Đào-hầu biết có nghe thêm nữa cũng vô ích. Ông lẩn ra phía sau doanh trại, vọt qua hàng rào, dùng khinh công chạy thẳng về Đào-trang. Vừa vào tới trang, ông cho gọi các con và đệ tử đến sảnh đường. Đào phu nhân họ Đinh, xuất thân là người đồng môn với Đào-hầu. Võ công của bà không thua gì chồng. Bà kết hôn với Đào-hầu đã 24 năm, vợ chồng tâm hợp ý đồng, lấy việc dạy học trò, quy tụ dân chúng, mở mang ruộng vườn làm mục đích cho cuộc sống. Trong thời gian dài chung sống, bà biết rằng dù gặp chông gai bão táp đến đâu, ông cũng bình tĩnh giải quyết. Nay thấy ông trầm tư, rồi tập họp con cái, học trò khẩn cấp, bà biết đại biến cố đã đến. Sáng hôm nay, Đào-hầu nói vơí bà rằng ông dẫn đứa con út là Đào Kỳ dạo chơi bãi biển, xem dân chúng đánh cá. Thế rồi buổi trưa không thấy chồng con về ăn cơm, linh tính báo cho bà biết có sự không may sẽ xảy ra. Chiều mới thấy Đào Kỳ trở về nói với bà rằng Đào-hầu và nó bị bắt. Đào hầu ở lại dọ thám. Nghe con thuật, Đào phu nhân tỏ vẻ bực tức, vì thời bấy giờ tuy bị người Hán cai trị, nhưng chồng bà là một Lạc-hầu, chỉ Thái-thú mới có quyền bắt giữ. Thế mà nay một võ quan cấp Lữ, bắt giam ông. Bây giờ thấy chồng trở về, mặt đầy vẻ nghiêm trọng, bà không kiên nhẫn được nữa, hỏi: – Có tai vạ lớn rồi ư? Đào-hầu gật đầu: – Hơn thế nữa! Ông gọi đại đệ tử là Trần Dương Đức bảo: – Con xuống tầu, chuẩn bị hai con ngựa, mang theo kiếm chờ sư phụ ở sân để cùng đi Đinh trang. Ông bảo con cả là Nghi Sơn: – Con điều khiển tráng đinh, đệ tử phòng vệ, tuần tiễu trong trang thực nghiêm mật. Chỉ cho người vào mà không cho người ra. Ai không tuân, giết tại chỗ, kể cả đệ tử trong nhà. Ông bảo con thứ là Biện Sơn: – Con đánh trống tập họp đệ tự ở đại sảnh đường, xong vào báo cho bố biết. Ông tường thuật sơ lược mọi chuyện cho phu nhân nghe rồi kết luận: – Ta quyết định bỏ đất này chạy ra Giao-chỉ. Cách đây năm năm, dự đoán tình thế khó yên, ta đã cho em là Đào Thế Hùng mang gia đình ra Cổ-loa lập nghiệp trước, nay chúng ta ra đó thì đã có cơ sở rồi. Vậy phu nhân cho tỳ nữ chuẩn bị những thứ gì tối cần thiết hãy mang theo. Chúng ta phải đi ngay đêm nay mới kịp. Biện Sơn vào thưa: – Thưa bố, các đệ tử đã tề tựu đông đủ. Đào hầu theo con vào đại sảnh đường. Các đệ tử chắp tay hành lễ. Ông ra hiệu miễn lễ rồi nói: – Tổ tiên ta xây dựng cơ nghiệp này đã được bảy đời, cộng 184 năm. Ngày nay Đào trang gặp tai biến. Thái– thú Nhâm Diên tập trung 15.000 quân để đánh hai trang Đào, Đinh vào ngày mai. Đệ tử Cửu-chân chúng ta không hèn, nhưng Đào trang chúng ta chưa tới 600 người mà phải địch với 7.500 người có tổ chức thì chỉ là một cuộc tự tử vô ích. Bởi vậy ta quyết định đi lánh nạn. Ta gọi các con lên đây, để cho các con được lựa chọn: Ở lại hay theo ta, tuỳ các con. Tam đệ tử là Hoàng Thiều Hoa nói: – Chúng con nguyện theo sư phụ tới cùng. Nhưng... Đào Thế Kiệt vốn sủng ái cô nữ đệ tử này, ông hỏi: – Con muốn nói nhưng gì? Hoàng Thiều Hoa tỏ ý chí cương quyết: – Mình không phạm pháp, sư phụ lại là một Lạc– hầu, tự nhiên Thái-thú Nhâm Diên đem quân đánh phá trang ấp mình, không lẽ mình chịu nhục như vậy sao? Các đệ tử cùng nhao nhao lên: – Chúng con cương quyết không chịu nhục. Đào hầu hỏi các đệ tử: – Ý các con muốn thế nào? Hoàng Thiều Hoa cương quyết: – Con nghĩ, trước khi rút lui khỏi đất này, chúng ta phải đánh cho Nhâm Diên một trận kinh thiên động địa để chúng ghê mặt anh hùng Lĩnh Nam. Đào phu nhân nuôi Thiều Hoa từ nhỏ, bà không có con gái, nên rất cưng chiều cô nữ đệ tử này. Bây giờ trước cảnh trang ấp sắp gặp nguy nan, nàng tỏ chí khí hùng tráng, bà thấy đẹp lòng, tát yêu nàng: – Được, chúng ta phải làm như thế. Bà nói vơí hầu: – Tôi thấy Thiều Hoa có lý. Ta đánh một trận, rồi hãy bỏ đi. Đào hầu gật đầu ra lệnh: – Các đệ tử hãy dồn tất cả đàn bà, trẻ con, người già không biết võ đến đây ngay. Nội một giờ phải xong. Ông ra lệnh cho tam đệ tử Hoàng Thiều Hoa: – Con theo sư mẫu, bảo vệ đoàn xe cho đàn bà, trẻ con xuống bến chài, chạy ra đảo Nghi-sơn, chờ sư phụ ở đó. Ông ra lệnh cho con trưởng: – Con dẫn 100 tráng đinh ra phục trên đường dẫn tới bờ biển. Chờ cho xe cho đàn bà, trẻ con xuống thuyền, ra khơi rồi, con cùng Thiều Hoa bảo vệ đoàn thuyền đến đảo Nghi-sơn ngay. Ông không thấy nhị đệ tử Trịnh Quang đâu, hỏi: – Nhị sư huynh đâu? Đào Kỳ đáp: – Nhị sư huynh về đón gia đình rồi. Ông ra lệnh cho con thứ là Biện Sơn: – Con dẫn 50 sư huynh đệ thuộc ngoại đồ, cùng 200 tráng đinh, chia làm hai đội, men theo bờ biển đến cảng Bắc, phục đấy. Đợi khi thấy lửa cháy ở phủ Thái-thú thì đánh cướp chiến thuyền. Tại cảng Bắc có năm chiến thuyền, con cho ba chiếc chạy ra đảo Nghi-sơn đón người của Đào, Đinh trang ở đó. Vì tất cả đã đến bằng thuyền đánh cá. Thuyền đánh cá nhỏ quá, không thể ra xa. Muốn vượt biển, phải dùnc của phái Long-biên chúng tôi, xin để chúng tôi giải quyết với nhau. Tại sao phái Hoa-lư lại can thiệp vào? Món nợ này không biết Cao hầu, Cao chưởng môn tính sao đây? Cao Cảnh Sơn mặt đỏ phừng phừng, lớn tiếng: – Hai vị là cao nhân, đã được Nguyễn cô