ránh không bị ai chú ý đối với một nạn nhân bỏng lúc thường đã là rất khó khăn, nhưng nó còn trở nên khó khăn gấp bội khi anh ta phải ở trong cửa hàng vải vóc cùng một phụ nữ tóc tai rối bù cứ giơ những mảnh vải trắng ra trước ngực anh ta, đo đạc sao cho đủ để may cho anh ta bộ áo choàng thiên thần. Khi đến lúc trả tiền, tôi bước tới giữa Marianne Engel và cô thu ngân, chìa thẻ tín dụng của mình ra. Cái cảm giác độc lập về tài chính nó mang lại mới buồn cười làm sao, vì đằng nào tiền trong thẻ cũng lấy từ tài khoản của cô. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể sống trong ảo giác một chút. Sau khi mua sắm xong các đồ hóa trang cần thiết, chúng tôi đến một nhà băng địa phương để làm một việc kỳ lạ. Marianne Engel muốn ghi tên tôi vào danh sách những người có thể sử dụng tài khoản két sắt ngân hàng của cô, và nhà băng cần mẫu chữ ký của tôi để hoàn tất thủ tục. Khi tôi hỏi tại sao cô lại muốn làm thế, cô chỉ trả lời rằng chuẩn bị trước thì tốt, vì có Chúa mới biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Tôi lại hỏi là cô có định đưa chìa khóa két sắt cho tôi hay không. Không, cô trả lời, chưa đến lúc. Thế còn ai trong danh sách nữa? Chẳng ai cả. Chúng tôi đến một quán cà phê để uống cà phê sữa không bọt, ngồi tại một cái bàn ngoài cửa trong khi Marianne Engel dạy tôi đọc phiên bản Địa ngục của Iceland. Hiển nhiên đó không phải một nơi đầy lửa mà là đầy băng: trong khi người Anh nói rằng “nóng như địa ngục”, người Iceland sẽ nói là helkuldi, “lạnh như địa ngục”. Điều này cũng dễ hiểu thôi: dành cả đời mình vật lộn trong cái khí hậu băng giá khắc nghiệt ấy, làm sao họ có thể sợ cái gì hơn một phiên bản vĩnh hằng của thứ tương tự? Đối với người bị bỏng, tôi xin nói thêm, thật thú vị khi biết rằng ý tưởng này đã đánh đổ quan niệm của cả người Do Thái lẫn Thiên Chúa cho rằng phương tiện tra tấn vĩnh cửu phải là lửa. Việc coi địa ngục được cấu tạo riêng biệt cho từng đối tượng cũng không hẳn là một ý tưởng mới. Trên thực tế, đó là một trong những sáng tạo nghệ thuật thành công nhất trong tác phẩm Địa ngục của Dante: việc những kẻ tội đồ bị trừng phạt xứng với những gì hắn đã gây ra. Linh hồn của những kẻ dâm đãng, những kẻ cả đời để bản thân bị những trận cuồng phong của ham muốn xác thịt cuốn đi, khi chết sẽ không ngừng bị vùi dập bởi những ngọn gió dữ dội. Linh hồn của những kẻ báng bổ thần thánh, những kẻ cả đời xúc phạm Chúa bằng việc lạm dụng chức vụ tôn nghiêm của mình để tư lợi cá nhân, sẽ bị treo ngược lên thiêu đốt trong lửa để rửa hết tội lỗi. Linh hồn của những kẻ xu nịnh sẽ bị chôn đời đời kiếp kiếp trong phân, cách thức để chúng nhớ tới những lời lẽ thô bỉ chúng nói khi còn sống. Chuyện này làm tôi băn khoăn không biết phiên bản địa ngục của tôi - nếu tôi tin vào cái thứ như thế, chỉ là nếu thôi - sẽ là gì. Liệu tôi có bị kẹt trong chiếc xe của mình, cứ thế bị thiêu mãi không? Hay địa ngục của tôi sẽ là cái bàn cắt lọc? Hay nhận ra cuối cùng mình cũng có thể yêu thì đã quá muộn? Khi đang nghĩ về chuyện