thế của Trầm huynh thế nào, có cần tiểu đệ dìu đỡ nữa không? - Không dám để Cốc huynh phí lực. – Trầm Tú lạnh nhạt nói – Trầm mỗ khá hơn nhiều rồi. Trải qua việc này, hắn vô cùng úy kỵ với Cốc Chẩn, chỉ sợ y mượn việc dìu đỡ để ám hại mình nên đành nhịn đau tự đi lấy. Cốc Chẩn lại càng nhẹ nhàng nhàn rỗi, đi bên cạnh hắn, vừa đi vừa suy nghĩ, hỏi han chỗ chân tay bị thương của Trầm Tú. Trầm Tú lúc này rơi vào thế yếu, ngoài mặt chỉ cười nhạt, trong lòng thì lại âm thầm cay độc: “Tiểu tử thối, đợi lên tới mặt đất sẽ cho ngươi biết ông nội đây lợi hại thế nào.” Cứ đến lối rẽ lại tìm mốc chỉ đường như vậy, mọi người đi trong mê cung hết nửa giờ thì đột nhiên bị một bức tường chặn lối. Diêu Tình vừa định tìm mốc chỉ đường thì đột nhiên thét lên một tiếng, cây nến rơi xuống đất, đường hầm trở nên tối đen. Lục Tiệm, Trầm Tú đồng thanh nói: - Sao thế? Diêu Tình toàn thân run bần bật, nói không ra lời. Cốc Chẩn cúi người sờ tìm cây nến đốt lên lại rồi đưa mắt nhìn tới thì thấy góc tường phảng phất có một cái xác người, chắc là chết đã lâu nên đã biến thành một bộ xương khô, mới liếc mắt nhìn thấy thì quả thật khiếp người. Cốc Chẩn quay đầu lại, thấy Diêu Tình mặt trắng bệch, sự khiếp sợ trong ánh mắt còn chưa tan hết, bất giác cười nói: - Đại mỹ nhân cũng có lúc khiếp sợ sao? Ha ha, tuyệt lắm, tuyệt lắm. Diêu Tình nghiến răng nói: - Xú, xú hồ ly, muốn, muốn chết ư? Ngoài miệng tuy cứng cỏi nhưng thực ra vẫn đang khiếp sợ, hai chân run lên từng hồi cơ hồ không đứng vững. Cốc Chẩn cười lên mấy tiếng rồi đột nhiên ngừng lại, nhìn bộ xương khô đó có vẻ kinh hãi. Lục Tiệm cũng ngạc nhiên nói: - Người này tại sao lại chết ở đây? Cốc Chẩn cúi người xuống nhặt lên một mảnh áo của bộ xương khô, chợt nói: - Mảnh áo này là của hoàng gia. Mọi người nghe vậy đều kinh hãi, Cốc Chẩn đưa mảnh áo đó lên nói: - Các ngươi nhìn xem, mảnh áo này vốn là màu vàng tươi, có thể nói không chỉ là vật của hoàng gia mà còn là quần áo hoàng đế thường dùng. Mọi người càng kinh hãi, Lục Tiệm nói: - Chẳng lẽ ông ta là hoàng đế? Cốc Chẩn không đáp, đưa tay dò tìm trên bộ xương khô một lúc, tìm được một cái túi màu vàng, lúc mở ra chỉ thấy một cái ấn ngọc, quai hình rồng, góc bịt vàng, trong suốt đẹp đẽ, bị ánh lửa chiếu vào liền phát ra hào quang khắp đường hầm. Cốc Chẩn đảo ngược ấn, chữ trên chân ấn là chữ triện, bất giác đọc ra: - Thụ mệnh vu thiên, kí thọ vĩnh xương… (Chịu lệnh của trời, sống lâu thịnh vượng – đây là dòng chữ thừa tướng Lý Tư đời Tần Thủy Hoàng khắc lên ngọc tỷ truyền quốc). Đọc đến đó, hắn đột nhiên im bặt, lộ ra vẻ chấn động, lại nhìn lại cái túi đó thì là một cái bao toàn màu vàng, bề mặt nhăn nhúm, có mấy chữ màu đen: “Nghịch thúc soán quốc, ác nô bội chủ, phục tích vô vọng, thiên thu hữu hận, khả hận, khả hận,…” (Chú ruột phản nghịch cướp nước, gia thần phản bội chủ nhân, không còn hy vọng phục hồi, ôm hận nghìn thu, đáng hận, đáng hận…) Sáu chữ “đáng hận” liên tiếp nhau, lúc đầu thì còn rõ ràng, dần dần nét chữ tán loạn, viết đến cuối cùng thì gần như không còn nhìn ra được chữ nữa. Lục Tiệm không kìm được, nói: - Đó là cái gì? Cốc Chẩn thở dài nói: - Đó là một bức huyết thư, người này trước khi chết đã viết ra, vì đã lâu năm nên máu biến thành màu đen rồi. Lục Tiệm nói: - Người này cuối cùng là ai? Tại sao lại chết ở đây? Cốc Chẩn nói: - Di thư này đã nói rất rõ ràng, ông ta vốn là một vị hoàng đế, nhưng gặp chú ruột phản bội, đoạt lấy giang sơn của ông ta, sau đó thủ hạ của ông ta cũng phản bội, muốn hại ông ta. Trước lúc chết ông ta đã chạy trốn đến đây rồi cô độc chết đi. Lục Tiệm kinh hãi nói: - Có hoàng đế xúi quẩy như vậy ư? - Có chứ. – Trầm Tú lạnh nhạt tiếp lời – Cháu nội của Chu Nguyên Chương là Kiến Văn hoàng đế Chu Doãn Văn lúc tại vị thì chú của ông ta là Yến vương Chu Lệ tạo phản, đánh vào Nam Kinh chiếm ngôi vua của ông ta, sau đó cung thành bị đốt cháy, vị Kiến Văn Đế đó không biết thất lạc ở đâu… Nói đến đó, hắn ngưng thần nhìn cái ngọc ấn trên tay Cốc Chẩn, liên tục phát ra ánh mắt kỳ lạ. Cốc Chẩn lại mở long bào, nói: - Trước khi ông ta tới nơi này đã bị trọng thương. Mọi người định thần nhìn tới, chỉ thấy ngực trái của bộ xương khô đó có bốn xương sườn bị gãy cắm vào bên trong. Trầm Tú nói: - Đó là vết thương của Thiết Sa chưởng. Mọi người trong lòng đều có cảm xúc, đường hầm nhất thời trở nên im ắng, không khí âm sâm tràn đầy trong đường hầm khiến người ta dựng cả tóc gáy. Qua một lúc, Cốc Chẩn đột nhiên phá vỡ im lặng: - Ông ta bị thương như vậy thì không cách nào đi xa được, lối ra của đường hầm này tất không xa ông ta đâu. Hắn nhìn xung quanh nhưng không thấy dấu hiệu gì, trong lòng nghi hoặc ngưng thần nhìn thi thể đó, đột nhiên vòng tay nói: - Hoàng đế lão ca, đắc tội, đắc tội. Nói xong cúi người kéo hài cốt đó ra, góc tường dưới hài cốt quả nhiên lộ ra một cái vòng sắt. Cốc Chẩn cầm vòng sắt kéo về phía sau, kéo ra được ba thốn thì nghe tiếng ầm ầm nổi lên rồi bức tường bên trái chuyển động, lộ ra một cánh cửa. Một luồng uế khí liền ập vào, mọi người vội vàng lùi lại mấy bước, đợi uế khí tiêu tán rồi mới đi vào bên trong. Cốc Chẩn giơ nến soi đường, đột nhiên nói: - Cẩn thận. Mọi người nhìn tới thì trong cửa là một đoạn đường hầm, nhưng trên tường dưới đất đều cắm đầy mũi tên, gần cửa có một bộ hài cốt đang nằm, áo gấm giày mũi, trên người còn lộ ra mấy đầu mũi tên, trong tay nắm chặt một cuộn giấy. Cốc Chẩn lấy cuộn giấy đó, không ngờ người chết nắm rất chặt, dùng lực một chút thì mấy tiếng răng rắc vang lên, năm đốt xương tay trắng hếu đã rơi xuống đất. Cốc Chẩn cười nói: - Tội quá, tội quá. Rồi mở cuộn giấy ra xem, khóe miệng hiện lên nụ cười. Lục Tiệm hiếu kỳ nói: - Viết gì vậy? Cốc Chẩn nói: - Đây là chiếu thư truyền quốc Chu Nguyên Chương viết cho cháu nội là Kiến Văn Đế. Lục Tiệm nói: - Có hữu dụng không? - Rất rất hữu hụng. – Trầm Tú tiếp lời nói – Có đạo chiếu thư này là đủ để chứng minh Kiến Văn hoàng đế là chính thống, Thành Tổ hoàng đế là phản nghịch, vì vậy các hoàng đế Đại Minh tiếp nối Thành Tổ hoàng đế đều là kẻ phản nghịch cướp ngôi, không được quyền cai quản thiên hạ. Lục Tiệm nghe mà kinh hãi, nhưng lại thấy Cốc Chẩn cười nói: - Đó chẳng qua là nói miệng thôi. Chu lệ cho dù phản nghịch nhưng chiếu thư này trải qua bao năm, cuối cùng cũng chỉ là một vật chết, sao có thể so được với trăm vạn quân ủng hộ thiên tử đương thời. Những năm đó ai có binh mã thì người đó làm hoàng đế. Trầm Tú hừ lạnh một tiếng, nói: - Nếu thật như vậy thì vì sao Thành Tổ hoàng đế phải buộc Tam Bảo thái giám bảy lần tới Tây Dương để tìm tung tích của Kiến Văn hoàng đế? Phải ra công mất sức như vậy chẳng phải vì chiếu thư truyền quốc và ngọc tỷ truyền quốc kia sao? - Ngọc tỷ truyền quốc gì vậy? Cốc Chẩn giả vẻ ngạc nhiên. Trầm Tú cười nhạt nói: - Bớt nói bừa đi, đừng tưởng ta chưa nhìn thấy, ngọc tỷ truyền quốc đó đang ở trong tay áo ngươi. Cốc Chẩn cười cười, không hề phủ nhận, lại kiểm tra thi hài đó, tìm ra một tấm kim bài làm bằng gỗ tử đàn, trên đó viết: “Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ, thái tử thiếu bảo, Trung Thành bá Trương”. Cốc Chẩn bất giác cười nói: - Tên thủ hạ phản chủ này lại là một viên quan lớn đây. Mọi người thấy tình hình đó đều hiểu rõ ràng, nghĩ tới năm xưa thành phá nước mất, Kiến Văn Đế đem theo thị vệ thân tín định theo đường hầm bí mật này trốn khỏi cung thành, không ngờ tên thủ hạ phản bội này lâm trận thay đổi chủ ý, mưu đồ phản nghịch, muốn bắt Kiến Văn hoàng đế giao cho Chu Lệ. Nhất thời vị hoàng đế yếu đuối và tên thị vệ tấm lòng phản trắc đã đả đấu trong đường hầm tối tăm này, cuối cùng kẻ phản nghịch bị cơ quan trong đường hầm đả thưuơng, nhưng Kiến Văn Đế cũng trúng một chưởng, tuy cố gắng phát động cơ quan ngăn kẻ phản nghịch phía sau nhưng cuối cùng thương thế quá nặng, chết một cách thê lương. Nghĩ đến sự kinh hiểm thảm liệt lúc đó, mọi người không khỏi thương cảm, chỉ có Diêu Tình nhìn thấy xác chết thì lại nghĩ đến những sự việc đã qua, vô cùng phiền muộn liền hối thúc: - Bất kể là hoàng đế hay nô tài, đã là người chết thì có gì hay mà nhìn, còn không mau đi thôi? Lục Tiệm nói: - Nhưng mấy thi thể này xử lý thế nào? Cốc Chẩn nói: - Đế vương cũng được, phản nghịch cũng xong, một khi đã chết đều biến thành xương trắng. Mê cung này quy mô rộng lớn, không thua gì mộ của vua chúa, để làm phần mộ cho bọn họ cũng thích hợp. Liền cầm nến đi tiếp, Diêu Tình chỉ sợ còn có thi hài nên không dám tranh đi trước với hắn. Đi tiếp như vậy một lúc thì chợt có cầu thang bằng đá hướng lên gần như thẳng đứng. Đi được ba mươi bước thì chạm phải trần động, Cốc Chẩn tìm được một cái then thô ráp to bằng cánh tay, đẩy lên thì trần động cũng mở ra, gió lùa vào mang theo không khí trong lành. Cốc Chẩn ngửng đầu nhìn lên thấy bầu trời thênh thang, tinh tú sáng ngời, trong lòng không kìm được trào lên hào khí vô biên. Mọi người ra khỏi đường hầm bí mật, trừ Từ Hải thì ai cũng có ít nhiều vẻ vui mừng. Chỉ thấy xung quanh hoa cỏ ngập tràn, cây lay bóng động, xa xa cung điện chập chùng, tạo nên bóng đen trải dài dưới ánh trăng. Lục Tiệm không nhẫn nại được nói: - Đây là chỗ nào? Cốc Chẩn nói: - Đây là cung thành cũ của Nam Kinh. Lục Tiệm cả kinh, Diêu Tình cũng nhíu mày liễu, Trầm Tú thì cười hắc hắc nói: - Hay lắm, chỉ cần kêu lên một tiếng là mọi người đều mất mạng. Cốc Chẩn liếc hắn một cái, cười nói: - Vậy sao ngươi không thử xem. Trầm Tú hừ một tiếng, ánh mắt vô cùng thâm trầm. Cốc Chẩn quay người lại, nhìn cửa lối ra kia, lắc đầu nói: - Có câu: “Sáng suốt trông xa ngàn dặm nhưng không thể nhìn thấy việc ngay trước mắt, ánh nến chiếu khắp thiên hạ nhưng không soi sáng được dưới chân nến.” Chu Lệ vì tìm kiếm Kiến Văn Đế mà đã tìm khắp Trung Quốc, bảy lần tới Tây Dương nhưng không ngờ rằng kẻ đối đầu này lại nghiễm nhiên nằm dưới lòng đất thành Nam Kinh. Nói đến đó, hắn ngừng lại một chút rồi lại nói: - Đường hầm bí mật này là Chu Nguyên Chương lúc tu sửa Nam Kinh xây dựng nên, đáng tiếc ông ta không phải dùng đến mà lại phải dùng cho cháu nội của mình. Nói xong đẩy móc đá chặn cửa động, dưới móc đá có cơ quan, móc vừa khớp lại thì then sắt cũng rút vào bên trong. Lối ra nằm trong Ngự hoa viên, màn đêm tối đen, không thấy bóng người, chỉ có tiếng côn trùng rả rích từng hồi khiến người ta cảm thấy vui vẻ. Diêu Tình thấy Cốc Chẩn đóng lối vào đường hầm bí mật liền hỏi: - Xú hồ ly, hiện giờ làm gì? Cốc Chẩn nói: - Cung thành này rất rộng lớn, chi bằng chúng ta tìm một chỗ cung điện vắng vẻ, ăn no ngủ đủ, trốn tránh vài ngày. Diêu Tình lắc đầu nói: - Thuật truy lùng của Tả Phi Khanh vô cùng đáng sợ, ở lâu một chỗ tất bị y tìm ra. Trong bảy ngày này ta muốn rời Nam Kinh, chạy càng xa càng tốt. Trầm Tú đột nhiên cười nói: - Nói như vậy, ta có một diệu kế “Nước đục mò cá”. Trước sáng sớm hôm nay, thành Nam Kinh sẽ có một trận đại chiến, lợi dụng lúc hỗn loạn sư muội có thể lẩn qua Phong Quân Hầu, dễ dàng rời khỏi Nam Kinh. Diêu Tình ngạc nhiên nói: - Đại chiến gì? Trầm Tú nhìn Từ Hải nhếch mép cười nói: - Hắn và Uông Trực đã ước hẹn trong ngoài phối hợp để tấn công Nam Kinh, nhưng không ngờ gia phụ đã lường trước, tương kế tự kế muốn đem đám Oa khấu một mẻ lưới vét sạch. Diêu Tình mắt đẹp sáng lên, hỏi: - Lúc nào? Trầm Tú nhìn sắc trời, cười nói: - Nhanh thôi, vào giờ Dần. Diêu Tình vui mừng lộ ra ngoài mặt, nói: - Hay lắm, vậy đi thôi. Nói xong ngưng thần nhìn Lục Tiệm. Lục Tiệm còn chưa kịp do dự, Cốc Chẩn đã cười nói: - Mời hai vị, chúng ta chia tay ở đây, tha lỗi không tiễn. Diêu Tình thấy Lục Tiệm lộ vẻ khó khăn thì trong mắt thoáng qua vẻ tức giận, mím môi son quay người bỏ đi. Trầm Tú nhìn Cốc Chẩn cười hắc hắc, âm trầm nói: - Kẻ thất phu vô tội nhưng cầm ngọc vào biến thành có tội. Cốc huynh nhớ cẩn thận nhé. Nói xong co chân bị thương lên, lò cò nhảy theo sau Diêu Tình. Bỗng nghe Cốc Chẩn phía sau lưng cười nói: - Lục Tiệm, ngươi nhìn xem, hắn nhảy lên nhảy xuống có giống con cóc không? Lục Tiệm nói: - Nói ra như vậy, quả thật thấy giống như vậy, nhưng đẹp hơn cóc nhảy. Trầm Tú vô cùng tức giận, trong lòng nghĩ ra mười loại cực hình để đem hai người tra tấn dần dần đến chết. Hắn vừa tưởng tượng vừa nghiến răng, Diêu Tình lại ngại hắn quá chậm chạp, liền đỡ tay hắn chạy như bay, tránh qua cảnh vệ trong cung đi tới một bức tường cung điện. Diêu Tình trồng xuống “Nghiệt nhân tử”, sinh ra một cái rễ dài. Hai người theo rễ leo qua đầu tường rồi dựa theo dòng nước rời khỏi cung thành. Diêu Tình đột nhiên cười nói: - Trầm sư huynh, từ biệt được rồi chứ? Trầm Tú cả kinh, vội nói: - Sư muội nói gì vậy, ta rời sự muội thì còn biết đi đâu? Diêu Tình nhìn hắn, đôi mắt trong như nước câu hồn đoạt phách, nhẹ cười nói: - Sư huynh không nên cứng đầu, quay về nhà trị thương là cần thiết, nếu không thật sự biến thành tên què thì Trầm sư bá chẳng phải đau lòng sao? Nói xong quay người định bỏ đi. Trầm Tú không chịu bỏ cuộc, kêu lên: - Sư muội chậm hẵng đi… Diêu Tình ứng tiếng quay đầu, chớp mắt cười nói: - Đúng rồi, còn có một việc quên không nói. Trong lòng Trầm Tú nổi lên một tia hy vọng, vội cười nói: - Hảo sư muội, ta biết rồi, là muội không đành lòng rời xa ta phải không? Diêu Tình cười hi hi, lắc đầu nói: - Sư huynh đã què chân như vậy thì lần này cho dù ta đến đâu ngươi cũng không thể bám theo được nữa rồi. Nói xong đưa ngọc thủ vẫy vẫy với hắn rồi làm mặt quỷ, sau đó triển khai thân pháp biến vào trong bóng đêm mênh mông. Trầm Tú nhìn theo bóng dáng cô, trong lòng vừa yêu vừa hận, buồn bực thất vọng, bất giác nghiến răng nói: - Tiểu yêu tinh này, ngày nào rơi vào tay thiếu gia, xem ta dạy dỗ ngươi thế nào. Nói xong, miệng vết thương lại đau nhói, thầm nghĩ: “Tiểu yêu tinh nói đúng, trước mắt trị thương là quan trọng.” Lập tức tập tễnh đi về phía Tổng đốc phủ. Đợi Trầm Tú đi xa, từ trong bóng đen của cùng thành có hai người chậm rãi bước ra, chính là Lục Tiệm và Cốc Chẩn. Lục Tiệm vừa kinh ngạc vừa vui mừng: - Cốc Chẩn, lại bị ngươi đoán trúng rồi, sao ngươi biết A Tình sẽ rời bỏ Trầm Tú? Cốc Chẩn cười nói: - Dựa vào ánh mắt cô ta nhìn ngươi, nếu ta đoán không sai thì người mà Diêu Tình thích là ngươi chứ không phải Trầm Tú. Lục Tiệm ngẩn người, nói vẻ không tin: - Ngươi nói cô ta thích ta ư? Cốc Chẩn nói: - Vừa rồi cô ta hỏi ngươi, rõ ràng là muốn ngươi đi cùng cô ta, vì vậy ta liền muốn thử cô ta một chút. Nếu cô ta thích Trầm Tú thì sau khi rời khỏi cung thành tất sẽ đi cùng với hắn, loại nữ nhân bạc bẽo như nước đó thì chẳng nên nhìn tới làm gì. Còn nếu cô ta thích ngươi thì sẽ không chịu để Trầm Tú bám chặt lấy đâu. Lục Tiệm nhìn hắn, lộ ra vẻ cổ quái. Cốc Chẩn đẩy y một cái, cười nói: - Nhìn ta làm gì? Còn không đuổi theo cô ta? Lục Tiệm nói: - Nhưng, nhưng… - Nhưng Hắc Thiên Kiếp phải không? – Cốc Chẩn nói – Không cần vội vàng, ta đã bắt được Từ Hải thì oan khuất không lâu sẽ có thể rửa sạch. Sau đó ta sẽ xin cha ta phong bế ẩn mạch của ngươi. Huynh đệ tốt, đừng bắt ta theo đuổi Diêu Tình nữa, ngươi không biết đấy thôi, lão hổ cái nhà ta mà ra uy thì cho dù là thần phật trên trời cũng phải cuốn gói chạy dài. - Lão hổ cái nhà ngươi? Lục Tiệm lộ vẻ kinh ngạc. Cốc Chẩn cười nói: - Ngươi chẳng phải đã tiếp qua ám khí của cô ấy sao? Lục Tiệm tỉnh ngộ nói: - Là vị cô nương đó ư, cô ta là… Cốc Chẩn tiếp lời nói: - Là cô gái đã hứa gả cho ta. Hắn nghĩ đến oan khuất có thể rửa sạch liền sung sướng không kể xiết, nhấc Từ Hải lên cười nói: - Ta muốn đi thẩm vấn thằng cha này. Nếu ngươi muốn tìm ta thì đến ngõ Thương Ba ở phía đông thành, nhà thứ hai bên trái. Nói xong ha ha cười lớn, tay áo phất phơ, đầu đội trăng sao, chân bước ung dung đi mất. Lục Tiệm bị lời hắn nói vừa rồi khiến cho tâm thần bất an, nhưng lo cho an nguy của Diêu Tình nên lập tức rảo bước đuổi theo. Y chạy được một lúc nhưng không thấy ai, trong lòng khẩn cấp liền thi triển thuật Khiêu Ma, nhảy lên nóc một căn nhà nhìn ra xa, xuyên qua một dãy phòng ốc, chợt thấy đằng xa như có ánh lửa bốc lên. Lục Tiệm cả kinh: - Hỏa hoạn rồi ư? Y vừa thấy tai nạn liền quên mất cả bản thân mình, lập tức đạp mái ngói chạy tới, còn chưa đến gần đã nghe tiếng đao kiếm va chạm, kêu giết vang trời. Lục Tiệm nép xuống nhìn qua thì phía trước chính là “La trạch”, hơn hai trăm tên Oa khấu mình mặc áo giáp, tay cầm đao thương, đang huyết chiến trong ngõ với mấy trăm tên quân Minh. Đám Oa khấu bị ép tới nước này đều là vì tình thế bức bách. Vừa rồi khó khăn lắm mới phá được cửa sắt, công nhập vào tòa sảnh bằng đá, ai ngờ chẳng thấy một ai, đám tặc khấu nghi thần nghi quỷ đều sợ sệt. Hoàn Trung Khuyết không nghĩ ra cách gì, liền trước hết cứu tỉnh Trần Tử Đan. Trần Tử Đan là kẻ có trí kế, đoán ra trong sảnh tất có đường hầm, có điều hắn tuy thông minh nhưng hiểu biết không đủ để tìm ra cơ quan. Mắt thấy thời điểm khởi sự đã tới gần, địch nhân lại theo đường hầm bí mật tẩu thoát, nếu cứ chần chừ thì tất biến thành mồi ngon, toàn quân bị tiêu diệt. Vì vậy lập tức hạ lệnh cho hai trăm quân Oa khấu ra khỏi giếng, từ La trạch đánh giết ra ngoài. Trầm Chu Hư tuy không tìm ra đường hầm bí mật nhưng đoán ra sào huyệt của Oa khấu chỉ ở gần đó, vì vậy đã đặt phục binh. Oa khấu vừa xuất hiện thì đã gây động xung quanh, trong khoảng khắc liền có mấy trăm binh tướng tụ tập lại, hai bên ra tay chém giết lẫn nhau. Đám Oa khấu này là thủ hạ tinh nhuệ của Từ Hải, quân Minh dù là giáp sĩ do Trầm Chu Hư huấn luyện, tuy nói võ nghệ cao cường, mạnh hơn quan quân địa phương nhưng khí thế, kỷ luật so với đám tặc khấu đã đánh trăm trận này thì chẳng thấm vào đâu. Oa khấu tụ lại thành một đoàn, trận thế như hình con rùa, phân ra hợp kích. Tiến thì như giáo nhọn xuyên giáp, không khiên nào không xuyên thấu. Lùi thì như chuột chui vào hang, ngăn địch không thể tấn công. Quân Minh cho dù bốn bề ra sức nhưng trận thế yếu kém, binh lực phân tán, số lượng tuy nhiều nhưng bị Oa khấu chia ngang cắt dọc, kích phá từng phần. Trong thời gian Lục Tiệm chỉ đủ chớp mắt thì đã có bảy người ngã xuống. Lục Tiệm trong lòng khẩn cấp, mắt thấy Hoàn Trung Khuyết và Trần Tử Đan đứng ở trung tâm trận, hò hét không ngừng, tức thì tung mình nhảy lên, cao giọng hét: - Hoàn Trung Khuyết, xem ta là ai? Hoàn Trung Khuyết vừa ngửng đầu lên bỗng thấy bóng đen như núi, gió từ trên đỉnh đầu áp uống. Hai tay của hắn đã bị phế, không cách nào chống cự, liền liều chết co mình lăn xuống đất. Lục Tiệm nhảy vào trung tâm trận, một chiêu “Đại Tu Di tướng” liền xô một tên Oa khấu miệng phun máu. Trần Tử Đan cao giọng hét lên, hai tay cầm đao hung dữ chém tới. Lục Tiệm lách mình tránh qua, tay trái móc tới, rắc rắc hai cái, hai cổ tay hắn đã bị bẻ gãy. Trần Tử Đan kêu thảm một tiếng, Oa đao rời tay rơi ra. Lục Tiệm thuận tay tiếp lấy, nháy mắt một cảm giác