nương tha chết tại sao trong lúc người ta trúng độc, lại hai người đánh một? Do đó, Cao mỗ phải ra tay. Mỗ chỉ bắn có một phát tám mũi tên. Sự thực, Cao mỗ muốn kết liễu tính mạng quý vị thì cũng dễ thôi. Các vị có muốn thưởng thức ít mũi nữa không? Huyền Sương biết Cao Cảnh Sơn nói thực. Nếu vừa rồi, ông định giết hai người, thì 6 mũi tên đã không bẻ đầu và cũng không nhẹ như vậy. Họ thấy Cảnh Sơn bắn 1 phát 8 mũi, hướng về 8 nơi, với 2 thứ kình lực khác nhau, thì run sợ. Họ không muốn gây hấn với ông: – Đã không có ác ý thì thôi. Hà tất phải thù hận? Mai Huyền Sương hướng vào Phương Dung: – Con nhỏ này! Mi giết chết đại sư huynh ta, mi phải đền tội. Mụ hướng vào Phương Dung tấn công liền. Phương Dung người không còn khí lực, lảo đảo đưa kiếm lên đỡ, nhưng kiếm lại rơi xuống đài. Bỗng một bóng xanh từ phái Tản-viên vọt lên trời như con diều hâu, đáp xuống, chụp Phương Dung rồi nhảy lùi lại. Kiếm của Huyền Sương đâm vào quãng không. Tô Định muốn để Mai Huyền Sương giết Phương Dung, nên y vung chưởng tấn công bóng xanh. Chưởng lực của y trông rất thô kệch, nhưng trầm trọng úp xuống. Bóng xanh đợi cho chưởng lực sắp tới mới nhảy vọt lên cao. Chưởng lực đi sướt dưới chân. Ở trên cao, bóng xanh phóng chưởng đánh vào đầu Tô Định. Tô Định hoảng kinh, thu chưởng về, phát chiêu thứ nhì chống lại. Nhưng lúc đó, bóng xanh đã hướng chưởng vào cột cờ giữa đài. Bình một tiếng, cột cờ rung động, lắc lư. Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ, bóng xanh đó là Trưng Nhị. Nguyên Trưng Nhị đã ở cùng Phương Dung ít lâu, hai người thân thiết như ruột thịt. Nay thấy nàng sắp lâm nguy, vội nhảy lên đài cứu. Đúng ra, võ công Trưng Nhị chưa chắc bằng Tô Định. Nhưng nhờ thông minh, nàng đã chiếm được lợi thế trong chốc lát. Võ lâm Lĩnh Nam từng nghe Tô Định là người võ công cao không biết đâu mà lường. Từ khi sang Giao-chỉ, y chưa đấu với ai bao giờ. Đây là lần đầu tiên y ra chiêu. Bản lãnh hắn có cao hơn bọn Nghĩa Nam, có lẽ không kém gì Đạo Sinh bao nhiêu. Trước khi sang Giao-chỉ, Tô Định được sư phụ cho biết võ công y đã thuộc hàng cao thủ võ lâm, nhưng có hai thứ của Giao-chỉ y không thể nào địch nổi. Một là Phục ngưu thần chưởng của phái Tản-viên. Hai là Long-biên kiếm pháp. Chính sư phụ y trước đây đã bị bại về chưởng pháp này. Khi y tới nơi mới vỡ lẽ ra chưởng này về phần âm nhu đã bị thất truyền hoàn toàn. Phần dương cương chỉ còn mười hai chiêu. Có hai người sử dụng được, đó là Khất đại phu Trần Đại Sinh với Lê Đạo Sinh. Tô Định nghe võ lâm Lĩnh Nam nói: Phục ngưu thần chưởng chỉ có uy lực vô địch khi biết đủ 36 chiêu. Chiêu nọ nối với chiêu kia thành một giây, biến hóa không biết đâu mà lường. Y đã xem Lê Đạo Sinh sử dụng, thấy chưởng lực hùng hậu, chiêu số kỳ diệu. Y nghe người ta nói Đạo Sinh tuy là sư đệ, nhưng võ công cao hơn sư huynh là Trần Đại-Sinh nhiều. Từ đó, Tô mới yên lòng, vì Lê thì giữ chức Đô-úy dưới quyền y. y sai phái gì chẳng được? Còn Trần Đại Sinh, đã từ lâu, không biết phiêu bạt nơi nào. Mối lo thứ nhì của y là kiếm pháp Long-biên. Pho kiếm pháp thần diệu này chỉ có người chưởng môn mới được học hết. Mà chưởng môn trước đây là Nguyễn Phan đã bị học trò bắt giao cho Thái-thú Tích Quang giam giữ. Ba tay cao thủ hạng nhất của Long-biên thì hai người là Huyện-úy, thuộc loại chân tay của y. Y thấy yên tâm hoàn toàn. Nay trong đại hội bỗng nhiên thấy một cô bé biết sử dụng kiếm pháp ảo diệu, khiến y kinh hoàng. May mắn thay, cô bé lại bị Lê Nghĩa Nam dùng hỏa lựu làm cho bị trúng độc. Y muốn kéo dài thời giờ để Phương Dung bị thuốc ngấm mà chết, hoặc bị Huyền Sương giết ngay là hay hơn hết. Bây giờ, Trưng Nhị, người phái Tản-viên lên đài cứu nàng, y phát chưởng ngăn lại. Y nhận thấy võ công Trưng Nhị thua y. Nhưng nàng khôn khéo, thành ra đã đoạt tiên cơ. Bị mất mặt, y nổi giận vung chưởng phát đủ mười thành công lực, hướng vào Trưng Nhị. Trưng Nhị ôm Phương Dung nhảy ra sau cột cờ. Y vội hướng chưởng theo. Ầm một cái, cột cờ gãy làm đôi, đổ xuống. Võ lâm Lĩnh-Nam đều khủng khiếp vì võ công của y. Y vung chưởng thứ nhì đánh vào Trưng Nhị. Chưởng phong vừa phát ra, Trưng Nhị đã vội tung Phương Dung lên cao, vung chưởng đỡ. Hoàng Đức Tiết chỉ chờ có thế, y vội rút kiếm hướng về phía Phương Dung mà đâm. Đào Kỳ ngồi tại khán đài của phái Sài-sơn, khá xa khán đài trung ương. Lúc đầu, thấy Phương Dung lâm nạn, chàng muốn lên đài cứu. Nhưng những diễn biến đã dồn dập xảy ra, khiến chàng đã đến gần đài, nhưng phải ngưng lại. Nay thấy Tô Định phát chưởng mãnh liệt quá, Trưng Nhị không đỡ nổi. Chàng vội nhảy vọt lên đài. Người còn lơ lửng trên không, chàng đã quy tụ chân khí về Đốc-mạch, Nhâm-mạch, rồi phát hai chưởng một lúc. Một chưởng dương cương xuất ra ở Thủ thái-dương Tiểu trường kinh, Thủ dương minh Đại trường kinh và Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh. Chưởng thứ nhì thuộc âm nhu, xuất ra ở Thủ thái âm Phế kinh, Thủ thiếu âm Tâm kinh, Thủ khuyết âm Tâm bào kinh. Kình lực mạnh như núi lở, băng tan. Dương chưởng hướng vào Hoàng Đức Tiết, âm