uân phiến loạn đầu hàng sáng sớm chủ nhật. Không còn cách nào có thể rút lui được đối với hàng trăm người bị dồn nén ra bờ biển. Chỉ có một chiếc ghe may mắn thoát được từ Forwey để đi Plymouth, trong ánh sáng chập chờn của rạng đông. Chiếc ghe chở bá tước Essex và viên cố vấn là hầu tước Robartes. Chúng tôi nghe được tin đó sau này và chúng tôi cũng biết rằng người lính đầu bếp đã giữ lời hứa, về hàng phục Đức Vua, trình bức thư giới thiệu của tôi cho ngài Jacob ở Bodinnick vào tối thứ sáu. Nhưng trước khi Đức Vua nhận được tin mật báo và trước khi đội quân tiền phương được lệnh đề phòng, thì kỵ binh của phe Nghị viện đã bất ngờ mở đường máu, chọc thủng vòng vây và trốn thoát về phía Saltash. Vì thế, chỉ hơi chậm trễ một chút, mà hơn hai ngàn kỵ binh phiến loạn đã chạy thoát, sẵn sàng trở lại chiến đấu. Thật là một bất ngờ nghiêm trọng nhưng bị lãng quên trong không khí chiến thắng và tôi tin rằng người duy nhất nổi trận lôi đình chính là tướng Richard Grenvile. Richard đã gửi một trung đoàn bộ binh đến giải cứu cho chúng tôi vào ngày chủ nhật, mang theo lương thực tiếp tế, nhưng bản thân chàng không đến mà chỉ viết cho tôi vỏn vẹn vài hàng mà không đếm xỉa gì đến mạng sống của tôi và Dick, con chàng. “Kế hoạch của anh chỉ thành công được một phần. Quân kỵ của đối phương đã trốn thoát cũng chỉ vì viên tướng Goring ngu đần và bất tài của chúng ta! Còn anh phải đuổi theo bọn địch mới được, nhưng cũng không hy vọng gì, vì Goring và đoàn kỵ binh của ông ta đã đuổi theo chúng, nhưng không thành công”. Việc binh trước rồi mới đến chuyện tình cảm, Richard của tôi là thế đó, và chàng không có thì giờ bận tâm đến người nhà bị bỏ đói, đến người thiếu phụ tật nguyền đã hy sinh cả ngôi nhà để cứu đứa con mà chàng không thương. Vì thế, không phải người cha bế đứa con ngất xỉu vào phòng tôi mà chính là anh thanh niên đáng thương John Rashleigh, lại một lần nữa chui vào đường hầm trong ngôi nhà nghỉ mát, thấy Dick đang nằm mê man trong phòng tối, sau đó John kéo dây cho tấm cửa đá mở ra, và đưa Dick vào phòng tôi. Sự việc này diễn ra vào tối thứ bẩy, khoảng lúc chín giờ, sau khi quân phiến loạn đã bỏ đi. Và tất cả chúng tôi vì quá kiệt sức không thể mỉm cười nổi với trung đoàn thuộc phe bảo hoàng đang diễu hành qua cửa sổ chúng tôi vào sáng chủ nhật trong nhịp trống vang lừng. Nhu cầu đầu tiên là sữa cho trẻ con và bánh mì cho người lớn. Vài giờ sau, chúng tôi lại nghe một lần nữa tiếng vó ngựa dồn dập đang tiến tới gần. Cảnh tượng mừng vui và xum họp không dành cho tôi. Alice đã có Peter, Elisabeth gặp lại John de Coombe, chị Mary đoàn tụ với Jonathan, và họ vừa khóc vừa ôm hôn nhau, kể cho nhau nghe những nỗi kinh hoàng trong thời gian qua. Nhưng còn tôi, tôi không có người để dựa dẫm vào vài, vào ngực để khóc với người đó. Tôi còn nhớ anh rể tôi ngợi khen lòng cam đảm của tôi. Jonathan nói rằng nếu ở nhà, anh ta cũng làm thế. Nhưng người mà tôi mong muốn gặp là Richard thì đang lo đuổi theo quân phiến loạn ở Saltash. Nỗi vui của người khác chỉ làm tôi buồn. Nhà thờ ở Forwey đổ chuông đáp lễ nhà thờ ở Tywardreath. Đức Vua triệu tập những người có công tại tổng hành dinh của ngài ở Boconnee và cám ơn họ. Jonathan được Đức Vua tặng chiếc khăn tay viền đăng ten và một cuốn sách kinh. Nhưng tôi có cảm tưởng những lời khen ngợi và những cử chỉ biết ơn này hơi quá sớm. Chiến tranh chưa chấm dứt mặc dù Đức Vua đang thắng ở mặt trận miền tây. Chỉ mới có một mình tướng Essex bại trận cùng với tám ngàn quân phiến loạn. Nhưng lực lượng của phe Nghị viên rất đông, họ còn ở miền bắc và miền đông hàng vạn quân. Tại sao lại chiến tranh? – tôi nghĩ – Tại sao người ta không giảng hòa với nhau? Người ta cứ phải chứng kiến bao cảnh đổ nát, bao cảnh thương tâm suốt cuộc đời cho đến già sao? Chúng tôi được giải vây một ngày, thì qua sáng hôm sau, nằm trên giường tôi nghe có tiếng xe rời khỏi Menabilly. Lúc ấy tôi đang mệt nên không buồn chú ý. Mãi đến khi Matty vào, tôi mới hỏi cô ta. - Còn ai nữa? – Matty đáp – ngoài bà Gartred Rõ ràng Gartred chấp nhận thua cuộc và bỏ đi. - Làm thế nào bà ta kiếm được xe và ngựa? Matty vừa chuẩn bị khăn để lau lưng cho tôi, vừa hít hà nói: - Hình như trong hàng ngũ của phe bảo hoàng, có một nhà quý tộc cùng về đây với ông Jonathan ngày hôm qua. Nghe đâu ông ta tên là Ambrose Manaton. Chính ông ta giúp đỡ bà Gartred ra đi. Tôi mỉm cười. Mặc dù căm ghét Gartred, tôi phải thành thật nhìn nhận cô ta rất có tài xoay sở dù ở hoàn cảnh nào. - Trước khi đi, bà Gartred có gặp Dick không? - Thưa có – Matty nói – Chính Dick đến chào bà ta lúc điểm tâm. Bà Gartred hết sức ngạc nhiên khi gặp Dick. Bà ta hỏi Dick: - Cháu đến đây cùng với trung đoàn bộ binh hả? - Không, cháu ở đây cả tháng rồi. - Lẽ ra ta phải ngờ trước điều này – Gartred nói – hãy nhắn lại với mẹ đỡ đầu của cháu rằng cháu không bằng một nén bạc đâu. - Bà ta chỉ nói có thế? – Tôi hỏi Matty - Vâng, chỉ có thế. Và Gartred lên xe đi ngay. Bà ta sẽ không bao giờ trở lại Menabilly. Và Matty bắt đầu dùng tay chà xát người tôi. Nhưng Matty đã lầm. Gartred sẽ trở lại Menabilly và người đàn ông cùng đi với cô ta chính là anh ruột của tôi. Tôi sẽ nói chuyện này sau. Những ngày đầu tiên sau khi trở về, anh rể tôi và viên quản lý bàn tính kế hoạch trùng tu lại ngôi nhà. Nhưng số tiền sửa chữa quá lớn và vượt ngoài khả năng của Jonathan. Tôi đã từng thấy anh ta ngồi một góc hành lang, xem lại sổ chi thu, ghi chú từng xu đã mất. Theo lời Jonathan, phải mất nhiều năm, nhiều tháng để phục hồi lại ngôi nhà và lãnh địa. Nhưng việc này không thể làm được khi mà chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Không có chỗ ở, chúng tôi quyết định chia tay nhau. Gia đình họ Sawle về nhà người anh ở Penrice, gia đình họ Sparke tới nhà bà con ở Tawistock. Còn gia đình Rashleigh tạm thời ở nhờ những người láng giềng trong khi chờ đợi Menabilly được sửa lại một cánh. Tôi chuẩn bị trở về Lanrest thì rất đau đớn hay tin Lanrest chịu số phận còn thảm khốc hơn cả Menabilly. Tôi chỉ còn cách nương náu một thời gian ở nhà anh Jo của tôi tại Radford, bởi vì mặc dù Plymouth vẫn còn về phe Nghị viện, nhưng các vùng lân cận đã