quen thuộc dội lên trong lòng, liền nhớ đến khi xưa miếu thần đổ nát, trăng lạnh đêm vắng, Thiên Thần Tông giáp đá đao dài, mặt mũi hung dữ. - A! Hai thanh Oa đao, ba thanh thương dài đem theo mùi máu tanh cùng xốc tới. Cán đao vào tay, Oa đao dài mà mỏng, vừa mềm vừa cứng, vừa nhẹ vừa nặng, Lục Tiệm như quên đi bản thân mình, biến thành thanh đao đó, giống như sống chết cùng một thể. Vì vậy liền theo đúng tính chất của thanh Oa đao đó, từ trái qua phải quay người quét một vòng tròn. Tiếng đinh đang vang lên, đao thương rơi xuống đất, năm tên Oa khấu đồng thời kêu thảm, hai cổ tay phun đầy máu, gân tay đều đã bị chặt đứt. Lục Tiệm hai mắt mở tròn bình tĩnh, vung Oa đao xông vào trận địch, trường đao hướng tới chỗ nào thì Oa khấu nơi đó cổ tay đầy máu, binh khí rơi xuống đất, tiếng kêu thảm vang lên. Đám giáp sĩ vốn định giữ trận thế, không ngờ Lục Tiệm như thần tướng từ trên trời hạ xuống, từ trung tâm trận của Oa khấu đánh giết ra khiến cho trận thế của địch hoàn toàn rối loạn, lập tức phấn chấn hẳn lên. Đám Oa khấu đó đa phần là kẻ lang thang ở Nhật Bản, sùng bái võ sĩ đạo nên tuyệt không sợ chết, tuy rơi vào thế kém nhưng vẫn kiên cường chống lại. Có điều thanh đao của Lục Tiệm lại phiêu lãng đông tây chuyên cắt gân của đối thủ. Đám Oa nhân đao thương rời tay liền như rắn độc mất nanh, hổ dữ gãy vuốt, không còn một chút đấu chí, đành để cho người ta chặt chém. Không đầy một trận đã tử thương gần hết, còn lại vài chục người hoảng loạn, đột nhiên kêu thảm một tiếng rồi bỏ chạy tứ phía. Quân Minh đuổi theo chặn đường, đám tặc khấu hoặc là bị bắt sống, hoặc là bị loạn đao chém chết. Lục Tiệm nhìn xác chết đầy mặt đất, đột nhiên trong lòng buồn thảm, hạ đao xuống nhìn quanh thì trong đống thi thể lại không thấy Hoàn Trung Khuyết đâu. Y hơi ngạc nhiên, cẩn thận tìm qua nhưng không thấy được gì, đang lúc buồn bực thì bỗng thấy hai viên tướng quân rảo bước đi tới, cung tay nói: - May mắn được tráng sĩ tương trợ, dám hỏi đại danh… Lục Tiệm lắc đầu nói: - Tên tuổi hèn mọn không dám… Còn chưa dứt lời, bỗng thấy đầu đường đằng xa có một người chạy như bay tới, y nhận ra là Yến Vị Quy. Thầm nghĩ người này đã tới thì Trầm Chu Hư tất nhiên cũng theo sau, nếu gặp gỡ biết đâu ông ta không nhắc lại chuyện cũ, muốn bắt y đi theo, những việc khác thì không nói nhưng nếu không đi tìm được Diêu Tình thì rất không ổn. Vừa nghĩ đến đó, Lục Tiệm bỏ Oa đao xuống, quay người bỏ đi. Hai viên tướng quân cả kinh, vội nói: - Tráng sĩ dừng chân… Hai người càng kêu gọi, Lục Tiệm càng bước nhanh, chuyển qua góc phố đã biến mất. Y đột nhiên tới rồi lại đột nhiên đi, hai viên tướng quân nhất thời nhìn nhau, vạn phần nghi hoặc. Lục Tiệm co cẳng chạy nhanh, tìm khắp các đường lớn ngõ nhỏ, chỉ mong trời rủ lòng thương tìm thấy Diêu Tình, ai ngờ Diêu Tình chẳng thấy đâu mà chỉ thấy xung quanh đều có quân Minh phòng thủ, cảnh vệ nghiêm ngặt. Lục Tiệm thầm nghĩ đại chiến mà bắt đầu thì với hoàn cảnh của mình tất bị coi là gian tế cho Oa khấu, chỉ đánh rón rén giấu tung tích đi tới phía đông thành, tìm ngõ Thương Ba. Ngõ này nằm gần cửa Thương Ba của thành ngoài nên được đặt tên như vậy. Lục Tiệm đến trước cửa tòa nhà thứ hai bên trái, bên cửa có hai ngọn đèn chiếu sáng xung quanh, trên cửa có hình một đôi thao thiết (người dịch: một loại ác thú trong truyền thuyết) làm bằng đồng vàng, miệng ngậm vòng đồng. Lục Tiệm dùng vòng gõ cửa, cánh cửa từ từ mở ra, có người thấp giọng nói: - Xin chào Lục gia. Lục Tiệm ngạc nhiên nói: - Ngươi nhận ra ta ư? Ngươi đó chờ y tiến vào rồi đóng cửa lại. Lục Tiệm nhìn thấy hán tử này khoảng bốn mươi tuổi, áo vải mũ nhỏ, tướng mạo bình thường, chỉ có hai mắt thỉnh thoảng sáng lóe lên, trông rất khác thường. - Tôi tên Ngư Truyền. – người đó kính cẩn nói – Tối hôm đó ở Tụy Vân lâu đã được may mắn gặp Lục gia. Lục Tiệm vỗ trán cười nói: - Ta nhớ ra rồi, Cốc Chẩn nhờ ngươi đem ngân lượng cho những chiếc thuyền trên sông đó phải không. Ngư Truyền nói: - Lục gia nhớ giỏi lắm. Hắn nói chuyện cũng như tướng mạo, tuy không thất lễ nhưng từ đầu tới đuôi đều vô cùng bình đạm. Lục Tiệm nghiêm mặt nói: - Ngư huynh, ngươi đừng gọi Lục gia, ta nghe không quen. Ngư Truyền lắc đầu nói: - Tôi không phải tên Ngư huynh, tôi tên là Ngư Truyền. Lục gia là bằng hữu của Cốc gia, Ngư Truyền là thuộc hạ của Cốc gia, Ngư Truyền gọi Cốc gia là Cốc gia thì phải gọi Lục gia là Lục gia… Lục Tiệm nghe muốn đau đầu, vội chuyển đề tài nói: - Ngư… Ngư Truyền huynh, Cốc Chẩn đang làm gì? Ngư Truyền nói: - Cốc gia đang nổi giận! Lục Tiệm nói: - Vì Từ Hải không chịu khai thật nên hắn tức giận ư? Ngư Truyền lắc đầu nói: - Từ Hải chết rồi, Cốc gia mới nổi giận. Lục Tiệm kinh hãi như bị sét đánh, thất thanh nói: - Từ Hải chết rồi? Ai giết hắn? Ngư Truyền nói: - Tiểu nhân không biết, Cốc gia và Từ Hải ở trong thư phòng, sai tôi ở đây đợi Lục gia. Bỗng nghe một tiếng súng vang lên, tôi chạy tới thư phòng thì Từ Hải đã chết rồi. Lục Tiệm trong lòng hoảng loạn, thất thanh nói: - Cốc Chẩn có việc gì không? Ngư Truyền lắc đầu nói: - Cốc gia không sao, chỉ vô cùng giận dữ. - Đưa ta đến gặp hắn. Lục Tiệm đi vào trong nhà, Ngư Truyền vượt lên trước dẫn đường. Chớp mắt đã tới thư phòng, Lục Tiệm vừa đẩy cửa đã ngửi thấy mùi máu, định thần nhìn lại thì trên mặt đất vương vãi sách vở rách nát, một cái nghiên mực vỡ làm nhiều mảnh, mấy cái bút lông cũng bị bẻ gãy đôi. Lại ngửng đầu nhìn lên thấy Cốc Chẩn đang thở phì phì ngồi trên ghế, hậm hực nhìn về phía trước. Lục Tiệm theo ánh mắt của hắn nhìn qua, chỉ thấy Từ Hải chân tay bị trói, ngồi trên một cái ghế gỗ tử đàn, mặt ngửa lên trời mềm oặt rủ ra phía sau, máu thấm đầy tóc đã bắt đầu đông lại. Lục Tiệm trong lòng trầm xuống, tiến lên xem xét. Thi thể đó mặt trắng bệch như giấy, hai mắt mở to, ở mi tâm có một lỗ thủng chảy ra chất màu trắng hồng. - Không cần phải nhìn nữa. – Bỗng nghe Cốc Chẩn thở dài nói – Là súng điểu bắn vào. Lục Tiệm quay đầu lại, hai người bốn mắt nhìn nhau, đều có thể thấy nụ cười khổ trên mặt đối phương. Lục Tiệm ngẩn ra một lúc lâu rồi hỏi: - Cuối cùng đã xảy ra việc gì? Cốc Chẩn đứng dậy bước đi hai bước, từ từ nói: - Ta đang tra hỏi thằng cha này trong thư phòng, hỏi ai là nội gian ở Đông Đảo và làm như thế nào hãm hại ta? Thằng cha này trước thì cứng đầu, thà chết không nói, sau đó bị ta dùng thủ đoạn cả cứng cả mềm mới dần dần chuyển động, đúng lúc đó thì tiếng súng điểu vang lên… Nói đến đó, hắn đi tới cửa sổ, chỉ vào một lỗ tròn nhỏ trên cửa sổ, xung quanh vết tròn đều có vết nứt có thể nhìn thấy rõ. - Đó là vết thủng do đạn xuyên qua. Cốc Chẩn lại mở cánh cửa, Lục Tiệm đưa mắt nhìn qua, đối diện với của sổ là một tòa tiểu lâu, trên lầu tối đen, bất giác gật đầu nói: - Hung thủ đó tất là phát súng ở trên lầu rồi. Cốc Chẩn nói: - Nếu là như vậy thì thuật bắn súng của người này quả thật thần kỳ, chỉ dựa vào hình người lớn bằng hai ngón tay mà có thể bắng trúng mi tâm của Từ Hải. Hồng Thư lúc đó thủ ở ngoài phòng, nghe tiếng súng chạy lên lầu thì không thấy ai. Lục Tiệm trầm ngâm nói: - Ngươi có thể đoán ra kẻ đó không? Cốc Chẩn nói: - Từ Hải là kẻ cầm đầu Oa khấu, Oa khấu tất sẽ cứu hắn, quan phủ tất sẽ bắt hắn. Chỉ có duy nhất một bên là không giết hắn không được. Lục Tiệm gật đầu nói: - Nội gian của Đông Đảo phải không? Cốc Chẩn gật đầu nói: - Nhưng có một việc ta nghĩ không ra. Hắn cúi đầu nghĩ một lúc rồi mới nói: - Nếu là nội gian của Đông Đảo thì theo lý phải giết ta mới đúng. Lưng ta hướng về cửa sổ, lại đứng gần tòa lầu đó hơn, giết ta dễ hơn nhiều. Tại sao lại không giết ta mà giết Từ Hải chứ? Lục Tiệm cũng nghĩ mãi không ra, liền nói: - Có lẽ hắn vốn muốn giết ngươi, nhưng vì bóng người trên cửa sổ chuyển động nên bắn trượt trúng vào Từ Hải. Cốc Chẩn lắc đầu nói: - Nếu là ngộ sát thì không khỏi quá chính xác. Cho dù giữa ban ngày ban mặt, không có gì ngăn cách mà muốn một phát bắn trúng mi tâm cũng là cực khó rổi. Nói đến đấy, cả hai người đều cảm thấy mơ hồ. Trầm mặc hồi lâu, Cốc Chẩn hỏi: - Diêu Tình đâu? Không đi cùng với ngươi tới ư? Lục Tiệm nói: - Ta tìm không được. Cốc Chẩn thần sắc ngạc nhiên, vỗ bàn cười lớn nói: - Tìm không được? Thật là có khả năng. Lục Tiệm mặt đỏ bừng, Cốc Chẩn vỗ vỗ vai y, nói: - Bỏ đi, nếu trong lòng cô ta có ngươi thì ngươi không tìm cô ta, cô ta cũng sẽ đến tìm ngươi thôi. Lục Tiệm thở dài nói: - Trong lòng cô ấy có ta thì đã sao? Từ Hải đã chết rồi… Cốc Chẩn đoán ra được ý của y muốn nói, lông mày nhíu chặt, cười nói: - Từ Hải chết rồi thì còn có Uông Trực mà! Nói tới đó, vẻ buồn bực trên mặt hắn biến mất hết, thần sắc thay đổi, lại tràn đầy sự tự tin như xưa, cười hi hi nói: - Lục Tiệm, ngươi có biết Uông Trực đó không? Người này tên tự là Ngũ Phong, Oa khấu gọi hắn là lão đảo chủ, quan phủ lại gọi hắn là Oa khấu chi vương. Nói tới đó, hắn kéo Lục Tiệm rời khỏi thư phòng, nói: - Lão hồ ly đó so với Từ Hải giảo hoạt hơn nhiều, bắt hắn vốn cực kỳ khó khăn, may mà hắn đã tới đánh Nam Kinh. Uông Trực là con trai, Trầm Chu Hư là con cò, trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi. Chúng ta lại là ngư ông. Lục Tiệm nói: - Ngươi nói dễ dàng quá. Hai người đó không như vậy, theo ta thấy chẳng phải trai cò gì mà đều là mãnh hổ, không cẩn thận một chút là hai người chúng ta đều không khỏi bị họ ăn thịt. Cốc Chẩn nhìn y, cười nói: - Ngươi thông minh hơn nhiều rồi