chưởng hướng vào Tô Định. Tô, Hoàng cùng các trọng tài ngồi trên khán đài đều cảm thấy bị nghẹt thở. Cao nhân các phái công lực kém như Trần Năng, Lại Thế Cường, vội nhảy khỏi đài để khỏi bị sức ép làm nghẹt hơi. Tô, Hoàng thấy một thiếu niên rách rưới từ dưới đài nhảy lên, còn cách đài tới mấy trượng đã phát chưởng, thì chúng đều nghĩ như nhau: – Ở đời làm gì có thứ chưởng lực đánh từ xa như vậy? Ý tưởng vừa thoáng qua, chưường. Đào Kỳ thấy bố mẹ, sư huynh, sư tỷ đã đi hết, tự nhiên nó cảm thấy mình là người lớn nhất, dẫn đám gia đinh canh cửa trang. Nhưng nó chờ đến canh ba, mà vẫn không thấy nhị sư huynh đâu. Lòng đầy lo sợ, nó tự nghĩ: – Dù gì ta cũng phải chờ nhị sư huynh và gia đình để cùng đi. Hốt nhiên có tiếng vó ngựa lộp cộp đi lại. Nó nhảy xuống đất ghé tai nghe và đếm: – Một... hai... ba... mười. Trời ơi, 10 kỵ mã tới, đúng là quân Hán rồi đây. Nó vẫy tay cho tráng đinh phục trong trang, rồi nhìn ra: Phía trước quả có 10 kỵ binh đang đi tới. Hai người đi đầu là Mã Dũng và Triệu Thanh mà nó đã đánh nhau hồi chiều. Nó cười khỉnh: – Chắc hai thằng này vào nhà tù kiếm cha con ta không thấy, nên dẫn kỵ binh đi tìm đây. Đã vậy tao cho chúng mày nếm mùi đau khổ. Nó thò tay ra sau rút tên nạp vào cung, nhắm con ngựa Mã Dũng cưỡi buông tên. Vèo một tiếng, con ngựa bị trúng tên, đau quá nhảy dựng hai vó trước lên rồi ngã lăn ra. Mã Dũng vội thúc chân vào bàn đạp, vọt người lên đứng xuống đất chửi đổng: – Đứa nào bắn lén? Nếu là anh hùng thì xuất hiện cùng ta đấu 100 hiệp. Đào Kỳ cười ha hả, từ trong cổng bước ra chỉ vào mặt Mã Dũng: – Hồi chiều, chúng mày được tao tha chết, lạy như lạy ông nội. Thế mà không biết điều, về dẫn lính ra phục kích. Chúng mày bắt được tao mà sao ngu quá, không giữ được, để tao thoát thân? Triệu Thanh vẫy tay, tám kỵ binh vây Đào Kỳ vào giữa. Đào Kỳ không sợ hãi: – Mày có giỏi thì xuống ngựa, một chơi một, chứ dùng đông người đánh mình tao đâu phải anh hùng? Triệu Thanh không để lời nói Đào Kỳ vào tai, cùng đám kỵ binh múa đao tấn công. Đào Kỳ rút kiếm nhắm đỉnh đầu Triệu Thành xả một nhát. Triệu Thanh đưa đao đỡ. Đao kiếm sắp chạm nhau, thì lưỡi kiếm Đào Kỳ bỗng đổi chiêu biến thành vòng cầu chém vào hông y. Triệu Thanh kinh hoàng, lộn người xuống đất tránh thế kiếm hiểm ác đó, thì thanh kiếm của Đào Kỳ chém xuống trúng giữa đầu con ngựa của y. Con ngựa đau quá, hí lên một tiếng thê thảm rồi đâm bổ về phía trước. Vòng vây mở rộng, Đào Kỳ chạy vào rừng cạnh đó. Triệu Thanh, Mã Dũng cùng ôm đao đuổi theo. Đào Kỳ vấp vào hòn đá, ngã lăn xuống đất. Triệu Thanh thích quá, nhảy lại gần dí đao vào cổ Đào Kỳ quát lớn: – Này hết sống nhé! Thực ra Đào Kỳ giả bộ vấp té, chờ khi Triệu Thanh đến gần, dí đao vào cổ, nó bật người dậy, vọt lên cao như con cá, cỡi trên mình ngựa, thuận tay rút kiếm đâm về sau một chiêu, kết thúc tính mệnh một tên kỵ binh đang đánh tập hậu nó. Mã Dũng, Triệu Thanh xuất thân là kỵ binh, quen đánh trên mình ngựa, bây giờ mất ngựa, chân tay trở thành luống cuống. Đào Kỳ phi ngựa chạy vào trang. Đám kỵ binh hô lên một tiếng đuổi theo, khi chúng vừa vào đến cổng thì huỵch, huỵch, huỵch, ngựa vấp dây chăng ngã lăn, hất đám kỵ binh xuống đất. Đám tráng đinh từ chỗ núp nhảy giết hết đám kỵ binh, rồi cắt đầu treo lên cổng trang. Đào Kỳ đang hứng chí, thì thấy lửa bốc lên ngập trời tại phía phủ Thái-thú. Nó biết cha và anh đánh chiếm cảng Bắc, vội cùng đám gia nhân lên ngựa chạy ra bờ biển, thì cuộc di tản bằng thuyền gần hoàn tất. Đào phu nhân bảo Nghi Sơn: – Mọi việc đến đây là yên rồi. Hiện các đội kỵ binh của Cửu-chân đóng ở phía Nam 50 dặm. Chúng có điều động đến cứu ứng thì cũng phải tới sáng. Ta chỉ lo đội kỵ binh Giao-chỉ đóng cách đây không xa. Chúng thấy phủ Thái-thú bị tấn công, tất kéo tới cứu viện. Vậy con dẫn huynh đệ, tráng đinh, phục trên đồi An-tuy, để đề phòng. Nếu thấy kỵ binh Giao-chỉ tới thì dùng tên bắn, và đốt lửa làm nghi binh. Con cố ý chần chờ hầu bố con có thì giờ cướp chiến thuyền. Hoàng Thiều Hoa nói với Đào phu nhân: – Sư mẫu, việc bảo vệ gia đình là hệ trọng. Con với tiểu sư đệ đi chặn giặc cũng đủ rồi. Đại sư ca trí dũng hơn đời, cần ở đây giúp sư mẫu. Đào phu nhân thấy lời Thiều Hoa đúng, bà bảo Đào Kỳ: – Sư tỷ võ công cao, nhưng ứng biến không bằng con. Vậy mọi chuyện nhất thiết con lo ứng phó, nhưng phải nghe lời sư tỷ. Đào Kỳ thấy mẹ coi trọng mình nó thích lắm. Nó nhảy vọt lên ngựa, cùng Thiều Hoa hướng về An-tuy. Nó kiếm chỗ cho huynh đệ, tráng đinh mai phục. Nó lại chỉ huy tráng đinh khuân đá chất lên cao, khi cần sẽ vần đá xuống cản giặc. Công việc hoàn tất mau chóng, Đào Kỳ đến ngồi bên sư tỷ Hoàng Thiều Hoa. Các đệ tử Đào trang, nam có, nữ có, nhưng Đào Kỳ sủng ái nhất là tam sư tỷ. Bản tính Thiều Hoa ôn nhu văn nhã, học văn võ đều thành đạt, được cả sư phụ, sư mẫu thương yêu. Nàng nói gì Đào hầu cũng nghe, xin gì cũng cho. Mỗi khi Đào Kỳ nghịch ngợm, phá phách, nó bị cha la rầy, thì Thiều Hoa lại năn nỉ dùm. Riết rồi chị em thành thân mật. Hôm nay biến cố trọng đại xảy ra, nhà tan cửa nát. Bố