Chương 16

    
ôi còn nhớ, chính Will Sparke đi ra mở cửa mà mới đây thôi cũng chính ông ta khóa trái đến hai vòng.
- Gây hấn với họ thì có ích lợi gì? – Will Sparke nói bằng giọng the thé, như để chữa thẹn – Ngược lại, hy vọng duy nhất của chúng ta là làm họ nguôi giận.
Nhìn qua cửa sổ, chúng tôi thấy những người lính nhảy xuống ngựa, đưa mắt nhìn chung quanh. Những khuôn mặt cứng rắn, dạn dĩ, dưới cái mũ sắt tròn, hẹp và tôi có cảm tưởng họ đều giống nhau. Kế đó là những bước chân nện thình thịch trên sàn nhà, trong phòng ăn, trên cầu thang, và Will Sparke trở lại hành lang, mỉm cười hãnh diện. Đằng sau ông ta là ba viên sĩ quan. Người thứ nhất to lớn, mũi dài, cằm phệ, đeo một đai màu xanh lá ở thắt lưng. Tôi nhận ra ngay hầu tước Robartes chủ nhân tòa lâu đài Lanhidrock ngự trị trên đường Bodmin. Robartes trước đây đã từng đi săn chung với ông anh Kit của tôi. Bây giờ ông ta là kẻ thù của chúng tôi và có toàn quyền sinh sát đối với chúng tôi.
- Ai là chủ nhân ngôi nhà này? – Robartes hỏi, vừa đưa mắt nhìn về hướng ông già
Sawle đang quay lưng lại.
- Chồng tôi đi vắng – Mary nói vừa tiến tới – Còn con trai của tôi ở đâu đấy trên lãnh
Địa này.
- Tất cả những người cư ngụ trong nhà này đã tập hợp hết ở đây, phải không?
- Phải, trừ những người hầu.
- Bà có che giấu kẻ gian nào trong nhà không?
- Không.
Hầu tước Robartes quay sang viên sĩ quan tham mưu đứng cạnh.
- Hãy cho khám xét tỉ mỉ ngôi nhà này – ông ta ra lệnh – Phá vỡ tất cả những cánh cửa nào mà các anh thấy đang khóa, thăm dò các vách. Ra lệnh cho các người trong nông trại tập hợp tất cả toàn bộ súc vật lại từ nhỏ đến lớn. Các anh hãy tịch thu hết toàn bộ súc vật đó, kể cả vựa lúa. Chúng ta sẽ trưng dụng hành lang này và tất cả những phòng ở tầng trệt. Binh lính sẽ lập trại lộ thiên ngoài hoa viên.
- Xin tuân lệnh!
Viên sĩ quang đập gót chào và bước ra. Hầu tước Robartes kéo một cái ghế đến sát bàn và ngồi xuống. Viên sĩ quan thứ hai cho ông ta tờ giấy và cây viết bằng lông ngỗng.
- Và bây giờ - Ông ta nói với Mary – tôi kêu cầu bà cho tôi biết tên họ, nghề nghiệp của bà và của tất cả những người ở trong nhà này.
Ông ta lần lượt ghi chú tên từng người, đôi mắt cú vọ dò xét từng nạn nhân một. Chỉ
khi viết đến tên Gartred, ông ta tỏ vẻ mềm dẻo hơn.
- Thưa bà đã chọn lầm ngày hành trình xấu. Lẽ ra bà nên ở lại Orley Court thì tốt hơn.
- Trong đạo quân nào thường cũng có những người vô kỷ luật và bất nhã. Vì thế một góa phụ như tôi với hai bé gái không nên ở một mình. Tôi hy vọng đi về phía nam để tránh chiến tranh.
- Bà lầm rồi và tôi e rằng bà phải chịu hậu quả về sự lầm lẫn đó. Bà phải ở lại đây và chịu sự giám sát cùng với gia đình của bà Rashleigh.