đấy. Hai người đó đúng là mãnh hổ, nhưng hai hổ tranh nhau sẽ có một chết một bị thương, chúng ta lần này tự mình xông ra chiến trường, tùy cơ hành động. Lục Tiệm nói: - Ngươi và ta đều là bình dân, làm sao có thể xông ra chiến trường? Cốc Chẩn nói: - Việc đó dễ lắm. Liền vỗ tay một cái, trong bóng tối có một người tiến ra, tuổi quá ba mươi, miệng nhọn tai rủ, đôi mắt nhỏ tí sáng lên vẻ tinh minh. Cốc Chẩn nói: - Hồng Thư, ngươi đi mua hai bộ áo giáp của quan quân, quan hàm càng cao càng tốt. Người đó cúi mình rồi rảo bước đi ngay. Lục Tiệm cả kinh nói: - Giáp trụ của quan quân mà cũng mua được ư? Cốc Chẩn cười nói: - Bất quá chỉ là hai bộ giáp trụ, lại không phải là long bào của hoàng đế thì có gì mà không mua được? Lục Tiệm mặt đỏ bừng, bực tức nói: - Có việc như vậy mà kẻ làm tướng quân đều không biết đến ư? Cốc Chẩn cười nói: - Bọn chúng chỉ biết đến ngân lượng thôi. Hắn thấy Lục Tiệm vẫn có vẻ bất bình lại cười nói: - Hiện giờ còn cách giờ Dần nửa giờ nữa, chúng ta chi bằng vừa ăn uống vừa chờ đợi. Lục Tiệm buồn bực đi theo Cốc Chẩn đến một căn thính đường, bền ngoài là một sân cỏ, tuy không phải vào mùa hoa nở nhưng không khí trong lành vẫn ùa vào người. Ngoài thính đường có treo biển, chữ viết mờ mờ không nhìn rõ. Trong thính đường nến ngọc cháy dài, xà nhà làm bằng gỗ long não, chấn song làm bằng gỗ mun. Trên mặt đất có một cái bàn bằng gỗ bạch đàn, trên bàn bày hương án và một cái lư cổ kính, trên lưng ghế khắc hình con rắn đen. Bên cạnh ghế đặt một cái kỷ màu đen, trên kỷ có hai cái chậu đất lớn màu xanh trồng cây có treo tiền vàng. Trên tường chính diện có một bức tranh lớn giản dị, trong tranh là một ông lão đứng trên thuyền nhỏ, vẻ mặt siêu nhiên, một bên có đề lạc khoản (người dịch: dòng chữ chua thêm bên cạnh tranh): Si Di Tử Bì, chủ nhân Nhược Hư đường, ngày này năm này tháng này. Hai bên bức tranh còn có hai tấm thẻ bài làm bằng gỗ mun nạm bạc, bên phải ghi: “Xung doanh hư nhi quyền thiên địa chi lợi” (Lấp chỗ thiếu là quyền lợi của trời đất), bên trái ghi: “Thông hữu vô nhi nhất tứ hải chi tài” (Thông đầy vơi là cái tài trên bốn biển), nét bút hùng dũng, khí thế vĩ đại. Hai người ngồi xuống, Cốc Chẩn nói: - Chỗ “Nhược Hư đường” này cùng cả tòa nhà đều là của ông lão đó. Ba bốn năm nay ta không qua đây, nhìn tình cảnh hiện giờ tuy cũng là chỗ tốt nhưng không thể ở lại lâu. Lục Tiệm nói: - Ngư Truyền, Hồng Thư đều là thuộc hạ của ngươi à? Cốc Chẩn nói: - Họ đều là ông lão đó lưu lại, trung thành tuyệt đối, tinh minh mẫn cán, chỉ đáng tiếc là không biết võ công. Lục Tiệm nói: - Còn chiếc nhẫn tài thần kia thì sao? Cốc Chẩn cười cười, đưa tay vào ngực áo lấy ra chiếc nhẫn phỉ thúy đó nói: - Ngươi nói cái này ư? Lục Tiệm định thần nhìn kỹ, chiếc nhẫn đó màu xanh thẫm, ba vệt màu đỏ máu bao quanh toàn bộ chiếc nhẫn, to nhỏ không đều, phảng phất như lưu động không ngừng. Trên thân nhẫn còn có một góc vuông lớn giống như một cái ngọc ấn khắc hình quanh co như chữ viết, bất giác ngạc nhiên nói: - Đó là chữ gì? - Đó là chữ triện cổ! – Cốc Chẩn nói – Toàn bộ đọc là “Tài Thần thông bảo”, ý nói đây là tiền của tài thần trên trời, tiền bạc của nhân gian gặp nó thì giống như con cháu gặp ông cha, chỉ có cách ngoan ngoãn nghe ra lệnh. Lục Tiệm cả kinh nói: - Nói như vậy thì những người đó nói “Tài Thần thông bảo, hiệu lệnh thiên hạ” là việc có thật rồi. - Ngươi tin điều đó ư? – Cốc Chẩn cười nói – Ta cho ngươi cũng được. Lục Tiệm hơi đỏ mặt, xua tay nói: - Ta không cần. Cốc Chẩn nhìn hắn chốc lát rồi chợt cười cười bỏ chiếc nhẫn đó vào lại trong ngực áo. Lục Tiệm trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên thở dài nói: - Cốc Chẩn, bất luận thế nào thì ngày hôm nay ta đều rất vui mừng. Cốc Chẩn cười nói: - Vì sao vui mừng? Lục Tiệm nói: - Không ngờ được ngươi không những không câu kết với Oa khấu mà còn đánh bại những đại hào kiệt của Oa khấu, chỉ tiếc là cha ngươi không có ở đó. Nếu ông ấy nghe được lời của Từ Hải thì ngươi không còn bị oan nữa rồi. - Ngươi nghĩ sai rồi! – Cốc Chẩn lắc lắc đầu – Ta chẳng phải là anh hùng hào kiệt gì, ta chỉ là một tên thương nhân. Ta đối phó với Oa khấu chỉ vì bọn chúng không tuân theo quy củ. Hắn thấy Lục Tiệm có vẻ nghi hoặc liền đứng dậy, chỉ vào hai câu đối trên thẻ bài nói: - Ngươi đã xem qua hai câu đối này chưa? “Xung doanh hư”, “Thông hữu vô” (Lấp chỗ thiếu, Thông đầy vơi) trong câu đối chính là đạo kinh doanh, cái gọi là đạo kinh doanh cũng là quy củ trên thương trường. Hắn nói đến đó liền nhìn lên bức tranh, trầm ngâm hồi lâu rồi chầm chậm nói: - Người ta từ xưa vẫn khinh rẻ thương nhân, nhưng không hiểu rằng đạo kinh doanh chính là đạo của trời đất. Thánh nhân có nói: “Đạo của trời đất là lấy ở chỗ dư thừa bổ sung cho chỗ thiếu thốn”. Thương nhân vận chuyển hàng hóa chính là vận chuyển cái có sang cái không để kiếm lợi dư ra. Ví dụ phương nam nhiều trà, phương bắc thiếu trà, ta mua trà ở phương nam vận chuyển đến phương bắc bán ra, lấy cái dư ở phương nam bổ túc cho cái thiếu ở phương bắc, chẳng phải là làm được việc rất tốt hay sao? Lục Tiệm nói: - Đúng vậy! Cốc Chẩn nói: - Đáng tiếc là đạo kinh doanh tuy là đạo của trời đất nhưng thương nhân lại là người thường, vì cầu tài lợi mà không từ thủ đoạn, vì vậy trong đạo kinh doanh còn có đạo của người bôi lẫn vào. “Đạo của người là lấy chỗ thiếu bù vào chỗ thừa”, chuyên lấy của người nghèo đem lợi cho người giàu. Ví dụ bốn tỉnh Tô, Chiết, Mân, Quảng nhiều năm chịu loạn Oa khấu, nhân dân lưu tán, canh tác không được, quan lại liên tục đánh thuế thu tiền nên đã hoàn toàn khánh kiệt. Không quá sang năm tất sẽ có một trận đói trăm năm khó gặp… Lục Tiệm cả kinh nói: - Thật như vậy ư? Cốc Chẩn cười lặng lẽ rồi nói: - Việc đó không chỉ ta biết mà rất nhiều phú hộ cũng hiểu rõ. Nếu theo đúng đạo lý lấy chỗ thừa chuyển sang chỗ thiếu thì phải chuẩn bị trước, đến vùng Hồ, Quảng, Tứ Xuyên mua nhiều lương thực dư thừa để bổ sung cho chỗ thiếu của Tô, Chiết, Mân, Quảng. Nhưng theo ta biết thì đám người đó không những không đi xa mua lương thực mà ngược lại còn thu mua hết lương thực tại địa phương, đầu cơ lại để đợi đến lúc đói kém thì kiếm lợi một mẻ. Nếu như ta dự đoán đúng thì không tới năm sau là gạo sẽ quý như châu ngọc, không biết sẽ có bao nhiêu người dân chết đói. Lục Tiệm căm phẫn nói: - Triều đình không có pháp luật ngăn cản bọn họ ư? Cốc Chẩn cười nhạt, nói: - Gia Tĩnh lão nhân (người dịch: ý nói vua Thế Tông nhà Minh) đã tu đạo thành tiên, quan tâm quái gì đến việc sống chết của người dân. Còn những quan lại khác thì đều có quan hệ mật thiết với đám gian thương đó, như Trầm Tú nhờ vào thế lực của cha hắn cũng đã tích trữ rất nhiều lúa gạo. Lục Tiệm hồ nghi nói: - Trầm Chu Hư có vẻ, có vẻ không giống đám người đó. Cốc Chẩn nói: - Ông ta tuy không phải loại người đó nhưng lại vì ngại mà dung túng. Nếu ta mà sinh loại con như Trầm Tú thì phải một gậy đánh chết luôn. Hắn nói đến đó thì có mấy phần kích động, đi quanh mấy bước rồi cao giọng nói: - Trong thương đạo thì nếu đạo của trời đất cao hơn đạo của người sẽ là chính đạo, còn nếu đạo của người cao hơn đạo trời đất tất sẽ thành tà đạo, sai lệch. Trong tà đạo đó thì đáng hận nhất không ngoài giết người cướp của, kinh doanh không vốn. Như bọn Oa khấu đó cướp sạch của người dân Trung Hoa chúng ta, lại đem tang vật chuyển về Đông Doanh rồi hoặc là tiện tay đem bán, hoặc là thản nhiên cho người. Cứ như vậy, Đông Doanh vốn thiếu vàng bạc ngọc ngà, dụng cụ đồ đạc thì lại trở thành đủ hết. Còn hàng hóa mà những thương nhân khác khó nhọc thu mua, chuyển đến Đông Doanh thì hoặc là không đáng một xu, hoặc là lỗ vốn nặng… Lục Tiệm nghiến răng nói: - Triều đình chẳng phải có lệnh cấm đi biển sao? Tại sao vẫn có thể vận chuyển hàng hóa tới Đông Doanh? Cốc Chẩn phì cười nói: - Cấm đi biển cái rắm gì, đều là chủ ý vớ vẩn của đám quan liêu đó. Hơn nữa bờ biển của Đại Minh dài vạn dặm, có thể cấm được ư? Lục Tiệm tỉnh ngộ nói: - Vậy thì là buôn lậu rồi. Cốc Chẩn miễn cưỡng nói: - Dù là buôn lậu thì cũng là Gia Tĩnh lão nhân bức bách phải làm. Kinh doanh trên biển lợi nhuận rất cao, nếu không cấm đi biển thì ông ta có thể lập cơ quan thu thuế, ngân lượng kiếm được chắc xây mười tòa thành Bắc Kinh vẫn còn thừa. Gia Tĩnh lão nhân có tiền mà không biết kiếm, đúng là cực kỳ ngu xuẩn như mụ đàn bà. Cốc Chẩn xưa nay lúc nào cũng cười hi hi, Lục Tiệm hiếm khi thấy hắn tức giận. Lúc này bỗng thấy thấy hắn đỏ mặt tía tai, bất giác bật cười. Cốc Chẩn tự biết mất phong độ liền trầm mặc hồi lâu rồi quay lại ngồi xuống, từ từ nói: - Oa khấu chuyên làm chuyện đi buôn không vốn, lúc đầu chỉ là làm loạn nho nhỏ, về sau càng làm càng lớn, lúc nhiều nhất có tới hai vạn người đến Trung Hoa cướp phá. Cứ như vậy thì không nói Đông Doanh đầy đủ mà hàng hóa Tây Dương, Nam Dương cần mua của Trung Hoa cũng đều có thể mua từ tay của Oa khấu. Thương nhân trong thiên hạ ít nhiều đều có mua bán trên biển, có lệnh cấm đi biển thì việc làm ăn đã mười phần khó khăn, Oa khấu lại làm loạn thêm vào giống như ném đá xuống giếng vậy. Ta thấy tình hình đó liền suy nghĩ, quan phủ đã bất lực như vậy thì chi bằng lập kế tự cứu, liền dùng nhiều tiền mua mười chiến hạm Hồng mao (người dịch: người phương Tây) rồi mai phục trên đường Oa khấu quay trở về Đông Doanh. Người Oa vừa ngu vừa tham, lúc về nước thuyền chở đầy tang vật, ngấn nước rất