Món điểm tâm gồm trứng và thịt muối được đưa tới tận phòng tôi trên một cái khay. Tôi ăn xong, liền cạo râu và thay áo quần thì vừa đúng sáu giờ rưỡi. Nelson đưa tôi xuống. Anson đang đợi tôi trong một chiếc Jeep mui trần. Ông ta mặc một cái áo choàng ngắn dày cộm có cổ bằng da trừu. Ông ta lên tiếng trước: - Chào ông. Ông không lạnh hay sao? Tôi chỉ mặc một chiếc áo khoát bằng vải len với một áo nịt dày bên trong. - Như thế này là vừa đủ. Nếu trời không mưa. - Trong thùng xe có sẵn hai bộ áo quần đặc biệt để dùng vào lúc nào trời quá lạnh. Tôi trèo lên. Ông ta liền phóng xe đi, hất tung hai luồng sỏi nhỏ về phía sau lúc bốn bành xe có khía sâu của chiếc Jeep cắn chặt vào mặt đường rải sỏi. Ông ta quay về phương bắc, chạy trên con đường ở gần bờ biển. Ông ta lại bảo: - Ông phải nói chuyện một đôi câu đi chứ. Ông có biết gì về mấy hải đảo nhỏ ở vùng này? - Rất ít. - Tất cả quần đảo Hebrides, còn được gọi là Isles of the West (Hải Đảo Miền Tây), nguyên thuộc nước Na-uy, mãi đến cuộc chiến tranh vào năm 1263 mới chuyển qua To-cách-lan. Người ta còn có thể thấy rõ di tích của thời kỳ lệ thuộc Na-uy trong các địa danh, chẳng hạn Stenrness, Lunna Voe, Vaila Voe và Nossie Holm, cùng các tên tương tự. "Voe" có nghĩa là vịnh nhỏ. "Holm" có nghĩa là một hoang đảo. Và còn nhiều nữa. Trong thời kỳ bị Tô-cách-lan thống trị, thời kỳ được mệnh danh là Triều Đại Đảo Chúa, khi dòng họ MacDonald of Islay là những vị chúa tể, quần đảo Hebrides thực sự có đủ sức mạnh làm rung chuyển ngai vàng của xứ Tô-cách-lan. Tôi nhận thấy đây là một sự trùng phùng thú vị. - Trùng phùng với cái gì? - Lẽ tất nhiên ông chưa biết chúng tôi đang làm gì ở đây. Tới đúng lúc tôi sẽ cho ông rõ. Ông ta chợt mỉm cười với một ý nghĩ thầm kín trong đầu và nói tiếp: - Ông sẽ là người ngoại cuộc duy nhất biết được chuyện này, sau khi ông đã đi viếng một vòng khắp đảo. - Ngôi nhà gì bên tay trái vậy? - Phòng thí nghiệm. Vừa mới hoàn tất. Các khoa học gia của chúng tôi thường làm việc trong các phòng phía dưới của lâu đài, nhưng ở đó chật chội quá. Về phía sau khu nhà thí nghiệm có cả cư xá cho chuyên viên. Tôi chưa có thể đưa ông vào xem ở bên trong được, vì chỉ những người có phận sự đặc biệt mới được phép vào. - Đại khái, phòng thí nghiệm thuộc loại gì? - Phần lớn là điện tử, hóa học và vật lý học. Phần vụ điện tử hướng mọi nổ lực và việc kiện toàn máy vô hiệu hóa, được gọi là Mục Tiêu Một. Chuyện đó, dĩ nhiên ông đã biết. (tiếp theo từ trang 273, chương 5, phần IV - CHẲNG AI TÌM DẤU) - Có phải đó là chiếc hộp đen do em tôi phát triển ra? - Không phải, chiếc hộp đen của Jacques de Ménard. Chúng tôi đặt tên cho chiếc hộp của em ông là Mục Tiêu Hai. Rủi thay, chúng tôi không thể hoàn thiện Mục Tiêu Một, nên chúng tôi cần Mục Tiêu Hai. - Tôi hiểu. Và em tôi bắt buộc phải giao cho ông? Ông ta trả lời bằng một giọng tin tưởng: - Phải. Căn cứ theo lời ông nói, tôi đoán ông không tin em ông sẽ giao lại. Nhưng chính ông đã có một kinh nghiệm về phương pháp khai thác của chúng tôi? Tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ trao cho chúng tôi bộ phận còn thiếu. - Tại sao ông cần phải có? - Mục Tiêu Một bị giới hạn ở đường chân trời - tức độ chừng bốn mươi dặm tại cao độ này. Như thế cũng thừa đủ để bảo vệ chúng tôi trên Saint Sudra, nhưng