Gartred gật đầu không trả lời. Hầu tước Robartes đứng dậy nói:
- Khi mà các phòng trên lầu đã được khám xét xong, mọi người mới được lên. Tất cả phải theo lệnh của chúng tôi. Mỗi ngày, các vị được ra ngoài không khí một lần dưới sự canh phòng của lính gác. Các vị tự nấu ăn lấy với nhau. Chúng tôi chiếm giữ các bếp, và phân phát thực phẩm hàng ngày cho quý vị. Hãy trao chìa khóa cho tôi, thưa bà.
Tôi thấy chị Mary do dự, đoạn miễn cưỡng tháo chùm chìa khóa ra khỏi thắt lưng.
- Tôi vẫn được phép vào kho thực phẩm chứ? – Mary hỏi.
- Không, thưa bà. Thực phẩm này không thuộc về bà nữa, mà thuộc quyền sử dụng của hội đồng Nghị viện cũng như tất cả những thứ khác trên lãnh địa này.
Tôi nghĩ đến những lon đồ hộp xếp hàng trong các tủ, nghĩ đến mật, mứt, thịt đùi, thịt cừu ướp muối. Tôi nghĩ đến bánh mì, bột, lúa mì trữ trong kho và các loại trái chín cây ngoài vườn.
- Cám ơn bà. Tôi cũng báo trước cho các vị biết rằng, mọi mưu toan chạy trốn, mọi sự
bất tuân thượng lệnh sẽ bị nghiêm khắc trừng phạt.
- Nhưng còn sữa cho trẻ con? – Joan nói đôi mắt đỏ bừng, đầu ngẩng cao – Chúng tôi cần có sữa, bơ và trứng cho các cháu bé.
- Một vài loại thực phẩm sẽ được phân phối hàng ngày, tôi đã nói rồi – hầu tước Robartes đáp lại – Nếu nhu cầu của trẻ con cần hơn nữa, các bà hãy nhường phần cho chúng, ở đây chúng tôi phải nuôi quân hơn năm trăm người và nhu cầu của họ cần thiết hơn các vị, hơn con cái các vị. Bây giờ, mọi người có thể trở về phòng mình được rồi.
Giây phút mà tôi mong đợi đã đến. Tôi ra hiệu cho Joan đến gần.
- Cháu hãy nhường phòng của cháu cho bà Gartred – tôi nói nhỏ - và hãy đến ở phòng dì, còn dì sẽ qua phòng bên cạnh.
Joan định hỏi điều gì đó, nhưng tôi lắc đầu.
- Đừng ai bận tâm gì đến mẹ con tôi cả - Gartred mỉm cười nói – Chúng tôi có thể tự lo
Được. Ngôi nhà này rất rộng, tôi còn nhớ mà.
Câu nói ấy làm tôi nghĩ ngợi. Tôi nhớ hồi xưa, khi cha của Jonathan còn sống, Kit thường rời Lanrest đi Menabilly luôn.
- Cô đã đến đây rồi à? – lần đầu tiên tôi mở miệng nói với cô ta, kể từ khi vào nhà.
- Vâng – Gartred đáp vừa cố nhịn ngáp – Hình như cách đây khoảng hai mươi lăm năm, Kit và tôi đến đây dự lễ mùa gặt.
Lúc ấy hầu tước Robartes lên tiếng:
- Yêu cầu tất cả giải tán và trở về phòng.
Những người lính đã đột nhập vào các bếp. Họ lục lọi, lấy con bò quay ra phân phát với nhau. Một viên hạ sĩ quan bước xuống thang, hai tay ôm một thùng thực phẩm đắt giá, theo sau là hai người ôm một xấp mền len mà Mary để dành xử dụng cho mùa đông.
- Xin các ông đừng lấy những thứ đó – Mary nói – Cho tôi gặp một vị sĩ quan. Tôi cần phải nói chuyện với người chỉ huy.
- Tôi được lệnh lột hết tất cả các tấm khăn trải giường và mền – viên hạ sĩ quan nói – Bà đừng khiếu nại làm cho vô ích lắm.
Họ nhìn chúng tôi tròng trọc. Một người trong bọn họ còn giở trò định chọc Alice.