sâu, đột nhiên bị tập kích thì đừng nói bỏ chạy mà muốn xoay thuyền cũng khó. Ta đem chiến hạm chia thành hai đội, luân phiên phát pháo vừa truy đuổi vừa chặn đường, mất ba giờ đã đánh chìm hết thuyền của Oa khấu, chỉ có Uông Trực, Từ Hải chạy thoát. Lục Tiệm nghe đến huyết khí dâng trào, vỗ bàn kêu lớn: - Việc đó oanh liệt như vậy, cha ngươi lại không biết đến ư? Cốc Chẩn nói: - Trận đó người Oa chết gần hết, đám Uông Trực bỏ người chạy giữ mạng, sau đó sợ gia đình người Oa hỏi tội nên nói dối là gặp phải bão tố, thuyền hủy người chết. Bọn chúng không nói ra thì ta cũng không có lòng khoe khoang. Ôi, ngươi không biết đấy thôi, lần đó Oa khấu tất nhiên bại vong, nhưng dân chúng bị bắt theo thuyền cũng chìm xuống biển, chẳng ai sống sót… Nói đến đó, hắn chợt im bặt, nhìn ra bóng đêm ngoài xa thở dài. Lục Tiệm cũng ngẩn người ra, nghĩ tới Oa khấu và dân chúng bị bắt đều đi cùng thuyền, là giết hay cứu đều rất khó quyết. Nếu đổi lại là mình chắc không thể quả quyết như Cốc Chẩn. Trong lúc trầm mặc, y nhìn Cốc Chẩn, bỗng thấy người trước mắt mình trở nên có mấy phần xa lạ. Lúc này Ngư Truyền đã đem đồ ăn đến, bày ra mấy món, là cá hấp rượu, thịt lợn hầm, đậu hũ sốt, lại có hai đĩa hoa quả. Cốc Chẩn cười nói: - Ta ăn uống chỉ cần tiện lợi, nếu ngươi không ngại thức ăn nguội lạnh thì ăn tạm vài món. Lục Tiệm cười nói: - Ta từ nhỏ thường thường bị đói, những món ăn này dù là trong mơ cũng chẳng được ăn. Y vốn đã đói rồi, liền lập tức xới cơm ăn như rồng cuốn. Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm chợt có chút buồn rầu, bỏ đũa rót rượu, uống hết một chén lại rót tiếp. Cứ uống như vậy hết ba chén rượu mới lại cầm đũa ăn tiếp. Ăn xong cơm thì cũng vừa lúc Hồng Thư ôm hai bộ áp giáp về, đều là của chức quan nhỏ, lại còn thêm hai thanh yêu đao. Lục Tiệm không kìm được, hỏi: - Những cái này tốn bao nhiêu ngân lượng? Hồng Thư ứng tiếng đáp: - Mỗi bộ ba trăm lượng, người bán quen với tôi nên ngoài giáp trụ còn cho thêm hai thanh yêu đao. Lục Tiệm không biết nên cười hay nên khóc, lắc đầu nói: - Đám quan quân đó thật là hoang đường, thảo nào cứ đánh là thua. Cốc Chẩn thấy y bất bình không yên liền cười thầm nói: - Bọn chúng đã không hoang đường thì đã chẳng gọi là quan quân rồi. Hai người mặc giáp cài đao rồi vững bước ra khỏi cửa. Dọc đường chỉ thấy quân binh yên lặng mai phục, không bóng người qua lại, đường xá tối đen, ánh lửa ẩn hiện, xa xa nghe tiếng giày chiến lạo xa, lúc có lúc không. Hai người trà trộn vào phía sau một đội quân sĩ, đi tới ngoài Tam Sơn môn. Đã thấy giữa nội thành và tường vây bên ngoài đã dựng một đài gỗ cao mười trượng, bốn phía chất đầy gỗ dễ cháy, không biết là để làm gì. Hai người đi lên thành lâu, dọc theo tường thành, một nhóm người đang chuyển tới đó mấy chục khẩu hỏa pháo, chất thêm súng điểu, cung tên. Quân sĩ vận chuyển khí cụ đi qua đi lại, thỉnh thoảng thấp giọng nói mấy câu đều bị cuồng phong thổi qua cuốn đi xa mất. Hai người chức quan không nhỏ nên đứng tại đó binh sĩ tầm thường không dám tra hỏi. Lục Tiệm bị khí thế nơi này hớp hồn, đang xuất thần thì chợt bị Cốc Chẩn kéo vào tiểu lâu rồi leo lên tới tầng cao nhất. Cốc Chẩn lấy ra một cái móc câu phóng lên nóc lầu rồi đu theo lên mái ngói. Lục Tiệm cũng tung mình nhảy lên, cả kinh nói: - Ngươi làm gì vậy? Cốc Chẩn cười nói: - Lên cao nhìn xa, xem càng vui. Lục Tiệm giật mình, đưa mắt nhìn ra xa thì thấy trăng sáng đã lặn về tây, sao trời cũng dần biến mất, gió từ phía đông thổi tới làm quần áo, đầu tóc tung tay, chân tay phát lạnh. Chỗ này là cao nhất ở Nam Kinh, bóng đêm chưa tan hết, vạn hộ im ắng. Sông lớn chảy về đông, phá đi màn đêm trầm lặng. Chung Sơn sương mù dầy đặc, như tách rời trời đất ra khỏi vũ trụ. Bỗng nghe tiếng người truyền tới, cúi đầu nhìn xuống thấy mấy tên quân sĩ đẩy một chiếc xe tới đầu thành. Trầm Chu Hư ngồi trên xe, tay cầm quạt lông chỉ ra xa, Hồ Tôn Hiến đứng bên cạnh, vẻ mặt nghiêm lạnh, không ngừng gật đầu. Lục Tiệm ngạc nhiên nói: - Hồ Tôn Hiến chưa rời thành ư? Cốc Chẩn nói: - Hư tất có thật, thật tất có hư, nói là Hồ Tôn Hiến rời thành chẳng qua là quỷ kế của lão Trầm què. (người dịch: Trầm qua tử là lão Trầm què, trước đây tớ không biết nên để nguyên là Trầm qua tử, từ bây giờ sẽ dùng từ đã dịch là lão Trầm què). Nói tới đó, hắn trừng trừng nhìn Trầm Chu Hư, lộ ra vẻ hận thù sâu sắc. - Cốc Chẩn. – Lục Tiệm không kìm được, nói – Giữa ngươi và Trầm Chu Hư cuối cùng có thù hận gì? Cốc Chẩn nhíu mày, im lặng một lúc rồi từ từ nói: - Thương Thanh Ảnh đó, ngươi thấy rồi chứ? Lục Tiệm nói: - Thấy rồi. Cốc Chẩn thở ra một hơi, từng chữ nói: - Bà ta là mẹ ruột sinh ra ta. Lục Tiệm bất giác trợn mắt há miệng, nghĩ lại tối hôm đó trước phật đường, lời Cốc Chẩn nói rõ ràng là oán hận Thương Thanh Ảnh bỏ rơi mình, “xú bà nương” mà hắn nói tất là người đàn bà này không sai rồi. Trong nháy mắt, bao nhiêu nghi hoặc trong lòng Lục Tiệm đều thông suốt, lại thấy Cốc Chẩn cúi đầu không nói, muốn khuyên nhủ mấy câu nhưng lại hận mồm miệng không khéo léo, không nghĩ ra được câu gì hay ho. Hai người nhất thời trầm mặc, chỉ có gió gào thét thổi qua người. Trong lúc trầm mặc, dưới cái đài gỗ kia ánh lửa bật sáng rồi bắt đầu bùng lên, trên thành ngoài cũng nổi lên một trận huyên náo, kêu gọi cứu binh. Đài gỗ bị lưỡi lửa nuốt chửng, ánh lửa xung trời, từ xa mười dặm cũng có thể trông thấy. Lục Tiệm cảm thấy rất kỳ quái, quay đầu lại nhìn thì trong thành cũng có năm chỗ lửa cháy, bất giác cả kinh nói: - Có việc gì vậy? Cốc Chẩn nói: - Lửa là Trầm Chu Hư đốt, Uông Trực ở ngoài thành, thấy lửa cháy lên, lại nghe tiếng kêu là tất nhiên sẽ tưởng là Từ Hải đang chiếm cửa thành… Đột nhiên nghe rầm một tiếng rồi cầu thành hạ xuống, cửa thành mở ra, tiếng kêu cứu trên đầu thành lại càng gấp gáp. Ngoài thành vẫn tối đen không có động tĩnh, bỗng ánh lửa chớp lên mấy đốm lửa sáng, rồi dần dần như lửa cháy tràn ra, lại như bệnh dịch lan nhanh, cả núi ánh lửa đều bốc lên mạnh liệt, dầy đặc như sao trời, tụ lại thành dòng hướng vào trong thành ùa đến. - Nhiều người như vậy ư? Lục Tiệm nhìn mà phải hít một hơi khí lạnh. Cốc Chẩn cũng kinh ngạc: - Phiền phức lớn rồi. Số người của Oa khấu trước đây không tới ngàn người, hiện giờ nhìn ở đây thì kẻ tới đâu chỉ có một vạn người? Đưa mắt nhìn qua,chỉ thấy Trầm, Hồ hai người đều thần sắc ngưng trọng, ghé tai nói chuyện, bất giác trong lòng vui sướng: “Lão Trầm què đặt bẫy bắt hồ ly, không ngờ kẻ tới lại là một con sư tử, không, hắc hắc, là một con voi lớn mới đúng. Hay lắm, hay lắm, để xem ngươi bắt hắn hay là hắn ăn thịt ngươi?” Dòng thác lửa đó đến gần, theo gió truyền tới tiếng hò hét của Oa khấu, lúc đầu chỉ như rừng đào xào xạc rồi dần trở thành khí thế như núi lở biển động. Quân Minh trên đầu thành thảy đều biến sắc, hai chân run run đứng không vững nữa. Ánh lửa càng gần, đã có thể nhìn thấy những tên Oa khấu đi đầu, có tên cả người mặc áo giáp nặng, đầu đội mũ góc; lại có tên mặc áo vải đeo mặt nạ quỷ, chạy như điên cuồng. Hàng trăm nghìn thanh trường đao chiếu sáng lạnh lẽo, hàn khí xung trời. Trầm, Hồ đột nhiên im bặt, thận trọng nhìn nhau, mặt đều hiện lên vẻ kiên nghị, ánh mắt song song chiếu tới ngoài thành. Cửa thành mở rộng, quân Oa chuẩn bị tiến vào thì đúng lúc này chợt nghe một người cao giọng gào lên: - Có phục binh, mau lùi, mau lùi… Giọng đó vừa cao vừa chói, như cương trùy đâm vào tai. Lục Tiệm ngửng đầu lên, chỉ thấy một người đứng ở tường ngoài, đầu tóc tung bay, trợn đôi mắt đỏ ngầu như một con sói hung dữ đang ngẩn đầu kêu rú. “Hoàn Trung Khuyết.” Lục Tiệm chút nữa đã buột miệng kêu lên. Bỗng thấy Trầm Chu Hư đưa quạt lông ra chỉ một cái, cờ lệnh phất theo, mưa tên liền bắn ra. Hoàn Trung Khuyết biến thành cái bao tập bắn tên, cả người trúng mấy chục mũi tên như kim châm, từ trên đầu thành nặng nề rơi xuống giữa trận tiền của Oa khấu. Biến cố chết người, những tên Oa khấu đi đầu nhìn cái xác máu me trước mặt, kinh hãi đến ngẩn người, chưa kịp lùi lại thì Oa quân phía sau đã hung dũng tràn tới. Theo kế của Trầm Chu Hư thì trước tiên trừ Oa khấu trong thành, sau đó bố trí cạm bẫy giữa nội thành và tường ngoài rồi vờ mở cổng thành dụ Uông Trực xông vào. Ai ngờ Hoàn Trung Khuyết lại không sợ chết, gào thét phá kế mai phục. Trầm Chu Hư đành phải phát động sớm, quạt lông lại chỉ ra, pháo súng lập tức cùng nổ, hơn trăm tên Oa khấu đi đầu liền trúng đạn, kêu lên thảm thiết, máu phun đầy đất. Lục Tiệm nhìn mà tâm thần loạn động, cơ hồ không hít thở được, Bỗng nghe Cốc Chẩn cười nhạt nói: - Lão Trầm què chiến đấu cũng chỉ tầm thường. Lục Tiệm ngạc nhiên nói: - Tại sao nói vậy? Cốc Chẩn nói: - Oa nhân đi đầu nghe tiếng kêu của Hoàn Trung Khuyết, lại thấy thảm trạng của hắn nên đã sinh loạn, nếu để yên thì tất sẽ quay đầu bỏ chạy, nhiễu loạn trận thế của quân Oa. Đó gọi là mượn lực đánh lực, lấy địch chế địch. Mọi việc trước mắt đang tốt thì lão Trầm què lại vì cái sướng nhất thời mà đem pháo bắn đám Oa khấu đó không chết cũng bị thương, thay Uông Trực trừ đi được đại họa. Nếu ta là Hồ Tôn Hiến thì trước hết dựa vào tội “chỉ huy bất lực” đánh cho lão ba trăm côn. Hắn khoe được trí kế liền nở mày nở mặt, phảng phất như thật sự đã đè được Trầm Chu Hư xuống đánh cho mấy trăm côn. Bông nghe trong trận Oa khấu tiếng thanh la vang lớn, tiếng cồng thu quân. Đám Oa khấu này đa phần là chân Oa từ Đông