lọt vào tay phe bảo hoàng và theo lời những người lạc quan thì không đầy ba tháng nữa thành Plymouth sẽ đầu hàng. Tôi có thể về với chị Cecilia ở Mothercombe hoặc tá túc nhà chị Bridget ở Hobeton, vì dù sao ở với các chị ấy vẫn vui hơn là ở với ông anh mà địa vị cao cấp trong vùng Devon khiến trở nên lạnh lùng xa cách. Nhưng tôi lại chọn Radford vì nó gần Plymoutn, nơi đang bị đạo quân của Richard bao vây. Tôi nuôi hy vọng gặp lại chàng. Tôi bây giờ chẳng khác gì con chim ở trong lồng, và lẽ sống duy nhất của tôi là nhận được tin chàng hoặc được chàng đến thăm dù chỉ một giờ. - Tại sao dì không đến Buckland với cháu? – Dick van nài. Viên giám hộ Herbert Ashley đã nhận lệnh trở lại đón Dick về Buckland. - Cha cháu còn nhiều việc phải làm. Một người tật nguyền như dì không muốn làm phiền cha cháu. - Nhưng dì đâu có tật nguyền – Dick hăm hở tuyên bố - đôi chân dì yếu và vì thế dì phải ngồi trên ghế lăn, thế thôi. Cháu sẽ cùng với cô Matty săn sóc cho dì nếu dì về ở Buckland với cháu. Tôi mỉm cười, vuốt tóc nó và nói: - Cháu sẽ đến Radford thăm dì và kể cho dì nghe về việc học hành, tỉ dụ như cháu bắn súng thế nào, khiêu vũ giỏi chưa và học tiếng Pháp có tiến bộ không? Ngày hôm sau, hai thầy trò Dick lên đường đi Buckland. Dick cứ ngoái cổ lại chào tôi. Và khi nó đi khuất, tôi không ngăn được giọt lệ. Và những giấc mơ xưa lại trở về lẫn lộn: đứa bé không do tôi sinh ra, người chồng không phải của tôi. Ôi! Những tưởng tượng bệnh hoạn của một gái già, như lời Gartred đã mỉa mai! Phải, tôi đã ba mươi bốn tuổi rồi, tôi là một gái già, một kẻ tật nguyền, nhưng mười sáu năm trước đây, tôi đã có những kỷ niệm không thể quên được và tôi dám chắc rằng tôi hạnh phúc bên một người tình duy nhất hơn là Gartred với hai mươi nhân tình. Jonathan hộ tống tôi đến tận Saltash, ở đó anh Robin sẽ tới đón tôi. Tôi rất mệt không phải vì hành trình vất vả, mà vì những cảnh tượng hai bên đường. Những dấu vết để lại của chiến tranh thật là khiếp đảm. Cánh đồng tơi tả. Mùa màng bị hủy hoại, vườn cây ăn trái bị san bằng. Nhà cửa cháy rụi thành than vẫn còn bốc khói. Để trả thù, người dân Cornouailles tàn sát tù binh không thương xót. Xác quân phiến loạn gục chết trong các hố rãnh, ruồi bu trên các thân thể lấm đầy bùn. Những người không còn tay hoặc chân. Có kẻ bị treo cổ lơ lửng trên cành cây. Có kẻ bị thương gần chết không lết được nữa, người ta lột quần áo nạn nhân, để mặc cho đàn chó đói xúm lại cắn xé. Nhìn qua tấm rèm kiệu, tôi hiểu rằng chiến tranh có thể biến mỗi người trong chúng tôi thành một con thú hung dữ và những người đàn ông, đàn bà thuộc phe chúng tôi, hoặc cùng huyết thống với chúng tôi, có thể còn hành động dã man hơn những người ở phe kia. Cũng vì sợ nội chiến, mà tất cả chúng tôi đã đi lùi hai thế kỷ. Chúng tôi xử sự như những người man di của thế kỷ 14 cắt cổ họng nhau khi giao chiến. Ở Saltash, các cột treo cổ được dựng lên ở quãng trường chợ và một số quân phiến loạn vừa mới bị hành hình, xác bắt đầu trở nên lạnh ngắt. Tôi quay mặt đi trong khi Jonathan hỏi một người lính đứng gần. Đó là