này, tôi thoáng thấy bóng dáng một người bạn của mình đang đi về cuối phố. Đó là một cảm giác kỳ lạ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy một nạn nhân bỏng khác ở nơi công cộng, và chính là một người tôi biết: Lance Whitmore, người đàn ông đã có một bài phát biểu đầy cảm hứng tại bệnh viện. Anh đi thẳng đến chỗ chúng tôi và hỏi xem có phải anh và tôi từng gặp nhau hay không. Tôi không thể trách anh không nhận ra tôi được, vì không chỉ nét mặt tôi thay đổi trong đợt điều trị, chúng còn bị giấu sau lớp mặt nạ nhựa đặc biệt nữa. “Thật tuyệt khi nhìn thấy một trong số chúng ta ra ngoài vào ban ngày,” anh nói. “Không phải chúng ta là những bóng ma, chỉ là chúng ta giỏi giấu mình thôi.” Chúng tôi nói chuyện phiếm trong độ chục phút và có vẻ Lance chẳng thấy phiền gì khi chúng tôi thu hút những ánh nhìn tò mò của hầu hết mọi người đi ngang qua. Tôi chắc Lance cũng thấy, nhưng tôi rất ngưỡng mộ khả năng vờ như không thấy gì của anh. Tôi mặc áo chùng màu trắng và đeo một đôi cánh làm từ tất giấy căng trên mắc áo, phủ đầy kim tuyến bạc. Marianne Engel chỉnh lại vầng hào quang trên đầu tôi (cái que rửa ống nước, sơn màu vàng) trước khi xắn ống tay áo thiên thần của tôi lên để tiêm một liều morphine, nó chảy vào trong huyết quản tôi như những giọt sữa vón cục của lòng nhân đạo. Bougatsa chạy quanh cắn vào gót chân chúng tôi, và tôi băn khoăn không hiểu sao cái đầu óc bé tí của con chó có thể nghĩ ra một trò như thế. Cô cũng mặc áo chùng - hay chính xác hơn, một chiếc váy suông thắt eo lỏng đến nỗi trông y như cái áo chùng. Tóc cô hơi rối hơn bình thường, dù đã được buộc gọn lại trước trán bằng một dải ruy băng lớn trùm cả lên thái dương của cô. Một dải vải không bị vướng vào mấy lọn tóc tuột xuống lưng cô. Cô luồn chỗ vải thừa này vào khuỷu tay, để nó phủ lên cẳng tay cô như cách người hầu bàn phục vụ khăn ăn cho khách. Tay còn lại của cô cầm một chiếc đèn lồng kiểu cổ, không có dầu bên trong, và quanh mắt cá chân cô - bên mắt cá chân có hình xăm chuỗi tràng hạt - là một vòng lá. Cô giải thích rằng cái này tượng trưng cho vòng nguyệt quế lẽ ra phải được buộc vào chân cô rồi cứ thế để loẹt quoẹt dưới đất, nhưng nếu làm thế thật thì cô sẽ không di chuyển thoải mái trên sàn nhảy được. Tôi hỏi cô đang hóa trang thành ai. “Một trong những Trinh nữ Ngốc nghếch,” cô trả lời. Bữa tiệc diễn ra tại một trong những khách sạn cổ và sang trọng nhất thành phố. Một người gác cửa đội mũ chóp cao mở cửa xe taxi và cầm tay Marianne Engel dắt ra. Anh ta gập người chào, trước khi bối rối nhìn tôi như thể đang cố gắng tìm hiểu tại sao những vết bỏng hóa trang của tôi trông lại thật đến thế. “Ngài là Lucifer có phải không ạ?” “Cái gì cơ?” “Thiên thần sa đọa duy nhất mà tôi biết, thưa ngài.” Anh ta lại lịch sự cúi đầu. “Hóa trang tuyệt quá. Tôi xin phép nói thêm rằng giọng của ngài cũng rất ấn tượng nữa!” Vừa tiến vào hành lang, Marianne Engel vừa nắm lấy tay tôi. Ánh đèn ở đây mờ mờ ảo ảo, và những tấm biểu ngữ ma quái cứ xổ xuống từ trần nhà. Mạng nhện