Doanh tới, lại có ngư dân của đảo Đại Ngung (người dịch: Oosumi, thuộc Kagoshima-ken ngày nay), Phong Hậu (người dịch: Bungo, thuộc Ōita-ken ngày nay), còn có những kẻ lang thang rèn luyện võ công. Oa nhân ngu si nhưng dũng mãnh, sùng bái quyền uy, chỉ cần thống lĩnh hạ lệnh thì dù chiến hay lùi đều nhất nhất thực hiện; người Hoa “giả Oa” như Uông Trực, Từ Hải hoặc là thống suất ba quân, hoặc là chuyên dẫn đường, về sự hiểm ác hơn xa chân Oa. Tiếng đồng la vang lên, mấy hàng Oa nhân cầm thuẫn tiến lên, ngăn đỡ pháo, đã trên đầu thành, số Oa quân còn lại không hề rối loạn, theo nhau lùi ra ngoài thành. Pháo, đá bắn được mấy lần thì người Oa đã rút hết ra ngoài thành. Lục Tiệm đang cảm thấy đáng tiếc thì bỗng thấy Trầm Chu Hư lại chỉ quạt lông, đầu thành liền đốt lên một ngọn đèn Khổng Minh, lơ lửng bay lên giữa không trung. Lập tức phía sau trận của quân Oa nổi lên từng điểm ánh lửa, như một trận gió lốc cuốn tới. Oa quân lúc đầu trúng phục binh, còn chưa kịp lùi thì phía sau đã lại có địch, lập tức trở nên náo động. Lục Tiệm ngạc nhiên nói: - Sau lưng Oa khấu cũng có quan quân ư? Cốc Chẩn nói: - Đó là Du Đại Du. Lục Tiệm tỉnh ngộ ra: - Đúng rồi, Từ Hải đã từng nói, Du Đại Du đã ra khỏi thành rồi. Cốc Chẩn nói: - Ngoài mặt ông ta dẫn quân ra khỏi thành đến Trầm trang. Oa khấu tưởng ông ta trúng kế, đương nhiên yên tâm công thành, vạn lần không ngờ Du Đại Du đi được nửa đường thì tiến hành Hồi mã thương, chuyển sang mai phục ở phía sau quân Oa. Oa khấu công thành thì ông ta công Oa khấu. Hừ, liên hoàn kế này của lão Trầm què quả thật hiểm độc. Nói xong lại trừng mắt nhìn Trầm Chu Hư, nghiến răng căm hận. Lục Tiệm cảm thấy kỳ quái, hỏi: - Cuối cùng là ngươi giúp ai? Người không biết thế nào còn tưởng ngươi là Oa khấu đấy? - Ta chẳng vì ai cả. – Cốc Chẩn cười nhạt nói – Vì chính mình là được rồi. Lục Tiệm bất giác im lặng, thầm nghĩ Cốc Chẩn thông minh như vậy nhưng cũng không sao giải được mối hận trong lòng. Nếu đổi lại là mình thì mẹ đẻ dù sao cũng là mẹ đẻ, hận một lúc chứ không thể hận cả đời. Nhưng y nghĩ thì dễ, không biết rằng trên đời này người càng thông minh thì càng nhiều tâm sự, trăm ngàn mối tơ lòng bám chặt không dễ rời. Cốc Chẩn cho dù khoáng đạt nhưng cũng không thể tránh khỏi. Ô ô ô, một trận tù và vang lên, làm nổi lên cảm giác mãnh liệt, vang vọng trên không trung thành trì. Sau đó trống trận rầm rầm vang lên như sấm, quân Oa vãn hồi thế kém, đột nhiên lao về hướng nội thành. Chạy tới cổng thành liền theo tiếng trống, nháy mắt đã chia thành ba đội. Một đội năm nghìn người, tập trung thành trận, ở trước cửa ngăn chặn Du Đại Du. Một đội ba nghìn người, áp chế quân Minh trong nội thành. Còn lại hai nghìn quân tinh nhuệ thì theo bậc thang bằng đá đánh tới tường ngoài. Trong nháy mắt, hai bên tiến thoái công thủ, như răng lược cài nhau, hò hét vang trời, kêu thảm chói tai. Tường ngoài quân Minh dùng cung tên, gạch đá ném xuống, Oa quân chết lăn, tên, đá va chạm vào giáp sắt mũ sắt vang lên tiếng đinh đinh liên hồi như mưa rào. Cốc Chẩn bất giác tán thưởng nói: - Uông lão tặc cũng có chút chiến lược. Lục Tiệm hỏi: - Chiến lược gì? Cốc Chẩn đưa tay chỉ rồi nói: - Ngươi xem, Oa khấu hạ được tường ngoài thì sẽ như thế nào? Lục Tiệm ngưng thần nhìn một lượt, sắc mặt chợt biến, thất thanh nói: - Không hay rồi. Cốc Chẩn nói: - Tại sao không hay? Lục Tiệm nói: - Tường ngoài bị vây hãm thì người Oa có thể chặn Du Đại Du ở ngoài thành, phá được thế giáp công trước sau, thật bất lợi. - Kiến thức hay lắm. – Cốc Chẩn nhìn Lục Tiệm, hơi lộ vẻ kinh ngạc, cười nói – Nhưng không chỉ như vậy, nếu tường ngoài thất thủ thì quân Minh mất hết địa lợi. Uông Trực tiến có thể công, lùi có thể thủ, chính là chuyển khách thành chủ, là sát chước tìm sống trong chỗ chết. Lão tặc đó không thẹn là Hỗn thế ma vương, có thể trong lúc hỗn loạn như vậy nhìn ra được cơ hội thắng lợi, mấu chốt sinh tử. Vì vậy trận chiến ngày hôm nay ai giành được tường ngoài thì người đó chiến thắng. Nói tới đây thì bậc thang bằng đá hướng lên tường ngoài thành dĩ nhiên đã máu chảy thành sông. Quân Oa công thành đã quen đánh từ dưới lên, đội mũ sắt sừng trâu, đeo mặt nạ quỷ quái, trường đao dài năm xích vung lên thì tất cả đều bị hủy diệt. Hàng quân Oa đi sau áo vải đầu trần, dùng thương dài hai trượng đoạn hậu, từ xa đâm tới không cho quan quân dưới thành đến gần. Còn ở giữa là hai đội dùng súng điểu, một đội nhồi thuốc súng, một đội bắn, cứ nghe theo hiệu lệnh mà lúc bắn về phía trước, lúc bắn ra đằng sau, giống như sấm sét điện chớp, trúng nhiều trượt ít. Quan quân tuy chiếm được địa lợi nhưng không địch nổi thế công của địch, mắt thấy quân Oa từng bước bức tới, đến gần thành lâu. Lục Tiệm nhìn đến miệng đắng nghét, thở dài nói: - Trầm Chu Hư được gọi là Thiên Toán, sao lại không tính được việc này? - Lão tính được thì sao? – Cốc Chẩn cười nhạt nói – Quan quân trên thành không dưới một vạn, quan quân dưới thành khoảng hai vạn, lại tính thêm năm nghìn nhân mã ngoài thành của Du Đại Du thì quan quân có hơn ba vạn, Oa khấu thì hơn một vạn. Lấy số người mà tính thì lấy ba địch một không thể không thắng. Chỉ đáng tiếc là trong mưu kế của Trầm Chu Hư lại có một khó khăn bất đắc dĩ. Lục Tiệm nói: - Khó khăn gì? Cốc Chẩn nói: - Nếu là Du Đại Du trấn thủ tường ngoài thì quân Oa đừng mong đánh lên được, nhưng kế này của lão Trầm què quan trọng là phải dụ được địch. Du Đại Du uy danh vang rền, nếu không tự mắt thấy ông ta rời thành thì Uông Trực đương nhiên không dám vào thành, nhưng nếu ông ta rời thành thì lại không có ai trấn thủ tường ngoài, đằng nào cũng khó. Lão Trầm què tuy lấy binh lực bù vào chỗ thiếu nhưng nghìn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm, nhìn quanh ngoài Du Đại Du chẳng còn ai có khả năng bảo vệ tường ngoài… Chưa dứt lời đã nghe một tiếng hét, khí thế như trời sập. Hai người theo âm thanh nhìn ra, thấy đội Oa khấu trước cổng thành náo động rồi lộ ra một chỗ hổng để một kỵ sĩ rầm rầm lao ra. Kỵ sĩ này thân hình khôi vĩ, toàn thân mặc áo giáp nặng, râu trắng nhuộm đầy máu tươi, thanh đại quan đao cầm trong tay cũng đã hoàn toàn sứt mẻ, máu chảy ròng ròng. - Du lão tướng quân! Trên thành dưới thành tiếng hoan hô nổi lên như sấm, quan quân trên tường ngoài phấn chấn khí thế, đẩy lùi quân Oa công thành tới hai trượng. Chợt nghe một tiếng hí nhỏ, con ngựa trắng Du Đại Du cưỡi đột nhiên chúi về phía trước rồi ngã xuống đất. Du Đại Du chống quan đao trụ thân hình rồi cúi đầu nhìn xuống, con ngựa đó từ đầu đến chân máu chảy như suối, lông da đều nhuộm đỏ máu, đôi mắt to ảm đạm khép lại. - Tuyết Ngọc Long! Du Đại Du thất thanh kinh hãi kêu lên. Con ngựa yêu quý này đã theo ông ta vào sinh ra tử, trải qua trăm chận, tuy là vật cưỡi nhưng thật cũng là bạn thân. Vừa rồi ông ta thấy tình thế không ổn, lập tức đem quân tinh nhuệ đánh vào trong thành, muốn phòng thủ tường ngoài. Không ngờ trong lúc đột vây thì tùy tùng chết hết, con ngựa trắng cũng trúng hơn mười vết thương trên mình, xông được vào thành thì cuối cùng cũng ngã xuống. Du Đại Du nhẫn nại chịu đau thương, đưa mắt nhìn ra thấy quân Oa đã lên được thành quá nửa, lập tức cắm quan đao xuống đất, một tiếng như rồng ngâm vang lên đã rút kiếm ra. - Du Đại Du ư? – Trong quân Oa nổi lên một tiếng kêu quái dị - Lão ở đây à? Một bóng đen như điện luồn qua đám người lao ra, nhảy tới trước mặt Du Đại Du rít giọng nói: - Ngươi là Du Đại Du? Du Đại Du kiếm thuật cao tuyệt, hào hiệp trượng nghĩa, năm xưa lúc ở Lĩnh Nam đã một mình một kiếm giết Tô Thanh Xà, phá Khang lão tặc, bình phục bảy mươi hai động. Sau đó trấn thủ Đông Nam, dưới kiếm du hồn vô số, người Oa nghe tên đã vỡ mật, tôn là “Trung Hoa đệ nhất kiếm”. Lúc này ông ta nghe hỏi liền nhíu mày gật đầu nói: - Chính là Du mỗ, ngươi là ai? Người đó cao giọng cười, ngọng nghịu nói: - Ta là đảo chủ Đại Ngung đảo Tân Ngũ Lang của Đông Doanh, đặc biệt đến lĩnh giáo. Du Đại Du quan tâm đến chiến sự, có hơi chút không nhẫn nại liền xua tay nói: - Ngươi xuất đao trước đi! Tân Ngũ Lang giật mình, đột nhiên nhảy choi choi tức giận kêu lên: - Ai cần ngươi nhường, ai cần ngươi nhường… Du Đại Du nhíu mày, quát một tiếng: - Được. Âm thanh chưa dứt, bóng đao bóng kiếm đã như tia điện giữa không trung, vừa giao nhau đã tách rời. Trong nháy mắt xung quanh im lặng, binh tướng hai bên đều bị bóng đao kiếm đó đoạt mất hồn phách. Cộp cộp cộp, Du Đại Du chân không chạm đất, chạy thẳng lên tường ngoài. Tân Ngũ Lang hai mắt trợn tròn, trường đao chỉ xuống đất, cổ họng vang lên tiếng òng ọc, máu chảy qua y phục, từ chân chảy xuống đất. Tân Ngũ Lang một chiêu mất mạng, quân Oa mất hết khí thế. Du Đại Du phấn khởi thần uy, đánh thẳng vào trận quân Oa, bóng chưởng ánh kiếm lúc tỏ lúc mờ, tỏ thì như cầu vồng, mờ thì như nước biếc, trường đao quanh người thi nhau rơi rụng, thương dài gục xuống. Những mũi tên dày đặc bắn tới chạm vào giáp sắt của ông ta đều không thể xuyên thủng. Nhất thời mây mù dày đặc, gió nổi vù vù, trăng đã lặn về tây, phương đông vẫn chưa sáng tỏ, sắc đêm trầm trầm nặng như chì áp lền đầu thành. Tiếng trống tiếng la huyên náo đến tận trời, náo loạn hồn phách, trong đó còn kèm theo tiếng tù và nho nhỏ, ô ô oa oa như tiếng khóc than. Quan quân không thể đánh lâu, chỉ một trận là lập tức lùi lại. Duy chỉ có Du Đại Du đánh giết tới phía dưới tường ngoài, vừa định