một thanh niên cao lớn, đeo trên vài phù hiệu của đạo quân Grenvile. - Những người này phạm tội gì? - Tội à? – người thanh niên nhếch mép – chúng không phạm tội gì hết. Chúng là phiến loạn. Chúng phải bị treo cổ như con vật. - Ai ra lệnh? - Lẽ dĩ nhiên là ngài chỉ huy của chúng tôi, tướng Richard Grenvile. Jonathan không nói gì nữa nhưng tôi thấy anh ta sa sầm nét mặt, còn tôi bật người vào lưng ghế. Tôi cảm thấy mình phải gánh một phần trách nhiệm đối với những vụ thảm sát do Richard gây nên Chúng tôi dừng chân một đêm tại Saltash và sáng hôm sau anh Robin đi đầu một toán quân đến tìm tôi và hộ tống tôi qua sông Tamar, đi xuyên qua phòng tuyến của quân bảo hoàng đến tận Radford. Robin trông mạnh khỏe, nước da sạm nắng, vẻ hung hãng. Tôi thầm nghĩ hình như đàn ông sinh ra chỉ để tham gia chiến tranh và làm giàu nhờ chiến tranh, dù miệng họ nói những lời lẽ hòa bình. Anh Robin không phục vụ dưới trướng của Richard, nhưng anh ta là đại tá bộ binh cùng với ngài John Berkeley, trong đạo quân của ông hoàng Maurice. Anh ta nói với tôi rằng Đức Vua đã quyết định không dùng vũ lực tấn công Plymouth, nhưng để cho Richard phong tỏa gắt gao thành phố đó cho đến khi địch quân đầu hàng vì đói. Hiện này đạo quân của Đức Vua cùng với quân của ông hoàng Maurice tiếng về Somerset và Witshire, ở đó ngài sẽ phối hợp với ông hoàng Rupert để tiếp tục giao chiến với lực lượng của phe Nghị viện. Tôi nghĩ rằng Richard sẽ không tán thành chiến thuật này bởi vì Plymouth không phải là một thành phố nhỏ, nhưng là hải cảng quan trọng nhất nhì của nước Anh sau cảng Portsmouth. Lẽ ra Đức Vua phải dùng vũ khí để chiếm đóng Plymouth ngay và làm chủ mặt biển. Hơn ai hết tôi rất ghét tính độc ác và không bao giờ chấp nhận xu hướng tàn bạo của Richard. Nhưng trên đường đi Radford tôi vui mừng nhận thấy chỉ có những người mang huy hiệu quân đoàn Grenvile mới giữ được tư cách chiến binh. Còn lính kỵ của Goring đang đóng gần St Budeaux, thì lang thang trên đường làng, uống rượu say sưa với dân. Người lính ngồi gác trên ghế, miệng há to để ngáp, khẩu súng nằm dài trên đất. Từ trong tửu quán gần đó, một toán sĩ quan bước ra, mặt đỏ như gấc, cười nói ỏm tỏi, và người lính không buồn đứng dậy chào. Cuối cùng chúng tôi cũng tới Radford. Một căn phòng dành riêng cho tôi, nhìn ra hướng bắc, và con sông chảy về Cattwater và Plymouth. Bất giác tôi nhớ lại thuở mười tám tuổi, cái ngày mà Richard và quận công Buckingham đổ bộ lên Plymouth. Anh Jo bây giờ đã góa vợ. Chị dâu tôi, Elisabeth Champernowne đã chết trong khi sinh nở, vài năm trước chiến tranh. Em trai tôi là Percy cùng với vợ là Philippa đã đến ở với anh Jo, và nhận nuôi thằng John, con của Jo, vì vợ chồng nó không có con. Tôi chưa bao giờ yêu thích Radford, ngay cả hồi còn thanh xuân. Hơn cả Lanrest, tôi nhớ tiếc Menabilly đã trở thành thân thiết với tôi qua kỷ niệm những ngày gian khổ. Chiến tranh đã buông tha Radford mặc dù nó ở rất gần Plymouth. Vậy mà ở đây, người ta lớn tiếng công kích quân đội. Đến từ một ngôi nhà đổ nát ở đó tôi đã nếm mùi đói nhiều ngày, tôi