mẹ, các anh, các sư huynh lăn mình vào chốn nguy hiểm, nó lại được ngồi bên cạnh sư tỷ chờ giặc. Đào Kỳ nói sẽ vào tai Thiều Hoa: – Em chỉ mong bây giờ có một tên tướng Hán đẹp trai, hào hoa phong nhã tới đây, chúng mình khỏi cần đánh, chị chỉ việc liếc mắt một cái, nó cũng té lăn xuống đất rồi. Như vậy khỏi phải đổ máu. Thiều Hoa lấy tay sẽ cốc vào đầu Đào Kỳ một cái: – Đến lúc này mà em cũng đùa được ư? Với bản lĩnh của Đào Kỳ thì nó tránh cái cốc của Hoàng Thiều Hoa dễ dàng. Nhưng nó cứ để cho sư tỷ cốc, nó tiếp: – Tại sao sư tỷ cốc em? Binh thư nói rằng "Không đánh mà thắng, không tổn nhân mạng mà thắng, không tổn lương tiền mà thắng thì là đại tướng giỏi". Nếu sư tỷ gặp tướng Hán, đưa mắt một cái cho nó hồn phiêu phách tán, thì sư tỷ đã trở thành đại tướng Lĩnh Nam rồi. Thiều Hoa định nói thì Đào Kỳ bịt miệng nàng lại, ghé miệng vào tai "suỵt" một tiếng. Thiều Hoa lắng tai nghe, quả có nhiều tiếng lộp cộp như tiếng ngựa phi. Tiếng lộp cộp mỗi lúc một gần. Đào Kỳ ghé tai xuống đất nghe rồi đếm: một... hai... ba..., ôi nhiều lắm, cả 100 ngựa đang tiến đến chỗ nó ẩn. Một lát sau, đoàn người ngựa đi tới, đuốc đốt sáng lòa. Đào Kỳ đợi cho đoàn người ngựa tới gần, mới phất tay ra hiệu. Tráng đinh bắn tên lửa vùn vụt về phía trước. Cỏ rừng bốc cháy ngùn ngụt. Đội quân đang đi, ngừng lại, dàn ra chờ. Viên tướng chỉ huy gò ngựa quan sát một lúc, không thấy động tĩnh gì, y phất tay cho quân tiến lên. Vừa lúc đó, một mũi tên xé gió bay tới. Y lạng người bắt lấy. Tuy bắt được tên, nhưng y cảm thấy cánh tay tê buốt. Biết người bắn không phải thứ binh lính tầm thường mà là một cao thủ có nội lực, tiếng tên mới rít lên như vậy. Y cầm mũi tên lên coi, thấy chuôi tên khắc một bông cúc, nét chạm trổ hoa mỹ. Y lớn tiếng hỏi: – Cao nhân nào xin xuất hiện để tương kiến. Nhưng không có tiếng trả lời. Vèo, một mũi tên khác xé gió bay tới, rồi hai, rồi ba, rồi bốn mũi nối đuôi nhau. Y tung người khỏi yên ngựa, ba mũi tên bay sát qua dưới chân y. Một mũi trúng giữa trán con ngựa. Con ngựa đau quá hí lên một tiếng, rồi ngã lăn ra đất giãy đành đạch. Viên tướng Hán kinh hoàng nghĩ: – Người bắn tên dường như không có ý hại mình, nếu không thì vừa rồi, lúc mình còn ở trên không y bắn mấy mũi nữa thì mình chết rồi. Phía sau có tiếng người rú lên, tiếng người ngã ngựa, tiếng người la hoảng. Y nhìn lại, thì ra ba mũi tên không trúng người y, bay ra sau trúng vào ba kỵ mã. Kỳ lạ ở chỗ ba kỵ mã đều bị trúng giữa cổ, chết ngay lập tức. Y toát mồ hôi nghĩ: – Người bắn tên này tiễn thủ không phải tầm thường. Nội lực không kém gì mình. Rõ ràng y không muốn sát hại mình, chứ không thì mình đã chết rồi. Y nhảy xuống đất, nhổ tên ra coi, thì thấy ba mũi tên bắn chết kỵ mã phía sau trên chuôi đều khắc bông hoa cúc. Mũi tên bắn trúng ngựa của y thì trên có khắc bông hoa đào, tô son đỏ chói. Y cầm mũi tên để đoán tung tích kẻ bắn, thì thấy bốn mũi tên khắc bông cúc, toả ra mùi thơm thoang thoảng, làm y cảm thấy say say: – Chắc người bắn tên này là một giai nhân? Nếu không sao lại có mùi thơm nhẹ nhàng thoảng qua? Quả đúng như vậy, người bắn mũi tên vào người y đầu tiên là Thiều Hoa. Mũi tên bắn trúng ngựa y là của Đào Kỳ. Biểu hiệu của Thiều Hoa là bông cúc, nên trên kiếm cũng như trên mũi tên đều khắc bông cúc. Còn Đào Kỳ thì lấy biểu hiệu chung của cha, anh trên tên khắc bông đào. Viên tướng chỉ huy đội quân quát lớn: – Ta là Nghiêm Sơn, xuất thân nghĩa hiệp. Trọn đời kính trọng những anh hùng hảo hán. Vậy cao nhân nào đó xin xuất hiện để được tương kiến. Vèo, vèo, vèo, một bóng mặc áo vàng đã nhảy đến trước mặt Nghiêm Sơn. Y định thần nhìn kỹ thì là một nữ lang tuyệt thế. Y chưa kịp phản ứng, thì thấp thoáng một cái nữ lang đã rút kiếm đâm y. Động tác, nhảy, đứng, rút kiếm đâm, thần tốc vô song. Y trầm người tránh, đưa đao đỡ. Đao kiếm chạm nhau toé lửa. Cả hai cùng lùi lại. Hổ khẩu y cảm thấy tê chồn. Nữ lang đã tra gươm vào vỏ, khoanh tay đứng nhìn y: – Tiểu nữ họ Hoàng, tên Thiều Hoa xin kính chào Nghiêm tướng quân. Nghiêm Sơn tuổi còn trẻ, khoảng 25-26, rất anh tuấn, võ công thuộc loại cao thủ vùng Quế-lâm. Chàng hiện là Bình Nam đại tướng quân, tước Lĩnh Nam công, uy quyền bao trùm toàn Lĩnh Nam như một ông vua con. Nghiêm Sơn tự hào là anh hùng vô địch, từ khi sang Giao-chỉ đến giờ, chưa một người Hán, người Việt nào địch nổi y. Không ngờ trong đêm nay chàng gặp một thiếu nữ Việt tuyệt sắc, bắn mấy mũi tên, mà một mũi làm chàng suýt bỏ mạng. Cảm phục vì tài, trọng vì sắc, chàng hướng vào Thiều Hoa đáp lễ: – Thì ra Hoàng cô nương. Không biết cô nương đối với Đào Lạc-hầu là thế nào? Thiều Hoa đáp: – Đào tiên sinh là minh sư của tiểu nữ. Nghiêm Sơn reo lên: – Người xưa nói "Hữu minh sư, tất hữu cao đồ". Nghiêm mỗ nghe danh lão tiên sinh từ lâu, mà chưa có dịp tương kiến. Không ngờ đêm nay lại gặp cao đồ của người. Tại hạ với Đào-lạc hầu tuy chưa có duyên gặp gỡ mà lòng đầy kính phục. Chúng ta vốn không thù không oán, tại sao cô nương lại đón đường, bắn tại hạ mấy mũi tên suýt bỏ mạng? Thiều Hoa không phải là người cơ trí như Đào Kỳ, nên đáp: – Đào trang lập lên đã bảy đời, truyền 184 năm, lúc nào cũng an phận làm ăn, thuế sưu nộp đủ, không hiểu có tội gì, mà Lĩnh-nam công lại họp những 15.000 quân, viện thêm một sư kỵ ở Giao-chỉ vào để đánh phá? Tướng quân tự xưng là người anh hùng nghĩa hiệp xin giải thích cho. Nghiêm Sơn nghe Hoàng Thiều Hoa nói, chàng chau mày, quay lại nhìn Nhâm Diên. Ánh mắt của chàng toát ra làn hàn quang cực mạnh, đầy vẻ nghiêm khắc. Nguyên Nhâm Diên xuất thân là người đọc sách, được cử sang làm Thái-thú Cửu-chân từ thời Tây Hán. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, thì y theo Vương Mãng. Kịp đến thời Quang Vũ trùng hưng, cử Nghiêm Sơn cùng Hợp-phố lục hiệp kinh lý vùng Lĩnh Nam, thì y lại theo về nhà Hán. Thời gian làm Thái-thú, y đã tổ chức Cửu– chân trở thành một giang sơn riêng. Tuy mới thần phục Quang Vũ, nhưng y vẫn có ý muốn tự lập như Triệu Đà ngày trước. Y dùng văn hoá Trung-nguyên làm cho năm Lạc-hầu Cửu-chân theo y, hai Lạc-hầu khác bỏ mộng phản Hán phục Việt, đi vào đường văn hoá. Chỉ còn lại Đào-hầu, Đinh-hầu là vẫn giữ nếp xưa, nuôi ý chí phục quốc. Bề ngoài y thần phục Nghiêm Sơn, vì chàng được phong tới tước Công, chức Bình-nam đại tướng quân, nhưng y vẫn muốn gây cho dân chúng chống đối chàng, hầu y có thể lật đổ chàng bất cứ lúc nào. Nhân Đào, Đinh trang chống y, y sai một số người Việt làm việc cho Tế-tác, phải làm phúc trình rằng Đào, Đinh trang là nơi tụ tập của bọn đầu trộm, đuôi cướp, dân chúng bị hành hạ cực khổ. Y xin Lĩnh-nam công đem quân diệt hai trang Đào, Đinh, nhờ đßng phong đã chụp xuống. Tô, Hoàng vội bỏ tấn công Trưng Nhị, xuất chưởng đỡ. Đào Kỳ xuất hai tay cùng một chiêu, thuộc võ công Cửu-chân Cương phong bạt sơn, có ba lớp. Trưng Nhị lợi dụng thời cơ bồng Phương Dung nhảy xuống đài. Bùng, bùng hai tiếng. Hoàng Đức Tiết bay vọt lên cao rồi rơi xuống đài. Còn Tô Định cảm thấy tê dại cả chân tay. Y phải hít mạnh một hơi chân khí mới lấy lại được bình tĩnh. Y quát lớn: – Thiếu niên này! Mi... mi là người phái Cửu-chân? Đào Kỳ đứng im không trả lời. Hoàng Đức Tiết ỷ có Tô Định hỗ trợ, y lại nhảy lên đài, cùng Mai Huyền Sương rút kiếm tấn công Đào Kỳ. Khi Đào Kỳ nhảy lên đài, phóng chưởng, tất cả quần hùng Lĩnh-Nam đều rúng động, tự hỏi: – Thiếu niên dơ bẩn này là ai? Sao lại ngồi với phái Sài-sơn? Nguyễn Tam Trinh và những người phái Sài-sơn đều ngạc nhiên không ít. Trước đây, họ chỉ thấy võ công Đào Kỳ với Phương Dung cũng khá vậy thôi. Họ nghĩ chắc cũng không hơn Lê Chân bao nhiêu. Nay thấy kiếm pháp Phương Dung đã tới trình độ ảo diệu, xuất thần nhập hóa, họ đều ngẩn ngơ. Tiếp đến Đào Kỳ một lúc phát hai chưởng. Một chưởng hất Hoàng Đức Tiết văng xuống đài, họ đã sợ rồi. Chính Nguyễn Tam Trinh đã từng đấu với Tiết và còn thua y xa. Ở đây, Đào Kỳ mới phóng nhẹ một chưởng, Tiết đã rơi xuống đài. Thật là ngoài sức tưởng tượng của họ. Nhất là Đào Kỳ lại đỡ được chưởng của Tô Định. Trông vẻ mặt chàng vẫn ung dung như thường, còn Tô Định thì nhăn nhó. Như vậy, phần thắng bại đã rõ. Tô Định là người khôn ngoan. Y biết có đánh nữa, chưa chắc y đã thắng nổi Đào Kỳ. Y lẳng lặng về chỗ ngồi, hỏi: – Phái Sài-sơn sao lại can thiệp vào nội bộ phái Long-biên? Xin Nam-hải nữ hiệp dạy cho vài lời. Nam Hải nữ hiệp không trả lời. Bà quay hỏi Đào Kỳ: – Cháu ngoan! Cháu là đệ tử của ai? Cháu thuộc phái nào? Câu hỏi đó nhắm trả lời cho Tô Định rằng thiếu niên dơ bẩn đó không phải là đệ tử phái Sài-sơn. Đào Kỳ lắc đầu: – Thưa Nam-hải nữ hiệp! Nữ hiệp là cao nhân đạo đức, đáng lẽ nữ hiệp hỏi, cháu phải thưa ngay, nhưng vì cháu chịu lời ủy thác của cao nhân tiền bối phải làm một việc cơ mật, nên cháu không thể khai sư môn ra được. Cháu hứa khi đã làm xong việc, sẽ thân đến Sài-sơn lễ tạ Phù-đổng Thiên-vương và tạ lỗi với nữ hiệp. Khi Đào Kỳ giả ăn mày đi theo phái Sài-sơn, Nam Hải nữ hiệp đã biết chàng là đệ tử danh môn chính phái. Bà đoán chàng đưọc sư phụ sai đến thông báo tin tức đại hội cho bà mà thôi. Cho nên, dù biết chàng giả dạng ăn xin, bà cũng lờ đi, không cật vấn. Xin nhắc lại, Nam-hải nữ hiệp là một đệ nhất cao nhân đương thời. Bà hành hiệp từ năm 16 tuổi, đến nay bà đã ở tuổi gần 60, kinh lịch khéo léo có thừa. Sư đệ của bà là Nguyễn Tam Trinh, phải đợi đến khi Đào Kỳ giúp đỡ Hùng Bảo, ông mới biết. Trong tâm Nam-hải nữ hiệp đặt ra không biết bao nhiêu nghi vấn: – Thiếu niên này bản lãnh đến dường ấy, ai là sư phụ của hắn? Nhất định hắn là người có thiện cảm với phái Sài-sơn rồi. Nhưng, sư phụ hắn là ai thì ta chịu, không đoán ra. Khi Đào Kỳ lên đài, Thiều Hoa đã nhận ra chàng là người cứu Ngũ-kiếm đêm nọ. Nàng nhìn Nghiêm Sơn, thấy Nghiêm Sơn cũng nhìn nàng gật đầu, như cùng thông cảm: – Đây là người đã nhường nàng 10 thế kiếm. Cũng là người đã đánh Nghiêm mấy chưởng hôm trước. Vậy, thiếu niên này nhất định là người thân với nàng. Thiều Hoa hỏi Tường Loan: – Gần đây sư phụ, sư thúc có thu nhận thêm một đệ tử nào không? Tường Loan lắc đầu. Tuy hỏi câu đó, song Thiều Hoa đã biết ngay nàng vô lý, bởi, nàng