xông lên trên thì đột nhiên trước mặt nổi gió rồi trường thương đâm tới. Du Đại Du cảm thấy có điều kỳ dị liền vung kiếm đẩy ra, ai ngờ thương này kình lực trầm hùng, hiển nhiên khó đỡ. Du Đại Du một kiếm không gạt được thương đó, chỉ đành lắc người tránh qua. Định thần nhìn lại thì người tới cao không đến năm xích, lông mày chữ bát, sống mũi tẹt, vẻ mặt sầu khổ, trường thương trong tay cán sáng bóng như bạc, dải tua đỏ như máu. - Túc hạ cũng là người Oa? Trong lúc nói, Du Đại Du đã xoạt xoạt xoạt đâm ra ba kiếm trúng ba người. Oa khấu xung quanh kinh hãi vô cùng, đột nhiên kêu ầm lên rồi đồng thời lùi lại, tạo thành một hình tròn vây quanh Du Đại Du. Người thấp lù đó lẳng lặng nhìn Du Đại Du giết người, đã không tấn công cũng không lùi lại, chỉ từ từ nói: - Ta không phải là người Oa! Xin lão tướng quân lùi đi, nếu còn tiến một bước thì chỉ sợ phải đắc tội. Du Đại Du nhíu mày nói: - Túc hạ họ gì? Người thấp lùi đó nói: - Kẻ thấp hèn nếu nói đến tên tuổi sẽ làm nhục tổ tông. Du Đại Du nói: - Đã biết liêm sỉ thì tại sao còn giúp giặc làm loạn? Người thấp lùn đó trầm mặc hồi lâu, đột nhiên thở dài nói: - Một ngày làm giặc thì cả đời là giặc. Du Đại Du nhướng mày, vung ngang trường kiếm, cười lớn nói: - Đã như thì xuất thương đi. Người thấp lùn đó ánh mắt lóe lên, giọng nói lại vẫn không nhanh không chậm: - Kiếm pháp của lão tướng quân một nửa là từ Thái Cực kiếm của Võ Đang, một nửa lấy từ Chấn Kiếm đạo trong “Tiên Thiên Bát Kiếm”. Tướng quân thiên phú siêu quần, kết hợp được hai đường lối thành một gia phái riêng, vì vậy nhanh như điện chớp mà chậm thì như rút tơ, cứng thì có thế rồng bay mà mềm thì có thế mây vờn. Nhưng dù như vậy cũng không thể thắng được cây trường thương nhỏ nhoi này, thoái lui vẫn là tốt nhất. Du Đại Du thấy hắn kiến thức hơn người, một thương vừa rồi cũng có khí thế của bậc tôn sư, người như vậy gia nhập Oa khấu đúng là khiến người ta khó mà hiểu được. Đang còn nghi hoặc thì bỗng nghe người kêu gọi: - Phàn lão tam, Uông lão bảo ngươi giết người này, sao còn ra dáng vẻ đàn bà đó? Tiếng như chuông đồng, nhất thời át hết những tiếng gào thét xung quanh. Du Đại Du nghe vậy động lòng: - Ngươi họ Phàn, có phải là truyền nhân của “Ảo thần thương” Phàn gia không? Người thấp lùn đó vẻ mặt càng sầu khổ, đột nhiên thấp giọng nói: - Tướng quân mau chạy đi. Du Đại Du giật mình, bỗng nghe tiếng giọng nói vang vang kia cười ha ha nói: - Không sai, hắn chính là “Ảo Đồng Tử” Phàn Ngọc Khiêm. Du Đại Du quay đầu nhìn lại, sau lưng có một người béo, thân cao bảy xích, eo lưng cũng đến năm xích, tay cầm một đôi đồng chùy khổng lồ. Bên cạnh hắn có một nam tử tuấn tú đang đứng, mặt như nhồi phấn, ánh mắt quỷ quyệt, tay trái cuốn một sợi xích vàng, vai phải đeo một cái móc câu lớn màu vàng. Cốc Chẩn từ xa nhìn qua, kêu í lên một tiếng nhíu mày nói: - Không ngờ là bọn chúng? Lục Tiệm ngạc nhiên nói: - Ngươi nhận ra chúng ư? - Ta không nhận ra, nhưng đã từng nghe nói tới. – Cốc Chẩn nói – Người áo đỏ đó tên là “Kim Câu Liêm”, người béo tên là “Đồng Qua Chùy”, còn người thấp lùn tên là “Điểm Cương Thương”, hợp lại xưng là Long Môn Tam Sát, danh hiệu thô tục nhưng lại là cự khấu ở phương bắc, tung hoành vô địch. Uông Trực mời được ba tên sát tinh này thì Du Đại Du chỉ sợ gặp khó rồi… Nói đến đó bỗng nghe mái ngói kêu khẽ một tiếng, đưa mắt nhìn sang thì bên mình trống không, đã không còn thấy bóng dáng Lục Tiệm. Cốc Chẩn lần này tức giận cũng không ít, trong lòng chửi lớn ngu ngốc, nhưng chửi một trận lại định thần nghĩ lại, Lục Tiệm nếu không đi thì đã không phải là Lục Tiệm. Nghĩ đến đó liền thở dài, từ xa nhìn xuống chiến trường, nghĩ tới lúc phân thắng bại mới cảm thấy lần này bất luận là ai thắng cũng đều sẽ thắng thảm, đối với mình vô cùng có lợi. Chỉ bất quá nếu Uông Trực thắng thì sẽ như thế nào khó mà biết được. Nếu thừa cơ thắng lợi mà rút đi thì không nói làm gì, nhưng đã tử thương như hiện giờ mà lại không lấy được hàng hóa vàng ngọc thì lão hồ ly đó cũng không thể khiến người nể phục, đại quyền sẽ mất hết. Chỉ có cách thả sức đốt giết một phen thì mới có thể giải thoát được mối hận trong lòng người Oa. Cốc Chẩn càng nghĩ càng kinh hãi, thầm lo nếu Trầm Chu Hư thất bại thì tất nhiên hại khổ dân chúng, còn nếu Uông Trực thất bại thì Trầm Chu Hư lại được lợi quá lớn, chỉ có cách hai người cùng chết thì mới tốt thôi. Còn đang nghĩ ngợi thì lông tóc chợt dựng đứng, bỗng nảy sinh cảm giác. Hắn quay đầu nhìn lại tức thì cả người cứng đờ. Chỉ thấy một người áo đen bịt mặt, như quỷ mị đứng im trên mái ngói phía sau. Mái tòa tiểu lâu này giống như một chữ “nhân” (人) lớn, trên mái ngói Cốc Chẩn đang ở bên trái, nửa nằm nửa ngồi, còn người bịt mặt ở bên phải, nửa quỳ nửa đứng nên Cốc Chẩn có thể thấy được người đó từ ngực trở lên. Người bịt mặt một là không ngờ trên nóc lầu có người, hai là từ chỗ của hắn cũng không nhìn thấy được Cốc Chẩn. Vừa hiểu rõ điều này, Cốc Chẩn lập tức nín thở ngưng thần, ra sức ổn định tim đang đập thình thịch, chỉ sợ tiếng tim đập quá nhanh sẽ bị người đó phát hiện ra. Không bao lâu, người kia cúi người, từ sau lưng lấy ra một thanh súng điểu, nhắm xuống phía dưới. Cốc Chẩn cảm thấy kỳ quái, thò đầu nhìn theo liền cả kinh, khẩu súng đó hướng tới không phải ai khác mà chính là Trầm Chu Hư. Người bịt mặt ngắm nghía một chút rồi đổ thuốc súng vào, dùng thanh cời nén chặt. Hai tay của hắn trầm ổn, ánh mắt chuyên chú, ngưng thần vào khẩu súng gần như quên cả bản thân mình. Cốc Chẩn nhìn hắn hành động không dám thở mạnh, nhịp tim chuyển sang gấp gáp, thầm nghĩ: “Hiện giờ tình thế quan quân hiểm ác, Du Đại Du lại bị vây chặt. Trầm Chu Hư danh nghĩa là thuộc hạ nhưng thực ra là thống soái, nếu lão chết đi thì không người chỉ huy, quan quân tất sẽ loạn…” Nghĩ đến đó, trong lòng ngổn ngang trăm mối, chợt thấy người bịt mặt nhồi thuốc súng đã xong, lại bỏ đạn vào rồi tiếp tục lèn thật chặt. Cốc Chẩn không biết vì sao cổ họng trở nên khô khốc, không kìm được nuốt một ngụm nước bọt, trong lòng tự có một âm thanh cao giọng gào lên: “Mối thù cướp mẹ không thể cùng sống. Người này báo thù cho ngươi, ngươi cảm ơn hắn còn chưa đủ, lo lắng cái gì? Ha, lo lắng cho ai chứ, lão Trầm què ư? Ngươi hoặc là điên, hoặc là ngu rồi! Còn đám dân chúnh kia thì dù sống dù chết có liên quan gì đến ngươi? Ngươi không vì mình thì trời tru đất diệt. Thương Thanh Ảnh trong lúc bỏ đi liệu có nghĩ đến ngươi không? Lúc lưu lạc giang hồ, bị người coi thường làm nhục thì có ai thương ngươi không? Bị giam trong ngục đảo, uống nước đắng, ăn cơm hẩm, không có chút ánh sáng thì có ai quan tâm tới ngươi không? Người trên đời đa phần đều ích kỷ, chết vài mạng có gì là không được chứ… Cốc Chẩn hít một hơi dài, trong lòng hơi bình tĩnh lại, đưa mắt nhìn qua thì người bịt mặt đó đã lấy ra ngòi dẫn lửa, vẻ mặt bình tĩnh. Cốc Chẩn bất giác lại nghĩ: “Cứ cho là ta chịu cứu lão Trầm què thì phải đổi lại bằng tính mạng của mình. Chết cũng không quan trọng, nhưng oan khuất của ta còn chưa được rửa sạch, nếu chết đi thì chẳng phải sẽ gánh tiếng xấu muôn đời ư…” Nghĩ tới đó, hắn ngẩng đầu nhìn qua, đằng chân trời đã đã lóe lên một tia nắng như đang vùng vẫy, len lỏi giữa những đám mây dày đặc, dần dần biến thành sáng tỏ, phá tan màn đêm. Cốc Chẩn bỗng cảm thấy khô khát, cả người mồ hôi như tắm. Đưa mắt nhìn qua, người bịt mặt đã châm ngòi dẫn lửa rồi quỳ xuống, nòng súng dài dài đen đến phát sáng. Cốc Chẩn chỉ thấy đầu như muốn nổ tung, huyệt Thái Dương dập bình bình, thầm nghĩ: “Ta thật sự ngu rồi, điên rồi. Những việc này có gì mà phải nghĩ chứ? Chỉ một chút là lão Trầm què hết may mắn, ta báo được thù lớn, sao lại không vui? Còn đám dân chúng kia có liên quan gì tới ta, đã không phải là cha ta, cũng không phải mẹ ta. Phì, xúi quẩy, lại nghĩ đến con mụ thối tha đó, bà ta chỉ sợ còn đang mơ ngủ, nếu đang nằm mơ thì bà ta, bà ta có mơ đến ta không…” Nghĩ tới đó, hắn bỗng thấy cả người không tự chủ, phiền loạn trong lòng không còn giữ được nữa, cũng không biết cuối cùng nghĩ gì nữa. Đưa mắt nhìn lên thì vết cháy trên ngòi dẫn lửa đang nhanh chóng rút lại, đã gần cháy hết. Trong nháy mắt, không biết vì sao đầu óc Cốc Chẩn chợt nóng lên, nhặt lên một viên ngói lớn giọng quát: - Xem chiêu. Vù một tiếng ném về phía người bịt mặt. Du Đại Du quan sát ba người, gật đầu nói: - Hay lắm, từng người lên hay cả ba cùng vào? Kim Câu Liêm âm trầm cười: - Du lão tướng quân là một đại danh tướng, tôn sư kiếm đạo, một người tiếp đón chẳng phải coi thường ư? Nói như vậy, chỉ có cách tất cả cùng lên. Du Đại Du ngửa mặt cười lớn, tiếng cười chưa dứt ánh sáng đã chớp động, đinh một tiếng trường kiếm đâm trúng móc câu. Du Đại Du một kích không trúng, thân mình chợt chuyển, trường kiếm ngang ngang thuận thế quét ra. Kim Câu Liêm hổ khẩu phát nóng, móc câu đã bị méo đi cả thốn, chỉ sợ Du Đại Du thừa cơ áp sát, lập tức tung mình lùi lại, ai ngờ Du Đại Du tuyệt không truy kích mà đột nhiên xoay người, xoạt một kiếm đã đâm tới Đồng Qua Chùy. Tiếng sắt thép giao nhau, chùy bên trái của Đồng Qua Chùy khó khăn chặn lại nhát kiếm rồi quát lớn một tiếng chùy bên phải đánh xuống trúng vào thân kiếm, trường kiếm vang lên rơi xuống đất. Du Đại Du không tiến mà lùi, một quyền đánh trúng mặt Đồng Quy Chùy. Đồng Quy Chùy đã đưa cả đôi chùy ra ngoài, liền bị đánh đến ngã lăn ra. Hắn không đợi ngã tới đất đã