rất ngạc nhiên thấy ở đây thức ăn tràn trề trên bàn, vậy mà người ở đây vẫn không ngớt phàn nàn. Vừa mới ngồi vào bàn ăn – tôi chưa dám đề nghị được dùng bữa trên phòng riêng ngay buổi tối đầu tiên này – anh Jo đã bắt đầu công kích phe quân sự là độc tài. - Hoàng thượng có lý của ngài khi phong cho Richard Grenvile, tước hiệu tướng quân miền tây, rất tốt. Tôi không có ý kiến gì về việc ấy. Nhưng Richard đã lợi dụng chức quyền để trưng dụng toàn bộ gia súc trong một vùng bán kính ba mươi dặm, viện cớ là nuôi quân. Hắn đã nói với các chủ trại một câu ngắn gọn: “Nhu cầu quân đội là ưu tiên một”. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải phản đối. Tuy Jo biết mối quan hệ tình cảm ngày xưa của tôi với Richard, nhưng anh ta phớt lờ khi tranh luận sôi nổi. Anh ta cũng không hề biết rằng tôi đã bảo vệ Dick, con trai của Richard, ở Menabilly. Anh Robin cũng vậy, chỉ biết tôn sùng chỉ huy của mình là ngài Berkeley, và cũng về hùa với Jo. - Richard Grenvile đã phạm sai lầm khi trả lương cho lính – Robin nói – Hắn biến lính của hắn thành kẻ đánh thuê. Hắn không cho cướp bóc, xâm nhập gia cư bất hợp pháp. Nhưng hắn bắt người ta phải đóng góp tiền. - Các bạn biết không? – Jo tiếp lời Robin - Ở Devon, các ngài ủy viên bị bó buộc phải Đóng mỗi tuần một ngàn đồng liu để nuôi quân của Richard. Thật dã man. - Nhưng nếu nhà của quý vị bị phe Nghị viện thiêu hủy – tôi nói – quý vị sẽ thấy dã man gấp lần. Mọi người ngạc nhiên nhìn tôi nhất là em dâu tôi, Philippa. Ở Radford, người ta có thói quen không cho phép đàn bà dự phần bàn việc chính sự. - Honor yêu dấu – anh tôi nói – điều đó khó xảy ra ở đây được. Đến phiên Percy lên tiếng: - Nhưng chúng ta phải thành thật nhìn nhận rằng dân chúng thích người của Grenvile hơn của Goring. Khi một người lính của Grenvile bị bắt gặp đang cướp bóc, hắn sẽ bị xử bắn ngay tại chỗ. Còn lính của Goring không một chút kỷ luật, say sưa từ sáng đến tối. - Nhưng phải để cho người của Goring hưởng vui thú sau một trận chiến chứ - Robin nói – Thật là khôi hài nếu họ bị bó chân suốt cả ngày. - Robin có lý – Jo nói – phải dễ dãi với một chút để duy trì tinh thần. Nếu không, chúng ta không bao giờ chiến thắng. - Nhưng theo ý em – tôi nói – chúng ta sẽ là người thất bại trong cuộc chiến này nếu cứ để cho lính vô kỷ luật la cà trong làng mạc. Ngay lúc ấy một người hầu bước vào loan báo có ngài Richard Grenvile đến. Chàng nện mạnh đôi giầy bốt trên sàn, dáng đi mạnh mẽ, tỉnh bơ trước những cặp mắt khó chịu của người khác. Chàng lạnh lùng hơi gật đầu với Jo, chủ nhân của ngôi nhà, và đi thẳng tới chỗ tôi ngồi, cúi xuống hôn tay tôi. - Quỷ thần! – Chàng nói – Tại sao em không đi Buckland? Trông em không còn mập như xưa nữa. Em gầy như con chuột trong nhà thờ. - Nếu anh là tù binh của quân phiến loạn – tôi nói – anh cũng gầy như em. - Thằng chó con cứ lải nhải đòi gặp em suốt ngày. Nó đang đứng ngoài kia với Joseph. Vô đây, chó con! Dick bước vào với vẻ nhút nhát thường ngày. Khi thấy tôi, đôi mắt buồn của nó sáng lên. Theo sau nó là Joseph Grenvile, bà con và là tùy tùng