Lạy Chúa! Tôi ghét họ biết chừng nào! Từ nào đến giờ, tôi nhìn cuộc chiến bằng vẻ xa cách, lạnh lùng, nhưng bây giờ tôi mới thấy thấm thía và căm ghét nó. Những đôi giày bốt bẩn thỉu của họ vấy bẩn trên nền nhà. Họ dùng rìu phá cửa, phá vách, giật tung những tấm rèm cửa. Trong phòng của Alice, các tủ kính đều bị lật nhào, đồ đạc tung tóe trên sàn, cửa sổ gãy đôi, kính bể thành mảnh vụn. Alice đáng thương đứng giữa phòng chắp tay khóc. Bọn lính đã tịch thu tất cả nệm giường của trẻ con, một tên thô bạo còn dẫm nát đầu con búp bê, đồ chơi ưa thích của bầy con Alice. Nhìn cảnh tượng đó, mấy cháu bé gái khóc ré lên. Tôi hiểu cơn điên dại ngu đần của người đàn ông thời chinh chiến đã thúc đẩy hắn gây ra tội ác. Trong vườn, binh lính san bằng những bụi cây, ngựa của họ gặm đứt những cánh hoa.
Trong phòng tôi, chiếc giường bị lật úp và không hiểu vì lý do gì, người ta đã chọc thủng cả ghế. Tôi khỏi cần phải mở cửa phòng bên. Nó nằm dưới đất, bể tan thành mảnh. Matty đẩy tôi đến ngồi bên cửa sổ. Trên sân, binh lính đang tập hợp thành hàng ngũ. Người thì chải lông ngựa, người thì dựng lều. Những đống lửa cháy bùng. Đàn bò bị lùa vào một chỗ, rống ầm ĩ. Tiếng kèn đồng vẫn cứ lanh lảnh đến nhức óc.
Tôi nói với Matty và Joan rằng tôi sẽ ở trong căn phòng đã bị khóa chặt này, còn Joan thì dọn lên phòng cũ của tôi. Các người hầu lui ra sau khi sắp xếp lại đồ đạc cho hai phòng và làm cửa lại.
Chờ cho bọn lính không còn đi lại trên sân và trong bếp nữa, tôi lăn ghế đến tận cửa hầm bí mật. Tôi lật bức trướng lên, đặt tay trên tường và không nhận ra một vết nứt hay một đường rãnh nào trên vách tường đá.
Lúc ấy tôi hiểu rằng người ta chỉ mở được cửa này khi ở trong đường hầm. Tôi gõ tay vào vách đá, khẽ gọi “John”, nhưng không hy vọng nó nghe thấy.
Tình thế thật khó xử. Tôi đã dặn John không được tự ý vào phòng mà phải đợi lệnh tôi, vì tôi cứ đinh ninh mở được cửa hầm này. Bây giờ thì John và Dick đang ngồi đợi tôi. Tôi áp miệng sát vách đá, kêu “John…John” vừa đủ nghe, nhưng tôi biết rằng tiếng nói của tôi không thể xuyên qua hòn đá vô tình đó. Có tiếng bước chân trong hành lang, tôi thả bức trướng xuống, và trở lại ngồi bên cửa sổ, làm bộ nhìn xuống sân. Một khoảnh khắc sau, có tiếng gõ cửa.
- Mời vào! – tôi nói và cánh cửa mới vừa được sửa sơ sài kêu lên kẽo kẹt.
Hầu tước Robartes bước vào, tháp tùng bởi một viên sĩ quan, theo sau là Frank
Penrose, hai tay bị trói quặt sau lưng.
- Tôi lấy làm tiếc vì sự xâm nhập bất ngờ này – Robartes nói – Nhưng tôi vừa bắt được người này đang lảng vảng gần đây. Hắn đã khai ra nhiều điều thú vị mà bà nên bổ túc thêm.
Tôi nhìn Penrose, mắt lấm lét, thè lưỡi ra liếm môi. Tôi chỉ im lặng chờ đợi.