thấy thiếu niên này công lực gấp bội sư phụ, vậy làm sao là đệ tử sư phụ được? Khi Trưng Nhị nhảy lên đài, Thiều Hoa giật mình nhìn Nghiêm Sơn như hỏi chàng rằng thiếu nữ lên đài ôm Phương Dung xuống, tại sao lại ngồi ở chỗ phái Tản-viên? Rõ ràng tiểu sư đệ với Phương Dung giới thiệu nàng họ Đặng, đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng. Nay lại là người ngồi ở hàng ghế đầu phái Tản-viên, vậy nàng phải có võ công ngang với chưởng môn Đặng Thi Sách. Qua mấy chiêu Trưng Nhị sử dụng để cứu Phương Dung, Thiều Hoa nhận thấy võ công của nàng cao ngang với sự phụ nàng là Đào Thế Kiệt. Nàng hỏi Tường Loan: – Sư muội! Em có biết thiếu nữ áo xanh lên đài bồng Phương Dung xuống là ai không? Hôm trước, tiểu sư đệ với Phương Dung đã đi cùng nàng đến phủ Lĩnh-nam công chơi ít ngày. Tiểu sư đệ giới thiệu nàng là đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng. Tường Loan lắc đầu: – Sư tỷ! Chị bị tiểu sư đệ xí gạt rồi. Nàng đó là Trưng Nhị của phái Tản-viên đấy! Tiếng tăm Tản-viên song phượng vang lừng thiên hạ về võ công, đạo đức, nhất là chủ trương phản Hán phục Việt, khắp Lĩnh Nam ai cũng biết. Thế mà khi nàng giả dạng nữ đệ tử của Thế Hùng vào phủ Lĩnh-nam công, Thiều Hoa là phu nhân Lĩnh-nam công lại không biết gì, thì thật rắc rối. Ký ức giúp Thiều Hoa nhớ lại những cuộc đi chơi bất thường của Đào Kỳ, Phương Dung, Trưng Nhị. Nàng chắc ba người có liên quan đến việc xáo trộn Luy-lâu hồi đó như: Trộm vào phủ Thái-thú, hai người bí mật cứu Ngũ kiếm... – Mình đáng chết thực. Thì ra tiểu sư đệ với Trưng Nhị đã mượn ngay phủ Lĩnh-nam công làm nơi trú ngụ hoạt động phản Hán phục Việt. Thực là bất lợi cho Nghiêm đại ca. Ừ! Tuy ta có lỗi với Nghiêm đại ca thực, nhưng, ngược lại, đối với Lĩnh-nam, đối với sư phụ, ta cũng có chút công. Tô Định hướng vào Đào Kỳ, quát: – Thiếu niên này, mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào chuyện của phái Long-biên? Đào K phái Cửu-chân. Nghiêm Sơn cũng vội đáp lễ. Thiều Hoa vọt người lên cao, ánh kiếm bạc tà tà đâm vào cổ Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn đưa tay bắt kiếm. Hoàng Thiều Hoa kinh hãi nghĩ: – Thế kiếm của ta như vậy mà y dám dơ tay bắt, thì quả là gan cùng mình. Chiêu kiếm đâm thẳng bỗng thu trở về rồi vòng lên đâm vào vai trái. Nghiêm Sơn nhảy lui lại phía sau hai bước. Thiều Hoa đã đáp xuống đất. Nghiêm Sơn thấy Thiều Hoa vọt lên cao đánh mình hai chiêu, thân pháp đẹp không tưởng tượng được. Chàng đứng ngây người ra nhìn. Nhâm Diên nhìn về phủ Thái-thú, thấy lửa bốc cháy ngụt trời, thì lòng nóng như lửa đốt. Nhâm Diên vẫy tay xua quân xông vào. Đào Kỳ vọt về phía Nhâm Diên, khi còn lơ lửng trên không, thuận tay nó rút kiếm, đánh liền ba chiêu hiểm ác. Nghiêm Sơn đang biểu diễn kiếm với Hoàng Thiều Hoa, thấy Thái-thú Nhâm Diên lâm nguy, chàng vội lạng người đi đỡ kiếm của Đào Kỳ. Choảng một tiếng, kiếm của Đào Kỳ bay mất, tay rách hổ khâu, máu chảy đầm đìa. Đào Kỳ ôm tay nhăn mặt: – Oái! Nghiêm đại ca, ngươi ỷ lớn bắt nạt nhỏ. Như vậy không phải là anh hùng. Bản lĩnh kiếm thuật của Đào Kỳ đã luyện tới mức khá, nhưng sở dĩ y thất bại vì nguyên tắc võ thuật của Lĩnh Nam là dùng mau thắng chậm, dùng động chế tĩnh. Đây Đào Kỳ còn nhỏ tuổi, công lực chưa đủ, lại dùng sức mạnh đánh ra, gặp phải Nghiêm Sơn là người công lực thâm hậu, vì vậy nó bị bay mất kiếm. Nghiêm Sơn cứu được Nhâm Diên, đánh rơi kiếm của Đào Kỳ nhưng y không vui. Vì Đào Kỳ vừa mồm năm miệng mười như cố ý nói rằng: Ngoài Sơn ra không ai xứng đáng làm anh rể nó. Thế mà chàng đánh rơi kiếm của nó, lại làm nó bị thương. Nghiêm Sơn hơi hối hận: – Tiểu sư đệ! Có sao không? Đào Kỳ làm bộ ôm tay nhăn nhó: – Mới rách tay, chảy máu, cả cánh tay tê liệt thôi, chứ chưa chết. Nó nhìn về phía phủ Thái-thú, cảng thủy quân thấy lửa cháy rực trời, nó biết rằng bố với các sư huynh đã thành công. Nó quay lại Thiều Hoa gọi: – Sư tỷ, chúng ta đi thôi, lúc khác sẽ có dịp luyện kiếm với Nghiêm tướng quân. Hôm nay nể Nghiêm tướng quân, chúng tôi mở đường cho Nhâm Diên đi. Lực lượng Đào Kỳ chỉ có non 100 người, mà quân của Nhâm Diên tới hơn 1.000, rõ ràng nó đang lâm nguy, nhưng nó làm như nể Nghiêm Sơn, mở đường cho y đi. Kể ra Nghiêm Sơn chỉ cần phất tay, trong chốc lát là chị em Đào Kỳ lâm nguy. Một mặt chàng muốn về cứu phủ Thái– thú, một mặt chàng không muốn gây thù hận với Thiều Hoa. Chàng hướng vào Thiều Hoa hành lễ: – Hoàng cô nương, hẹn ngày tái ngộ. Đào Kỳ gọi lớn: – Khoan! Y nhảy lại bên Thiều Hoa, phát một chiêu trên mái tóc sư tỷ, rút lấy cành hoa đào bằng vàng. Nó nói với Nghiêm Sơn: – Nghiêm đại ca, em tặng anh món này, bắt lấy. Nó phóng cành hoa đào đến trước mặt Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn bắt lấy mà mặt nóng bừng lên, nhưng chàng không quên liếc Thiều Hoa một lần rồi mới đi. Đội quân Hán đi rồi, Thiều Hoa dơ tay tát Đào Kỳ một cái. Đào Kỳ cười ha hả tránh khỏi: – Oàé! Trời ơi, đất ơi! Sư tỷ đánh ông mai à? Thiều Hoa dậm chân nói: – Sư đệ, ta mách với sư phụ đánh cho ngươi 100 roi về tội