giăng khắp bốn góc và hàng tá mèo đen lượn lờ quanh phòng. (Tôi băn khoăn họ kiếm đâu ra lắm thế; có phải cướp ở một trung tâm thú nuôi nào đấy không?) Khách khứa tập trung hết tại phòng khiêu vũ. Có nửa tá xương khô đi lại trong phòng, lúc lắc mấy cái xương sơn trắng hếu trên những bộ quần áo bó sát màu đen. Marie Antoinette, đội tóc giả và đánh phấn trắng xóa với cái cổ áo siêu trễ, đang nói chuyện với Quý cô Godiva, mái tóc vàng óng trải dài xuống bộ quần áo bó sát. Một kỵ binh cảnh sát Canada đang uống whiskey với Al Capone. Một người phụ nữ mặc bộ quần áo cà rốt chúa khổng lồ, vung vẩy cái quyền trượng rau, đứng bên cạnh bạn trai thỏ. Một ông Albert Einstein say xỉn đang tranh cãi với một ngài Jim Morrison tỉnh táo và, ở một góc xa xa, hai con quỷ đang đọ xem đuôi ai xịn hơn. Một người phục vụ lướt qua với chiếc khay bạc trong tay và Marianne Engel điệu nghệ nhấc một cốc martini, nhấp một ngụm trước khi hôn lên cái má đeo mặt nạ của tôi. Chúng tôi kiếm được một cái bàn phủ khăn đỏ như máu, một cây nến nhô ra giữa bộ sưu tập nhãn cầu bằng thủy tinh. Chúng tôi ngồi cùng nhau: cạnh Marianne Engel là một người đàn ông mặc áo vịt cao su và cạnh tôi là một nữ cảnh sát quyến rũ. Chẳng mấy chốc tôi đã nhận ra rằng Halloween sẽ là ngày lễ ưa thích nhất của mình. Khi người nữ cảnh sát khen ngợi bộ đồ hóa trang của tôi, tôi đã bịa rằng “trong đời thực” tôi là giáo viên Ngữ văn ở một trường trung học. Sau khi Marianne Engel uống hết ly martini thứ ba - thật thú vị, vì cô rất hiếm khi uống rượu - cô đã kéo tôi lên sàn nhảy. Cô biết rõ là tôi luôn thầm mong được khiêu vũ cùng cô; tôi không tập luyện chăm chỉ với Sayuri chỉ để cả đời làm một bông hoa treo tường. Ban nhạc chơi một điệu waltz tiết tấu nhanh, và Marianne Engel đứng thẳng người để đỡ lấy tôi bằng đôi tay điêu khắc của cô. Cô chăm chú nhìn vào mắt tôi và, trong giây lát, tôi có cảm giác biển cả như xô ập tới trước mặt mình. Tôi không biết chúng tôi đã bất động nhìn nhau như thế trong bao lâu trước khi cô đưa chúng tôi hòa theo điệu nhạc. Tôi chỉ phải bước theo cô; cô dường như có một trực cảm bẩm sinh về sức mạnh cơ thể hiện tại của tôi. Không một lần tôi phải lo lắng về chuyện cái đầu gối yếu ớt của mình phải chịu sức nặng vượt quá mức chịu đựng khi chúng tôi xoay vòng tròn quanh những cặp Romeo và Juliet, gần mấy đôi Esmeralda và Quasimodo, lướt qua vài cô Uma và anh Travolta. Marianne Engel nhìn thẳng vào mắt tôi, luôn luôn, và những đôi nhảy khác trong phòng nhòa vào một vũ điệu màu sắc không chút quan trọng đối với chúng tôi. Mọi thứ cứ thế trôi, tôi không biết là trong bao lâu, và nó sẽ còn tiếp tục lâu nữa nếu tôi không bắt gặp hình ảnh, xuất hiện trong khóe mắt của tôi, một đôi nhảy rất thú vị. Lúc đầu, tôi nghĩ đầu óc mình có vấn đề và tự nhủ rằng họ thực sự không thể ở đó được. Họ biến mất khi Marianne Engel kéo tôi vào một vũ điệu nửa vòng tròn, và tôi thực sự mong rằng họ sẽ biến mất ở lượt khiêu vũ tiếp theo. Nhưng họ đã không làm thế. Lần này tôi không thể coi là