Beatrice tỉnh dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng cô vẫn nằm cuộn người trên ghế nệm dài một lát vì cô cảm thấy chuyện xảy ra quá bất thường, rồi cô cảm thấy nhức đầu, cơ thể đau nhừ, nhất là hai tay và hai mắt cá chân. Từ từ, cô ta lồm cồm ngồi dậy, thấy mình đang ở trong phòng khách, ngọn đèn chùm thắp dầu hoả vẫn còn cháy sáng. Có chuyện gì đã xảy ra, phải không? Rồi, như thể cánh cửa của tâm trí vừa được mở ra, lấn lướt những chuyện vừa xảy ra hồi hôm hiện lên trong óc cô, cả một chuỗi hình ảnh hiện rõ trước mắt cô, hình ảnh nầy kế tiếp hình ảnh kia. Cô đã giết John. Chân cô đạp trúng vào giữa lưng anh ta. Ôi, việc ấy đã làm cho cô vui sướng, hớn hở khi thấy anh ta nằm dài trên nền nhà, máu chảy lai láng. Rồi trong lúc cô đang hân hoan sung sướng, bỗng có kẻ lạ nhảy xổ vào cô, trói cô lại, khiến cho niềm vui tiêu tan. Thình lình cô đưa tay lên miệng vì cô nhớ người đàn bà kỳ lạ kia đã nhét sô cô la vào miệng cô để cô nuốt mấy viên thuốc. Mấy viên thuốc ấy là thuốc ngủ, vì thế cô mới ngủ lâu như thế nầy. Nhưng tại sao Frances không đưa cô lên lầu và tắt đèn ở đây? Beatrice đứng dậy khỏi ghế nệm dài, lảo đảo ra khỏi phòng khách, vào tiền sảnh. Họ đâu hết? Các gia nhân đâu cả rồi? Ồ, trời còn sớm. Phải, trời còn sớm. Nhưng cô phải thúc họ dậy mới được. Phải thúc chúng dậy. Cô cần cái gì để uống. Cô khát. Cô vào nhà bếp, vẫn lảo đảo như người say, trong nhà bếp, lò lửa lạnh tanh. Cô ra khỏi phòng, miệng gọi lớn: - Chị bếp ơi! Chị bếp! Chị bếp ơi! - Không có tiếng trả lời, cô đi đến khu gia nhân ở, cửa ở đây mở toang và qua ánh sáng lờ mờ của trời rạng đông, cô thấy các phòng trống không, các hộc tủ mở toang. Cô trở lại tiền sảnh, đi quanh một vòng, rồi dừng ở chân cầu thang, nhìn vào mặt ván sàn láng bóng, rải rác có những đám bẩn đen. Cô cúi xuống nhìn vào một đám bẩn lớn, đưa tay sờ vào đấy, máu khô, bỗng cô cảm thấy hân hoan vui sướng. Cô đã giết chết anh ta! Tốt, cô biết thế nào cô cũng giết được anh ta. Anh ta đã chết trong nhà cô. Cô không biết người ta đem anh ta đi khi nào, nhưng cô biết anh ta đã chết khi nhìn vào mặt anh, khi nhìn cách nằm chòe queo của anh, và nhìn máu chảy ra lai láng trên nền nhà, máu chảy ra từ cơ thể của anh, cơ thể mà anh không muốn dành cho cô. Và bây giờ vì cô đã giết anh, thế nào người ta cũng đến bắt cô đi. Thế nào họ cũng nói cô điên. Ờ, mà cớ lẽ cô điên thật. Nhưng không đến nỗi quá điên khiến cho họ đi đến chỗ quyết định cuộc đời của cô. Đời cô là của cô, và nhà nầy là của cô. Ôi, phải rồi, nhà nầy là của cô. Nhưng khi cô chết đi, nhà nầy sẽ ra sao? Vì anh ta sẽ không được thừa hưởng, phải không? Không. Nhưng em gái thì được. Ôi, phải, phải, Helen thân yêu của cô sẽ được hưởng. Nghĩ đến chuyện nầy, bỗng cô chạy lại phòng khách, ngồi phịch xuống ghế nệm dài, đấm tay thình thịch lên mặt nệm, miệng la lớn: - Không! Không! Không bao giờ! Không bao giờ! - và Helen sẽ làm gì? Cô ta thừa biết cô rất yêu ngôi nhà, cho nên Helen sẽ rất khoái trá cứ bán các đồ đạc đẹp đẽ trong nhà, rồi bán luôn cái nhà; hay biến ngôi nhà thành chung cư để cho dân nghèo thuê; hay… Beatrice đứng lên, chạy từ phòng nầy sang phòng khác: phòng ăn, phòng làm việc, phòng chơi bi da, phòng hút thuốc, phòng nầy của bố cô, là phòng thiêng liêng không ai xâm phạm được. Cô lặp lui lặp tới trong miệng: Phòng hút thuốc, phòng hút thuốc, vừa đâm đầu chạy lên cầu thang vào phòng ngủ, đến đây đừng lại thở hổn hển, tay vịn vào thành giường. Cô toát mồ hôi. Cô muốn cơ thể mát mẻ. Cơ thể cô muốn để tự do. Tự do. Cô cởi hết áo ra cho đến khi chỉ còn áo lót trên người, rồi