này. Đào Kỳ nghiêm nét mặt lại: – Sư tỷ, chị không hiểu được ý em ư? – Hiểu gì? – Thôi được rồi, đợi gặp bố, mẹ, đại sư ca em sẽ nói. Bây giờ chúng ta đến cảng Bắc để lên đường. Đoàn người tiến ra phía bờ bể, men theo lên phía Bắc, nhưng tới cảng Bắc thì thấy xác quân Hán nằm la liệt, gươm đao, vũ khí rãi rác trên mặt đất, doanh trại cháy thành than đỏ rực. Thiều Hoa nhặt một thanh đao gẫy lên coi: – Này tiểu sư đệ, đao này của Đinh gia. – Như vậy bố, mẹ đã cứu được cậu rồi, chúng ta biết chắc bố, mẹ, cậu, đoàn thuyền đại sư ca, đoàn của anh cả, anh hai đều lên đường ra Bắc. Vậy chỉ còn đoàn của chúng ta mắc kẹt. Còn nhị sư ca hiện ra sao? Việc trước mắt là quan quân truy nã chúng ta rất gắt, chúng ta cần theo bờ biển đi về phía Bắc, để tìm thuyền lên đường. Có tiếng rên từ trong bụi rậm vọng ra, Hoàng Thiều Hoa chạy lại xem. Nàng la lớn lên: – Nhị sư ca! Nhị sư ca! Đào Kỳ cùng mọi người chạy lại, thì thấy nhị sư ca Trịnh Quang mình đầy thương tích đang nằm đó rên. Thiều Hoa xé vạt áo băng bó cho sư huynh. Trịnh Quang chỉ còn thoi thóp thở, không nói được gì, chân tay cũng không cử động được. Đào Kỳ tự nghĩ: – Chắc nhị sư huynh đón gia đình đi cùng với bố, mẹ trong cuộc chiến đấu bị thương, lạc tại rừng này. Một nữ đệ tử ngoại đồ tên Nguyễn Tường Loan, lắc đầu, chau mày, tỏ ý nghi ngờ. Đào Kỳ hỏi Tường Loan: – Không biết sư tỷ có cao kiến gì? Tường Loan kéo Kỳ ra một chỗ nói: – Có nhiều điều hơi khác lạ. Võ công nhị sư huynh rất cao, nếu bị thương thì phải do vũ khí hoặc quyền, chưởng của cao thủ mới làm sư huynh mê man đến nằm ngất đi. Đây sư huynh không có những vết thương trí mạng bằng vũ khí, mà chỉ có những vết thương bằng quyền cước ngoài da, mà đến nỗi nói không ra lời, đó là điều lạ lùng. Nhị sư huynh về đón gia đình cùng đi với tên mã phu Nguyễn Ngọc Danh, vậy gia đình đâu? Danh đâu? Đào Kỳ bảo Tường Loan: – Đợi gặp sư phụ, sư mẫu rồi tính. Hoặc đợi vài ngày nhị sư huynh tỉnh dậy sẽ nói cho chúng ta biết. Bây giờ đi kiếm thuyền đã. Một gia nhân nói: – Vấn đề tìm thuyền cho 100 người cũng không khó, khó là gạo, nước, lương thực từ đây ra Bắc. Bây giờ đang mùa mưa Ngâu, sóng biển rất lớn, nhất là cửa Thần-phù dễ gì vượt qua nổi? Đối với vấn đề địa lý thì Đào Kỳ mù tịt, nó không hiểu cửa Thần-phù là gì. Nó hỏi người gia nhân: – Cửa Thần-phù là gì? Người đó nói: – Quê đệ ở cửa Thần-phù nên biết rõ. Ở đó có mấy con sông đổ qua, quanh năm gió thổi, nước xoáy thành tròn. Một con thuyền đinh to lớn, đi qua, xoáy cuốn một cái, thuyền quay tròn, bị lôi chìm xuống đáy. Bởi vậy có câu ca: Lênh đênh qua cửa Thần-phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Câu này có nghĩa rằng qua cửa Thần-phù chỉ người nào phúc đức mới sống được mà thôi. Nguyên Đào gia trang thu nhận đệ tử có hai loại: Bắt đầu tất cả đều là ngoại đồ, học võ, học văn giống nhau. Nhưng những người có năng khiếu, ngộ tính cao thì được thu nhận làm nội đồ. Ngoại đồ thì xếp hạng theo tuổi mà gọi nhau. Còn nội đồ thì xếp hạng ai nhập môn trước là sư huynh. Đào hầu có ba con trai, không xếp theo thứ tự đệ tử, mà xếp tuổi. Bởi vậy Đào Kỳ luôn luôn là tiểu sư đệ. Còn gia nhân trong nhà, cũng đều được đối xử và xưng hô như đệ tử. Đoàn người đi đến sáng thì tới một cửa sông nhỏ. Thuyền đánh cá đêm đã trở về đầy bến. Hoàng Thiều Hoa bàn: – Bây giờ chúng ta lên bến kia mua thuyền, gạo, nước rồi lên đường. Đào Kỳ ngửa tay: – Sư tỷ cho tiền. Luật lệ Đào gia trang không cho những đệ tử, con cái dưới 16 tuổi giữ tiền, nên trong người Đào Kỳ một đồng cũng không có. Bấy giờ tiền Cửu-chân sử dụng là tiền Hán, đúc bằng đồng, trên mỗi đồng tiền có niên hiệu của năm đúc. Những loại tiền thông dụng là Kiến-nguyên thông bảo, Chính-hoà thông bảo, Hồng-gia thông bảo, Nguyên-thủy thông bảo. Cứ một trăm đồng ăn một lượng bạc, và mười lượng bạc ăn một lượng vàng. Ghi chú của thuật giả Kiến-nguyên thông bảo, tiền đúc vào niên hiệu Kiến-nguyên thời Hán Vũ đế (140 – 135 trước Tây lịch). Chính-hoà thông bảo, tiền đúc vào niên hiệu Chính– hoà đời Hán Vũ đế (92 – 88 trước Tây lịch). Hồng-gia thông bảo, tiền đúc vào niên hiệu vua Thành đế nhà Hán (20 – 16 trước Tây lịch). Nguyên-thuỷ thông bảo, tiền được đúc vào niên hiệu vua Bình đế nhà Hán (1 – 6 sau Tây lịch). Thiều Hoa điều khiển cuộc di chuyển của gia đình, tiền bạc nàng đều giao cho người khác giữ. Trong người chỉ có một nén vàng 10 lượng và mấy trăm đồng tiền. Nàng móc ra đưa cho Kỳ: – Em đi mua thuyền đi. Dầu sao Đào Kỳ chỉ là đứa nhỏ, không thông thế tục, nó dụt tay lại: – Sư tỷ đi mua đi, em đi theo. Chứ em có biết mua đâu. Trong đám đệ tử đi theo Hoàng Thiều Hoa hầu hết là gái, có nhiều người thông thạo chợ búa. Một người bảo Đào Kỳ: – Tiểu sư đệ, chị đi với em. Người đó là Tường Loan. Loan võ không giỏi, nhưng tuổi đã trên 20, nguyên xuất thân là con nhà buôn, nên thạo thế tục. Đào Kỳ bảo Thiều Hoa: – Sư tỷ, chị dẫn anh em vào khu vườn hoang kia ẩn náu. Đợi chúng em mua xong sẽ ra. Loan dẫn Kỳ đến xóm chài. Dân xóm chài thấy hai người mặc quần áo sạch sẽ, lưng đeo bảo