chúng tôi cần một hệ thống tốt hơn để dùng về sau. Các chuyên viên điện tử của tôi không đủ sức cải tiến Mục Tiêu Một. Nhưng vẫn tiếp tục không ngừng. Công cuộc nghiên cứu hóa học của chúng tôi hướng về các loại hơi độc gây phản ứng tê bại. Công cuộc nghiên cứu vật lý thì phần lớn thuộc lãnh vực tia laser, mặc dù vấn đề laser ngày nay đã hơi lỗi thời. Mình tới nơi rồi - nơi cao nhất của đảo. Ông ta giảm tốc độ chiếc xe Jeep và thắng lại ở mép bờ đá cao về phía cực bắc của hòn đảo. - Đó là hồ Rata bên tay trái. Hồ Venna và hồ Madoch ở ngay dưới đây - cả hai đều tuyệt đẹp, rồi ông sẽ thấy. Nhưng chính bờ đá khiến tôi lạnh xương sống. Nó thẳng đứng và cao hơn mặt nước biển có tới trên ba trăm rưỡi thước tây. Nhiều đàn chim như những đàm mây lớn vừa liệng vòng quanh vừa kêu la om sòm, trong đó tôi nhận thấy cả loài hải yến và chim cắt. Anson bảo: - Xưa kia nơi này là chỗ trú ẩn của các loài chim. Tôi hơi lấy làm tiếc vì chúng tôi đã biến đổi một đôi phần. Nhưng tôi tin các loài chim sẽ trở lại khi chúng tôi bước qua một thời kỳ trọng đại khác. Ông ta nhìn tôi bằng khóe mắt. Trong lúc tôi vẫn không nói gì, ông ta tiếp lời: - Về chuyện chúng tôi sẽ bước qua nơi nào - đó là bài giảng kế tiếp. Tôi nói: - Tôi xin hỏi thêm một câu. Theo tôi đoán thì ngôi nhà trên đỉnh bờ đá kia là một đài radar. Tại sao phải có radar như vậy? Nhận xét của tôi không thể nào lầm được, vì ngay trên mái của ngôi nhà sườn sắt có mấy cái ăng-ten như những chiếc rổ đang quay tròn. Anson đáp: - Rất dễ hiểu. Có lẽ ông không được rõ máy vô hiệu hóa hiện đại của chúng tôi, tức Mục Tiêu Một, còn có một khuyết điểm khác. Nó làm tê liệt mọi hoạt động điện thường, điện tử cùng những hoạt động liên hệ - khôhạy loanh quanh ngoai khơi một vài ngày chờ ông. Tôi bảo: - Khỏi cần, Arch à. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn anh đã nghĩ tới chuyện đó. Anh ta lại nhắc nhở chuyện này một lần nữa trên đường đi tới Saint Sudra. Anh ta chăm chú nhìn trời một hồi, có vẻ vừa ý với thời tiết vì lúc này một chút nắng đã hiện ra. Anh ta vẫn chưa giăng buồm. Thỉnh thoảng mới có một cơn gió nhẹ thổi qua làm cho mặt nước gơn lăn tăn. Từng làn sóng dài của Đại-tây-dương nâng nhẹ mũi chiếc Ailsa lên trong lúc chúng tuần tự chuồi vào phía dưới lườn tàu. Archie và Eric cùng cầm bánh lái. Archie chợt hỏi: - Có phải ông là người Mỹ. - Phải. Nhưng tổ tiên tôi là người Tô-cách-lan. - Tôi không có ý ám chỉ những người Mỹ đều điên. Chính chúng tôi, Eric và tôi cũng có một nửa phần Mỹ. Ba chúng tôi là người Mỹ. Nhưng chắc ông đã biết rằng trên Saint Sudra không có ai ở suốt ba chục năm nay? - Phải. Nhưng hiện giờ ở đó có người. Có thể tạm gọi là một đoàn thám hiểm khoa học. Anh ta nhìn tôi với vẻ hòai nghi. Tôi liền nói: - Trông anh có vẻ không tin lời tôi. Ở Murra các anh không để ý thấy gì lạ hay sao? Chẳng hạn có ai đến mua đồ tiếp liệu, thực phẩm? Anh ta trầm ngâm bảo: - Có một kho hàng mới thành lập ở Sternholm nhưng không một ai biết gi về bên trong. Trên nóc có cả một cột radio lớn trông thật kỳ lạ. Nhưng chung quanh đó xe cộ rất ít qua lại, và tôi không hề biết một ai từ Sudra đến. Không chừng Eric có thấy ai. Eric liền nói: - Không hề. Em không biết một người nào ở đó. Cả Archie và Eric đều uốn giọng gần đúng tiếng Anh chính hiệu. Tôi