tung người, song chùy chống xuống đất nhảy vọt lên, mặt đỏ bừng chảy cả máu mũi. Du Đại Du dùng chân hất trường kiếm lên cầm trong tay, khẽ nhíu mày. Ba kiếm một quyền vừa rồi nhìn tuy đơn giản nhưng thực ra đã dùng hết bản lĩnh cả đời của ông ta. Du Đại Du dày dạn sa trường, giỏi về đánh giá địch thủ, vừa thấy ba người đã nhìn ra Kim Câu Liêm là yếu nhất, Đồng Qua Chùy thứ nhì, còn Phàn Ngọc Khiêm là mạnh nhất. Vì vậy y theo binh pháp, trước hết đánh kẻ yếu, dùng một kiếm để giết Kim Câu Liêm, lúc không đánh trúng lại dùng nhu kình làm méo móc câu. Mọi người đều nghĩ ông ta muốn thừa sơ hở xông vào, ai ngờ ông ta lựa lúc không để ý, chuyển sang đâm Đồng Qua Chùy. Đồng Qua Chùy cũng không kém, có thể dùng chùy bên trái đỡ kiếm, chùy bên phải đập kiếm, vạn lần không ngờ vẫn nằm trong tính toán của Du Đại Du, vì vậy đồng chùy vừa hạ xuống thì Du Đại Du đã bỏ kiếm xuất quyền. Quyền đó là “Nhất Thần quyền pháp” của Tam Tổ Tự trên Thiên Trụ sơn, mạnh như trâu mà cũng một quyền là có thể đấm chết. Trong mấy chiêu quyền kiếm đó kèm cả binh pháp, kỳ ảo khó đoán, vốn không gì không thắng. Vạn lần không ngờ Đồng Qua Chùy trúng một quyền mà không có gì đáng ngại, chỉ đưa tay quẹt máu mũi rồi liếm sạch, cười cổ quái nói: - Tuyệt lắm, tuyệt lắm. Mũi hắn sưng vù lên, lúc nói ấp a ấp úng, nghe vô cùng buồn cười. Kim Câu Liêm nheo mắt nhếch miệng, hắc hắc cười nói: - Lão tướng quân có điều không rõ, nhị đệ của ta từ nhỏ đã mình đồng da sắt, rất thích bị đánh đau. Tiếng “đánh” vừa nói ra thì móc câu đã xuất, từ quanh eo đánh ra. Du Đại Du đưa kiếm gạt đi, bỗng thấy bên mình nổi lên tiếng gió, Đồng Qua Chùy mặt mũi hung ác, một chùy phóng nhanh tới. Chùy lớn lực mạnh, Du Đại Du không muốn ngạnh tiếp, thân liền như du long dùng ra một đường khoái kiếm, thế như cuồng phong chuyên đánh vào chỗ sơ hở của móc câu, đồng chùy. Hai người không ngờ ông ta tuổi quá năm chục mà còn có thể sử dụng ra khoái kiếm nhưu vậy, trong lòng lạnh buốt, binh khí trong tay đỡ trên gạt dưới, chỉ thủ không công. Nhưng trên kiếm của Du Đại Du có kèm theo kình lực tròn của Thái Cực công, liên miên bất tận, móc câu, đồng chùy lại rất nặng nề, bị ông ta thuận thế đẩy đi, vội vàng thu hồi về không kịp để lộ ra sơ hở. Nếu không phải hai người cứu viện lẫn nhau thì chỉ sợ trong khoảng khắc đã có người theo bước của Tân Ngũ Lang. Cứ lấy nhanh đánh nhanh như vậy, trường kiếm nhẹ nhàng mà vẫn thừa thãi, móc câu, chùy nặng nề mà vẫn không đủ. Phàn Ngọc Khiêm trước sau vẫn chống thương lạnh nhạt đứng nhìn. Bỗng thấy Du Đại Du lợi dụng sơ hở, một kiếm chém ra đâm vào sườn trái của Kim Câu Liêm, xoạt một tiếng xé rách cả áo. Kim Câu Liêm kiệt sức né tránh, Du Đại Du thuận thế thu kiếm, trên sườn hắn liền lộ ra một vết thương dài, máu chảy ròng ròng. Kim Câu Liêm kêu thảm một tiếng, cao giọng gọi: - Lão tam, còn đứng đó làm gì? Phàn Ngọc Khiểm ngẩn người ra, Kim Câu Liêm trừng mắt nhìn hắn, hung dữ nói: - Ngươi muốn Tiểu Yên làm quả phụ sao? Phàn Ngọc Khiên lộ ra vẻ cùng đường, thở dài nói: - Lão tướng quân cẩn thận nhé. Trường thương giơ lên đâm về phía chân trái Du Đại Du. Du Đại Du vận kiếm gạt ra, trên thương như có điện giật, chấn động khiến cổ tay ông ta phát tê. Du Đại Du cả kinh vội xoay cổ tay, thuận theo thương thế hóa giải kình lực kỳ lạ đó. Tiếng ong ong như tiếng gió theo thương không ngừng phát ra, càng đến gần càng vang to. Du Đại Du trán toát mồ hôi, ông ta hiểu rõ cán thương nhìn như bất động nhưng thật ra không ngừng vẽ thành vòng tròn, càng vẽ càng nhanh, chỉ có điều phạm vi cực nhỏ, không tới nửa phân. Trong lúc thương xoay vòng thì kình lực trên thương từng đợt tấn công vào trường kiếm, chỉ cần nội kình trên kiếm hơi lơ là thì trường thương sẽ thế như chẻ tre đánh tới. Vì vậy trong mắt người thường thì thương kiếm giao nhau đứng bất động, không ai biết hai người đang dựa vào binh khí trong tay để đấu nội kình, sự nguy hiểm của nó so với thương qua kiếm lại còn hơn gấp mười lần. Kim Câu Liêm, Đồng Qua Chùy nhìn với vẻ thích thú, Kim Câu Liêm cười nói: - Lão tam tìm được đối thủ rồi. Đồng Qua Chùy cũng ấp úng nói: - Hay là để ta cho hắn một phát, đánh cho hắn óc máu cùng tuôn. - Không được, không được. – Kim Câu Liêm cười nói – Cái đầu của lão rất đáng giá, ngươi một chùy đánh nát bấy, nhìn không ra mặt, Uông lão không chịu nhận thì chẳng phải khơi khơi mất mấy vạn lượng bạc sao. Nói xong tháo xích vàng trên tay ra, bắt đầu quay móc câu vù vù. Du Đại Du nghe mà kinh hãi, nhưng lại không có cách nào thoát khỏi kình lực trên thương. Phải biết cao thủ dùng thương từ xưa đã khó chống lại, có câu rằng: “Hai mươi năm luyện lê hoa thương, thiên hạ không có đối thủ.” Thương pháp càng mạnh thì vòng thương càng nhỏ càng nhanh, so với vòng thương lớn, kình lực phân tán thì khó đối phó hơn nhiều. Du Đại Du trải trăm trận chiến, cao thủ dùng thương đã gặp không ít, nhưng vòng thương đã thấy qua ít nhất cũng hơn nửa xích. Loại vòng thương như của Phàn Ngọc Khiêm còn chưa từng thấy qua. Cho dù là ai, nếu có thể đem lực của toàn thân tụ vào một khoảng nhỏ bằng nửa phân đó thì không gì không xuyên thủng được. Có điều người bình thường cho dù luyện đến chết cũng không thể đạt đến cảnh giới như vậy. Phàn Ngọc Khiêm xuất thân là thế gia về thương pháp, từ nhỏ đã là thần đồng. Lúc mười tuổi vòng thương thu lại còn một xích, năm mười lăm tuổi thì vòng thương không tới ba thốn, người đời gọi là “Ảo đồng tử”, danh vang phương bắc. Nhưng năm hắn mười tám tuổi, Phàn gia gặp phải kẻ đối đầu vô cùng lợi hại, tuy có thương pháp tuyệt thế nhưng vẫn bị diệt cả nhà, Phàn Ngọc Khiêm đem theo em gái Phàn Tiểu Yên chạy thoát. Trong lúc nguy nan, may được Kim Câu Liêm thu lưu. Phàn Tiểu Yên nhất thời sinh tình, gả cho Kim gia. Không ngờ Kim Câu Liêm ngoài mặt là một công tử như thật ra lại là đạo tặc, liền lấy Phàn Tiểu Yên làm con tin, bức bách Phàn Ngọc Khiêm phải nhập bọn. Phàn Ngọc Khiêm gia thế cao quý, lúc đầu không chịu rơi vào vũng bùn, có điều huynh muội tình thâm, hắn không nhập bọn thì Kim Câu Liêm liền làm nhục Phàn Tiểu Yên đủ đường. Phàn Ngọc Khiêm thương pháp tuy cao nhưng tính tình lại vô cùng nhu nhược, vì em gái nên đành theo Kim Câu Liêm làm nhiều việc trái với lương tâm. Lúc này hắn dùng thương giữ chặt Du Đại Du, trong lòng lại rất mâu thuẫn. Nhưng Du Đại Du kiếm pháp cao cường, nếu lơi lỏng nhẹ tay một chút thì người chết chính là hắn, vì vậy đánh đến chỗ quên hết mọi việc, thương kình như thủy ngân rơi xuống đất, chuyên nhằm vào những chỗ sơ hở của Du Đại Du đánh vào. Vù, móc câu rít lên, nhắm sau lưng Du Đại Du đánh tới, mũi nhọn chưa tới nơi mà kình khí đã ập vào người. Du Đại Du bất giác hai mắt trợn lên, trầm giọng quát một tiếng, Phàn Ngọc Khiên chợt cảm thấy nội kình trên kiếm yếu đi, lập tức trường thương lao vào, đâm trúng chân trái Du Đại Du. Du Đại Du nhịn đau thu kiếm, xoay tay đẩy ra, đinh một tiếng móc câu đã bắn ngược về phía sau. Nhưng Du Đại Du thân mình nghiêng đi, đầu gối bên trái quỵ hẳn xuống. Phàn Ngọc Khiêm nể mặt thì đã không hạ thủ, đã hạ thủ thì không nể mặt nữa, đã đâm một thương thì lại đâm thêm một thương nữa vào chân phải Du Đại Du. Du Đại Du lùi một bước rồi dốc sức dùng trường kiếm trong tay ném ra. Đồng Qua Chùy tiến lên vùng chùy đánh bay trường kiếm, chùy bên phải lại nhằm mặt đánh tới. Du Đại Du một quyền tống ra, chùy quyền giao nhau, hai người đồng thời chấn động. Du Đại Du phun ra một ngụm máu tươi rồi ngã xuống. Đồng Qua Chùy ngực cũng nóng lên, chùy văng về phía sau có mấy phần không không chế được. Bỗng nghe Kim Câu Liên hét lên: - Lão nhị tránh ra. Đồng Qua Chùy đưa mắt nhìn qua, cái móc câu đó vạch nửa vòng trong trên không trung rồi vù một tiếng chụp tới Du Đại Du. Đột nhiên bóng đen chớp động, trên trường đấu đã xuất hiện thêm một người áo tơi mũ tre, chuyển động nhanh như điện, ngay trước mũi móc câu chụp lấy Du Đại Du rồi co chân bỏ chạy. Kim Câu Liêm mắt thấy vịt chín vẫn còn bay, vừa kinh hãi vừa tức giận liền quát lớn một tiếng tay co lại, cái móc câu đó càng nhanh, thế như muốn chặt cả Du Đại Du lẫn người áo tơi đó thành hai đoạn. Nhưng người áo tơi lực chân kinh người, nhanh không thua gì móc câu bay, móc câu tuy gấp nhưng trước sau vẫn cách xa chừng đó, không cách nào rút ngắn khoảng cách với hắn. - Lão tam. Kim Câu Liêm gấp rút hét to, Phàn Ngọc Khiêm thở dài rồi vung trường thương, đánh trúng vào móc câu. Móc câu đó bị thương của hắn đánh trúng, đột nhiên nhanh hơn gấp bội Người áo tơi chính là Yến Vị Quy, chợt thấy tiếng gió sau lưng tăng vọt, không kịp tránh né. Trong lúc nguy cấp thì lại nghe cong một tiếng, cuồng phong sau lưng tán loạn giống như vừa giao kích sấm sét với một kình lực khác. Thuận theo kình phong, Yến Vị Quy chạy càng nhanh, phi ra mấy trượng không nhịn được quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một viên quan nhỏ tuổi nhỏ thẳng người đứng đó, cái móc câu kia như một đạo lưu quang vụt thẳng về phía Phàn Ngọc Khiêm. Yến Vị Quy nhận ra người đó là Lục Tiệm, vừa kinh hãi vừa vui mừng, há miệng kêu dài một tiếng rồi chạy thẳng vào nội thành. Quân Oa kêu lớn hét nhỏ, trường thương dựng lên nhắm vào hắn đang lăng không đâm loạn. Yến Vị Quy vẫn cười dài không ngớt, không tránh không né, hai chân như đạp trên rừng mũi thương, nhẹ nhàng như sương khói bay vào giữa đám quan quân rồi chớp mắt đã biến mất.