kiếm, thì biết là người hào kiệt. Đào Kỳ thấy ông lão khoảng 70 đang ngồi nhìn trời, mắt như mơ màng một chuyện gì. Y tiến tới chắp tay hành lễ: – Cháu kính chào bác. Ông lão nhìn Loan, Kỳ, đầu đầy nghi vấn hỏi: – Hai cháu chắc từ xa đến? Đào Kỳ đáp thực: – Chúng cháu từ phương Nam tới đây. Ông lão gật đầu, chỉ vào trong nhà: – Hai cháu đói lắm rồi, vào nhà kiếm tí xôi ăn đi. Đào Kỳ thấy ông lão hiện ra vẻ thiện cảm, không do dự nó đi theo sau. Ông lão chỉ xuống bếp: – Cháu nhìn xem có gì lạ không? Đào Kỳ liếc mắt nhìn, thấy trong bếp có khoảng bảy, tám người đàn bà đang nấu bảy, tám nồi cơm lớn. Một số người đang chặt những con cá khô thành miếng nhỏ. Tường Loan hỏi ông cụ: – Thưa cụ, chắc nhà sắp có việc làm đồng, hoặc làm rẫy lớn, nên chuẩn bị nấu cơm, nướng cá khô? Ông cụ lắc đầu. Thình lình cây gậy của ông đánh vụt vào đầu Tường Loan. Nàng nhảy lùi lại tránh, nhưng cây gậy của ông lượn theo đánh vào ống chân bên trái. Tường Loan lộn đi một vòng tránh khỏi. Nhưng nàng vừa nhảy xuống đất thì cây gậy lại dí vào cổ nàng. Nàng định tránh, nhưng đã đến chân tường. Đành đứng im la lớn: – Tiểu sư đệ, phát chiêu đi. Nhưng Đào Kỳ ngồi im trên phản bốc xôi ăn, miệng cười toe toét. Tường Loan giận quá la lớn: – Tiểu sư đệ, cứu ta với! Đào Kỳ bốc xôi, bóc chuối ăn: – Cụ cho em ăn xôi, chuối, và giảo nghiệm võ công sư tỷ, tại sao em phải cứu sư tỷ? Ông cụ cười, thu gậy lại: – Cô là ngoại đồ của Đào gia phải không? Còn cậu bé kia chắc là con út của Đào tiên sinh. Tường Loan chắp tay vái: – Cháu có mắt như mù, không biết cụ là bậc tiền bối. Ông cụ cười vẻ tha thứ: – Cô không tránh được ba chiêu trượng pháp của ta, thì ta biết cô là ngoại đồ. Còn cậu bé này, thấy ta ra chiêu mà biết ngay là ta đùa cợt, nhận ra võ công bản môn. Thế thì cháu phải là con cháu Đào gia mới đúng. Đào Kỳ chắp tay hành lễ: – Chúng cháu khép nép kính cẩn nghe cụ dạy bảo. Ông lão vuốt râu cười: – Ta là Phạm Bách, ngoại đồ đời trước của Đào trang, so vai vế, ta là sư huynh của sư phụ cháu. Tường Loan, Đào Kỳ lạy thụp xuống đất hành lễ: – Chúng cháu ra mắt Phạm sư bá. Kính chúc sư bá vạn thọ. Ông cụ thở dài: – Đêm qua ta thấy lửa cháy ở phương Nam, có tiếng trống trận, tiếng ngựa hí, ta biết rằng Thái-thú đã ra tay. Mà Thái-thú ra tay, thì không thể diệt Đào gia, Đinh gia thì làm gì đây? Ta biết dù Đào, Đinh có tài vũ dũng đến đâu, nhân số cũng chưa tới nghìn người, làm sao địch lại một vạn rưỡi quân của huyện Cửu-chân, lại thêm kỵ binh Giao-chỉ trên năm nghìn người do Thái-thú Giao-chỉ tăng viện tháng trước cho Nhâm Diên? Bởi vậy ta liệu thế nào người Đào, Đinh trang cũng chạy qua đây, nên nấu cơm, nướng cá khô sẵn để tiếp tế. Cuộc chiến ra sao, các cháu nói cho ta nghe. Tường Loan tường thuật hết tự sự. Phạm Bách thở dài: – Từ lâu rồi, ta đã biết Thái-thú muốn tiêu diệt hết những hào kiệt Cửu-chân ta. Cái thế ta với Hán không thể cùng đứng. Ta không đánh họ, họ cũng diệt ta. Chi bằng đánh để chết cho thoả chí. Thế là quận Cửu-chân có bao nhiêu thế lực đều bị giết hết. Hán đế lo nhất là vùng Cửu-chân, Giao-chỉ, còn các vùng khác, y không quan tâm. Nay Cửu-chân, Đào, Đinh trang bị đánh thì đất Lĩnh Nam như rắn mất đầu, không ai dám nghĩ đến phản Hán phục Việt nữa. Ông thở dài rồi nói tiếp: – Giờ, ta đề nghị, các cháu chia ra toán năm người, toán bảy người, ngày mai làm dân tải muối đi bán đến vùng Lệ-hải ẩn thân. Còn ta với mấy cháu đi các nơi dọ xét xem sao đã. Các cháu nghĩ sao? Bởi hiện giờ họ Cao, giòng dõi Cao Nỗ xưa đang hùng cứ vùng núi Côi, chúng ta có thể tới đó nương nhờ. Đào Kỳ thưa: – Phạm sư bá đã dạy vậy, chúng cháu xin tuân lệnh. Tường Loan dẫn mấy người nhà họ Phạm mang cơm vào rừng hoang cho anh em ăn, nói rõ chủ ý của Phạm Bách. Mọi người đều đồng ý. Đêm đó mọi người ngủ trong hoang sơn. Đào Kỳ tuy võ công cao, kiến thức rộng, nhưng bản chất vẫn là đứa trẻ 13. Nó là con út, được bố mẹ cưng chiều, sống trong nhung lụa đã quen, bây giờ xảy ra biến cố, nhà tan, cửa nát. Bố mẹ, các anh không biết phiêu bạt nơi nào, lại phải nằm ngủ trong rừng. Nó ôm mặt thút thít khóc. Hoàng Thiều Hoa cũng tủi thân không ít, nhưng hiện trên trăm người, vừa sư huynh, vừa sư đệ, vừa tráng đinh, thì Trịnh Quang là sư huynh của nàng, có địa vị cao nhất, mà y bị thương mê man, vì vậy nàng phải điều động tất cả. Thấy Đào Kỳ khóc, nàng lại bên cạnh ôm nó vào lòng, lấy vạt áo lau nước mắt cho nó. Nàng dỗ một lúc nó mới chịu ngủ. Sáng hôm sau mọi người thức giấc thì không thấy Tường Loan, vội đổ xô đi tìm, thì thấy xác nàng nằm dưới chân đèo, mình đầy thương tích, giống như trượt chân ngã. Thiều Hoa lại nắm tay xem mạch, thì Tường Loan chết rồi. Mọi người vào sinh ra tử, cả đoàn chỉ có mấy người bị thương, mà nay họ đã thoát khỏi hiểm nguy, tưởng được yên thân, thì Tường Loan bị trượt chân ngã mà chết. Các nữ đệ tử bưng mặt khóc thảm thiết. Thiều Hoa ôm xác Tường Loan lại một hang đá, đặt vào trong đó, rồi sư huynh, đệ dùng đá lấp lại. Nàng lấy kiếm khắc mấy chữ ở cửa hang: "Đào gia Nguyễn Tường Loan, tuẫn quốc tại chỗ này".