- Theo tôi được biết, bà đã chứa chấp con trai của Richard Grenvile và viên giám hộ của nó. Bà là mẹ đỡ đầu của nó và nhận trách nhiệm nuôi nấng nó. Lẽ ra hai thầy trò nó đã lên thuyền đi St Mawes cách đây vài giờ. Bây giờ họ ở đâu?
- Đâu đó ngoài khơi biển Dodman, tôi nghĩ thế.
- Người này đã khai rằng khi ghe bắt đầu khởi hành, con của Richard đã bỏ trốn. hắn và John Rashleigh đã đi tìm kiếm. Người của tôi chưa bắt được John và đứa nhỏ. Bà có biết chúng ở đâu không?
- Tôi không biết – tôi nói – Tôi chỉ nghĩ rằng họ đã ra khơi.
- Bà phải biết rằng – Robartes khô khan nói – người ta đã treo giá cái đầu của Richard Grenvile, và chứa chấp một người trong gia đình hắn sẽ bị Nghị viện buộc tội là đại phản loạn. Bà tước Essex đã ban những huấn thị nghiêm ngặt về vấn đề này.
- Nếu thế - tôi nói – tốt nhất ông nên bỏ tù bà Gartred, vì bà ta là em gái của Richard, chắc hẳn ông thừa biết.
Tôi đã làm cho đối phương cứng họng. Lấy lại tự chủ, Robartes tức giận đấm tay xuống bàn.
- Nếu tôi không lầm, bà Gartred không chút liên hệ tình cảm với người anh trai. Còn người chồng quá cố của bà ấy, ông Antony Denys là người trung thành với Nghị viện chống lại Vua Charles Stuart. Bà không có gì để khai về đứa con đỡ đầu sao?
- Không có gì hết – tôi nói – Tôi chỉ biết rằng nó đã lên ghe và có lẽ với ngọn gió thuận lợi này, nó đã đi về St Mawes hơn nửa đường rồi.
Robartes quay lưng bước ra, theo sau là Penrose khốn khổ đi cà nhắc. Tôi mừng vì người nhân viên của Jonathan không biết gì về Dick trốn trong hầm. Câu chuyện tôi đặt ra cũng có thể tin được. Dick và John giờ này chỉ có thể đang lênh đênh trên biển. Không một ai biết bí mật đường hầm. Viên quản lý Langdon đã tháp tùng anh rể tôi đi Launceston. Không còn sợ ai trở mặt nữa. Chỉ có một vấn đề phải giải quyết? Kiếm đâu ra đồ ăn và thức uống cho hai kẻ trốn tránh? Ngay tôi đây cũng đang là tù nhân. Một nỗi sợ hãi khác đột kích tôi khi nhớ lại những lời của anh rể tôi: “Vì thiếu dưỡng khí người điên mất tri giác và lúc ấy người ta mới có thể đến gần được”. Tôi tự hỏi số lượng dưỡng khí trong hầm là bao nhiêu? Người ta có thể sống bao nhiêu lâu trong đó?
Đây là lần thứ hai trong ngày, trán tôi đẫm mồ hôi. Tôi cảm thấy bất lực, không có lối thoát. Những giờ trôi qua trong sự chờ đợi ngộp thở và mặt trời bắt đầu xuống thấp sau rặng cây.
Tiếng giầy bốt vẫn không ngớt, những mệnh lệnh khô khan xen lẫn tiếng vó ngựa qua lại, còn tiếng kèn đồng khi xa, khi rền vang ngay bên dưới cửa sổ của chúng tôi. Trẻ thơ ngọ nguậy trong nôi. Bầu trời nhuộm màu đỏ sẫm và những bóng đen lớn dần.
Vào khoảng tám giờ rưỡi, Matty bưng lên cho chúng tôi một chút ba-tê trên cái dĩa và một bình nước. Cô ta mím môi nói:
- Thưa cô, đây là khẩu phần của cô và Joan.