của Richard. Joseph giống Richard và một lần nữa – Xin Chúa tha tội cho ý nghĩ xấu của tôi – tôi tự hỏi phải chăng Joseph cũng là con của chàng? Lạy Chúa trừng phạt chàng – tôi nghĩ – nếu có con rơi ở khắp nơi trước khi định mệnh khắt khe buộc tôi thành kẻ tật nguyền. - Các vị đã dùng bữa rồi hả? – Richard vừa hỏi vừa cầm lấy một miếng bánh. Bọn trẻ này và tôi đói lắm rồi. Jo đỏ mặt, gọi người hầu bưng món thịt cừu lên. Dick ngồi sát bên tôi. Richard vừa nhai vừa bắt đầu công kích sai lầm của Đức Vua tiến quân về phía đông mà không thanh toán Plymouth trước. - Nói với Hoàng thượng cũng như nói với bức tượng – Chàng nói miệng nhai ngồm ngoàm. Tôi thấy các anh tôi trao đổi với nhau cái nhìn ngụ ý tự hỏi làm sao mà một viên tướng dám mạo muội chỉ trích Đức Vua - Tôi sẽ chiến đấu vì Hoàng thượng đến hơi thở cuối cùng – Richard nói – nhưng tốt nhất, vì lợi ích của xứ sở, ngài nên tham khảo ý kiến của chúng tôi, những chiến binh. Mày hãy ăn cho đầy bụng đi, chó con! Mày phải làm sao to khỏe bằng Joseph. Tôi đọc trong ánh mắt của Dick một ý nghĩ ghen tị. Rõ ràng Joseph là đứa con cưng. Hai đứa hoàn toàn tương phản nhau: đứa này vai rộng, cao lớn, tóc đỏ hoe, đứa kia ốm yếu, mắt và tóc cùng màu đen. - Cũng tại viên luật sư Hyde đáng chê trách – Richard tiếp tục nói – Không biết hắn bợ đỡ thế nào mà được Hoàng thượng phong hàm Tài chính đại thần. Việc gì Hoàng thượng cũng hỏi ý kiến hắn. Nghe đâu ông hoàng Rupert chán nản trở về Đức. Những người như Hyde chỉ làm chúng ta thua trận. - Tôi đã gặp ngài Edward Hyde – anh tôi nói – Tôi nhận thấy ngài ta một người rất có khả năng. - Ngài ta không bằng cái mông của tôi – Richard cãi lời – Vả lại bất cứ kẻ nào cai quản công khố đều là con người hai mặt đáng ghét. Tôi chưa bao giờ thấy một viên luật sư nào cãi thua mà không lấy tiền thân chủ. Richard quay sang bọn trẻ: - Nào, chúng ta chuẩn bị đi. Honor, anh sẽ đưa em lên phòng. Chào quý ông. Mặc dù uy tín của tôi trước mắt mọi người trong gia đình như thế nào đi nữa, tôi hiểu rằng nó đã sút giảm nhiều khi tôi để Richard đưa lên phòng. Matty trở về bếp. Richard đặt tôi lên giường và ngồi kế bên. - Tốt nhất em nên về Buckland với anh. Các anh của em là những con lừa. - Em sẽ làm gì ở Buckland – tôi nói – khi mà xung quanh chỉ toàn là lính? Người ta sẽ nghĩ thế nào về em? - Em sẽ chăm sóc thằng chó con và anh. - Có nhiều người đàn bà có thể làm anh hài lòng, thay vì em. - Anh chưa gặp người nào. - Thì anh cứ đi tìm họ ở ngoài đường để rồi sáng hôm sau đuổi họ đi. - Lạy Chúa! Em tưởng anh là loại người như vậy sao? Tôi nghĩ đến các anh tôi Jo, Robin và vợ chồng em tôi Percy và Philippa giờ này đang ngồi ở phòng đại sảnh. - Anh đã đặt em vào một tình thế rất khó xử - tôi nói. - Đừng lo, em yêu! đây không phải lần đầu. Em hãy nhớ hồi em còn mười tám tuổi. Chàng chế giễu tôi, tay đặt trên nắm cửa trước khi bước ra và tôi tức giận chỉ muốn ném gối vào mặt chàng … Richard và bọn trẻ lại lên ngựa ra đi ngay tối hôm đó. Tôi nằm trên giường, đôi mắt mở to nhìn ngắm trần nhà, bồi hồi nhớ lại cành lê năm xưa.