nghĩ chắc hai anh em đã từng đi học tại đó. Archie ngước mắt nhìn trời, kêu lên: - Xem kìa, tôi tin chắc mình sắp gặp gió lớn. Như thế sẽ giúp cho ông đỡ tốn một mớ xăng. Anh ta đi về phía trước với Eric và hai anh em cùng kéo buồm lên một cách nhanh nhẹn. Anh ta đoán rất đúng. Gần như ngay lúc đó một ngọn gió đông nam nổi lên. Trong phút chốc, chiếc xuồng đã có một tốc độ lên đến mười lăm gút, nhanh hơn cả khi có máy chạy. Tôi tin tưởng có thể cá chiếc Ailsa sẽ thắng cuộc đua xuyên Đại-tây-dương, nếu Archie nắm bánh lái. Tôi hỏi Archie anh ta có thể đưa tôi vào Vịnh Gentry theo ngả Friday Sound và eo biển Lunna hay không. Anh ta đáp: - Dễ quá mà. Ngả đó cũng không khác ngả mình hiện theo bao nhiêu. Tôi chỉ ước mong gió cứ thổi mãi như thế này. Tôi cũng ước mong điều đó khi nhớ đến hệ thống điện tử có thể làm tê liệt động cơ của chiếc Ailsa. Lúc năm giờ thì chúng tôi vào eo biển. Tôi quan sát bãi biển một cách kỹ càng với cặp ống nhòm của Archie cho tôi mượn. Andrews đã nhớ nơi này rất chính xác. Đây là một bãi biển khá sâu với bờ dốc thoai thoải có cát trắng và lởm chởm những đá. Về phía bên kia bãi cát chạy dài một bờ đá cao khoảng chừng bốn thước tây, có nơi lên tới sáu thước, có nơi chỉ độ ba thước, nhưng trung bình là bốn thước. Bờ đá thỉnh thoảng bị tách rời ra bởi một lằn nứt sâu từ trên đỉnh xuống tận dưới đáy. Bãi biển nơi tôi phải đến gặp Andrews và chiếc xuồng máy của ông ta rất dễ nhận thấy ở mút đông bắc, gần đảo Lunna. Archie chăm chú nhìn tôi trong lúc tôi hướng ống nhòm về phía bãi biển. Tôi giải thích: - Tôi chỉ muốn xem thử có thể lội được hay không. Anh ta nói ngay: - Ông phải hết sức cẩn thận. Khỏi dấu thủy triều thấp chừng mấy thước, đáy biển thụt xuống không sâu lắm. - Sâu bao nhiêu? Eric trả lời sau khi xem lại bản đồ. - Một trăm fathom, ở chính giữa eo biển. Tôi le lưỡi: - Một trăm tám chục thước tây! Eric mỉm một nụ cười thú vị trước vẻ kinh hoảng của tôi: - Thưa ông, đúng như vậy. Tuy nhiên, ra khỏi dấu thủy triều thấp, khởi đầu đáy biển chỉ xuống sâu rất nhanh tới bốn mươi fathom. Lối vào vịnh Gentry chỉ rộng chừng 1.600 thước giữa mũi Pentland và đảo Nossie. Trong lúc chúng tôi quay vào cửa vịnh, tôi phỏng đoán làng Bragawick chỉ cách chúng tôi vào khoảng ba cây số. Với cặp ống nhòm, tôi có thể trông thấy nhiều ụ dọc theo một cầu tàu duy nhất. Bốn chiếc ngư lôi đỉnh S đang đậu ở bốn ụ, cùng với mấy chiếc tuần dương đỉnh. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên nhất là một chiếc tàu hàng khá lớn đang bỏ neo trong vịnh cách bến tàu gần một cây số, như đang ngồi lên khỏi mặt nước, phô bày những mảnh sắt gỉ. Quang cảnh có vẻ rộng rịp trên các boong tàu trong ánh sáng đang giảm dần. Một bọn đàn ông đang đưa hàng hóa xuống nhiều chiếc xà lan bằng những cây cần trục. Archie nhìn tôi. - Tôi xin rút lại lời tôi đã nói không có ai trên Sudra. Chiếc tàu hàng nào vậy ông? Eric đáp trước: - Đó là chiếc Star of Aden, khởi hành từ Alexandria. Tôi nhìn anh ta, vô cùng ngạc nhiên. Chỉ mình tôi có ống nhòm, và chính tôi còn không đọc nổi tên. Archie bật cười: Eric vẫn được nhiều người gọi là Mắt Ó. Nó có thể thấy rõ mọi vật ở cách xa trên ba cây số bằng mắt trần trong lúc tôi không thấy rõ quá một cây số rưỡi dù có ống nhòm. Eric bảo: - Tàu đang chuẩn bị rời bến.