không có họ ở đó được: một phụ nữ Nhật Bản mặc một bộ đồ thầy tu với cái đầu trọc tương phản rõ rệt với mái tóc đỏ hoe của người chiến binh Viking cô đang nhảy cùng. Cô thật duyên dáng còn anh thì thật vụng về, chẳng khác gì xem một con chim sẻ cưỡi lên sừng một con bò vậy. Cô mím chặt môi đầy bướng bỉnh khi cái bao kiếm của anh đập vào hông cô và khi cô tìm cách đặt tay lên eo anh để được thoải mái hơn, một chút đất đã rơi ra khỏi ống tay áo cô. Marianne Engel lại xoay tôi thêm một vòng nữa trước khi chúng tôi quay lại vị trí lúc đầu, cặp nhảy đó đã biến mất. “Cô có thấy họ không?” “Thấy ai?” Ngay lúc ấy, tôi lại nhìn thấy một cặp khác. Lần này người phụ nữ mặc quần áo thời nữ hoàng Victoria nhưng rất gọn ghẽ, như một loại quần áo để đi làm đồng chứ không phải khiêu vũ. Nó không phải bộ đồ đáng được ngoái nhìn lần thứ hai ở một vũ hội hóa trang thế này - trừ cái việc nó ướt sũng: nước nhỏ giọt xuống sàn nhà, làm thành vũng dưới chân cô. Người thanh niên trông khá vui vẻ dù tay anh phải ôm một người phụ nữ ướt như chuột lột, không mảy may bận tâm đến chuyện đó. Anh mặc một chiếc áo da thú và có cánh tay to với cái bụng còn to hơn. Cô vừa mỉm cười vừa nhã nhặn nói, nhưng cô cứ ngước nhìn qua vai anh như để tìm kiếm một ai đó khác. Chúng tôi chỉ đủ gần để tôi có thể nghe thấy anh nói bằng tiếng Ý và cô đáp bằng tiếng Anh: “Tom? Em không biết…” Marianne Engel cố xoay tôi thêm lần nữa, nhưng tôi đã buông ra. Tôi chỉ rời mắt khỏi hai người đó một chút nhưng cũng kịp cho họ biến mất rồi. Tôi điên cuồng nhìn khắp đám đông để tìm xem có dấu hiệu nào của họ không, nhưng chẳng có gì cả. Tôi quay lại chỗ người phụ nữ thời Victoria để rớt nước ra sàn. Nhưng sàn nhà khô cong. Tôi tìm khắp sàn nhà chỗ đất đã rơi khỏi ống tay áo của người phụ nữ Nhật Bản. Nhưng sàn nhà sạch không chê vào đâu được. Tôi quỳ sụp xuống đất, dùng tay lần khắp nơi trên sàn, và những người khác tránh xa khỏi tôi như thể tôi là một thằng điên. Tôi bò khắp nơi, tìm tất cả mọi thứ có thể tìm được nhưng chẳng thấy gì. Marianne Engel cúi xuống thì thầm vào tai tôi. “Anh đang tìm cái gì vậy?” “Cô đã nhìn thấy họ. Có phải không?” “Tôi không biết anh đang nói về cái gì.” “Những hồn ma.” “Ôi. Những hồn ma.” Cô khúc khích cười. “Anh không thể cứ chăm chăm đi tìm họ mãi được, anh biết còn gì. Việc đó giống như tóm đuôi lươn vậy. Cứ khi anh nghĩ mình đã tóm được chúng rồi, chúng sẽ tuột khỏi tay anh ngay.” Chúng tôi ở lại đó thêm vài giờ nữa, nhưng tôi dành hết thời gian để tìm mấy con ma. Tôi biết mình đã nhìn thấy một thứ không thể tồn tại: nó không phải là ảo giác đánh lừa. Tôi đã nhìn thấy họ. NGƯƠI CŨNG ĐIÊN NHƯ CÔ TA THÔI. Câm ngay, con rắn thối tha. Ta sẽ tống cho mụ nhiều morphine đến nỗi mụ chỉ muốn lột da cho nhanh mà thôi. Khi chúng tôi về đến nhà, Marianne Engel mang trà ra để cố làm tôi bình tĩnh lại. Khi thấy trà không có tác dụng, cô quyết định tiếp tục kể câu chuyện của chúng tôi. Có lẽ biết được chúng tôi có cưới nhau hay không, cô nói, có thể làm tôi cảm thấy khá hơn.