Tôi nhường phần ăn của tôi cho Joan. Tôi không hề thấy đói. Tôi chỉ nghĩ đến chồng của nó và Dick trốn trong hầm đã năm giờ rồi. Matty mang đèn đến. Alice và Mary vào phòng chúc tôi ngủ ngon. Chị Mary trông già đi, với những quầng thâm dưới đôi mắt.
Mary và Joan trở về phòng riêng, Matty giúp tôi thay quần áo.
- Em vừa khám phá ra một điều, thưa cô – Matty vừa nói vừa chải tóc cho tôi.
- Điều gì vậy, Matty?
- Bà Gartred khéo lấy lòng mấy ông sĩ quan. Tôi không nói gì hết, chờ đợi Matty nói tiếp.
- Khẩu phần ăn tối của cô và những người khác chỉ có một chút ba-tê, nhưng người ta mang thịt bò quay và rượu chát vào phòng bà Gartred. Trên mâm để hai bộ muỗng nĩa. Còn hai cô con gái của bà ta chia nhau một con gà quay trong phòng tắm.
Cặp mắt dò xét và cái mũi nhọn của Matty có lẽ sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong tương lai.
- Ai là người cùng ngồi ăn với Gartred?
- Chính hầu trước Robartes.
Những ý nghĩ ngờ vực đầu tiên của tôi kể cũng xác đáng. Không phải ngẫu nhiên mà
Gartred đến Menabilly sau hai mươi lăm năm vắng bóng. Cô ta có một mục đích.
Bên ngoài, những ánh lửa mắt dần. Tiếng la, tiếng cười trở nên rời rạc dần, kể cả tiếng giầy bốt và tiếng vó ngựa. Ngôi nhà cũng im lặng như các lán trại của binh lính ngoài vườn. Lúc nửa khuya, có tiếng chó sủa xa xa. Một luồng khí lạnh thổi trên má tôi. Tôi ngồi trên giường và chờ đợi. “John – tôi khẽ kêu – John”. Một tiếng sột soạt như tiếng chuột cào. Tôi thấy một bàn tay ló ra khỏi bức tường. Một bóng đen xuất hiện, bò đến giường tôi.
- Dì đây. Dì Honor đây – tôi nói – và những bàn tay lạnh ngắt của bóng đêm bấu chặt vào người tôi, đồng thời bóng đen bò lên giường, nằm xuống, run rẩy.
Chính là Dick, quần áo vẫn còn ướt. Nó bắt đầu khóc, không gây tiếng động, vì kiệt sức và sợ.
Tôi ôm nó vào lòng để sưởi ấm cho nó.
- John đâu? – tôi hỏi nhỏ khi nó đã bình tĩnh lại.
- Trong phòng nhỏ ở dưới hầm. Chúng cháu chờ dì quá lâu, không thấy dì đến. Cháu muốn quay trở ra nhưng anh John không cho phép.
Nói đến đây, nó lại khóc.
- Anh ấy bị ngất trong cầu thang – nó nói – Anh ấy vẫn còn ngồi đó, hai tay ôm đầu. Dì
ơi, cháu không thể nào ở lâu trong bóng tối, trong nhà mồ đó được.
Nó vẫn run rẩy, dựa đầu vào vai tôi. Tôi không biết phải làm gì. Tôi có nên gọi Joan và cho biết bí mật này không, hay là chờ Dick lấy lại bĩnh tĩnh, rồi sai nó cầm đèn trở vào hầm để cứu John? Trong khi tôi chờ đợi, tai nghe ngóng, tim đập mạnh, tôi nghe tiếng bước chân rón rén ngoài hành lang, nắm đấm cửa bị xoay nhẹ nhưng bị trả ngược về sau khi người nào đó biết chắc rằng cửa đã bị khóa bên trong. Một lúc im lặng và tiếng bước chân lại tiếp tục thật khẽ. Có tiếng vạt váy đầm sột soạt. Một người nào đó đã đến trước phòng tôi trong đêm khuya thanh vắng. Một người phụ nữ.
Tôi vẫn nằng im, ôm chặt đứa trẻ đang ngủ. Đồng hồ lặng lẽ điểm một giờ… rồi hai giờ… rồi ba giờ…