nhìn đống áo quần, cô nói: - Xong, thế là xong, nhưng trước hết phải đóng hết cửa chớp. Cô chạy xuống thang lầu, và bắt đầu từ phòng khách cô kéo mạnh để hạ những tấm cửa chớp xuống, những cánh của nầy đã được đẩy sang một bên, ép sát vào khung cửa sổ lồi ra ngoài. Chúng được để yên như thế nhiều năm nay, không được kéo ra, và bây giờ sau khi kéo xong ba cái cửa sổ đóng kín lại, cô thở hồng hộc vì mệt. Cô mất nửa giờ để đi đóng hết cửa chớp khắp các phòng ở tầng dưới. Chỉ có hai cửa sổ ở nhà bếp không có cửa chớp, và cửa sổ nào ở đây cũng đều có chấn song ở phía bên ngoài. Chỉ có những khe hở nơi cái cửa chớp mới để lọt ánh sáng bình minh vào nhà, còn ngoài ra toàn thể tầng dưới đều tối tăm, ngoại trừ phòng khách, ngọn đèn dầu ở đây vẫn còn cháy sáng. Cô đến ngồi ở tầng cấp thứ ba của thang lầu, ôm hai đầu gối như con nít thường làm, như thể cô vừa làm xong một công việc cực kỳ quan trọng. Rồi cô cất tiếng cười; nhưng tiếng cô không phải là tiếng cười trẻ thơ, vì cô hét lên trong đầu mình rằng cô sẽ làm cho họ điên đầu lên, làm cho mọi người nổi điên lên hết, nhất là nó. Nó sẽ không hưởng được cái nhà nầy, ngôi nhà xinh đẹp của cô, đứa con của cô. Ngôi nhà nầy mãi mãi là con của cô: khi cô còn nhỏ, ngôi nhà là nhà của búp bê của cô. Khi khôn lớn, mẹ mất, cô đã đạt được mục đích, và từ bấy đến nay, cô đã chăm sóc ngôi nhà với niềm tự hào. Ngôi nhà của cô và mãi mãi là của cô. Ngôi nhà sẽ không bao giờ thuộc về em gái cô, người mà cô không ưa khi còn tuổi vị thành niên, và cô ghét khi vào tuổi trưởng thành. Bỗng cô đúng dậy, bước xuống tiền sảnh. Cô cảm thấy vui, cô muốn khiêu vũ. Độ gần đây, cô thỉnh thoảng có nhảy múa. Phòng ngủ chật hẹp tù túng, nhưng ở dưới nầy có nhiều phòng. Nhưng chưa nhảy múa được. Còn có việc cô phải làm đã. Cô chạy vào nhà bếp. Gia nhân cất dầu hoả đâu đây. Phải rồi, nhớ rồi, trong phòng để giầy ống; chất cháy nầy để cất ở đây cho kín, dùng để khắp đèn. Cái thùng còn đầy, nặng trịch, nhưng cô xoay xở mang được ra bếp và nhấc lên để trên bàn. Cô đến bệ lò sưởi lấy hai cái bình nước bằng đồng có miệng rộng, đổ dầu hoả trong thùng ra đầy hai bình. Rồi vui vẻ như xách hai bình rượu bia, cô ra phòng khách, tưới dầu hoả lên màn che cửa sổ, cô đi từ cửa sổ nầy sang cửa sổ khác. Làm xong, cô tưới lên ghế cái ghế nệm dài, lên cái ghế bành. Cô làm như thế khắp các phòng khác, không quên ngôi nhà phụ. Ôi, cô tưới lên ngôi nhà phụ rất nhiều dầu. Bình dầu cuối cùng, cô tưới lên cầu thang lầu và lên màn ở phòng ngủ. Cô đã khoá hết cửa chưa nhỉ? Rồi. Khi cô đi xuống nhà dưới lại, trời vẫn chưa sáng hẳn, rồi bắt đầu từ nhà phụ, cô châm lửa; sau đó cô đi từ phòng nầy sang phòng khác, châm lửa, và cả nhà bắt đầu sáng rực lên: Cuối cùng, cô chạy băng qua những đám khói lửa kỳ lạ để lên lầu, vào phòng ngủ: Cô cởi hết đồ lót ra, rồi tháo giầy tháo vớ. Xong, cô vung hai tay lên đầu, nhảy múa quanh phòng. Bỗng cô đứng lại trước tấm gương soi lớn, nhìn bóng mình trong gương, cô giang tay ra trước và la lên: - Thân hình đẹp, trẻ trung như thế nầy mà anh ta không muốn, phải không? Đáng ra mình nên hiến cho thiên hạ mới phải. Y như bà Wallace. - Lạ thay bỗng cô cảm thấy không thù hận gì mụ đàn bà kia mà lại cảm thấy ghen tỵ nữa chứ. Và cô không muốn bị lôi đi như bà cô Ally. Cô để hai tay lên đầu, lắc lư múa; bỗng cô muốn ho, rồi cô khóc thút thít, nói một mình: - Tôi lạnh, tôi phải mặc áo ngủ mới được. Cô bước đến giường để lấy áo ngủ, nhưng chưa kịp lấy thì ngôi nhà rung lên vì một tiếng nổ lớn. Cô bị nhấc bổng lên, rồi bị văng đến nằm trên nền nhà dưới cửa sổ. Khi Robbie trở về với đội cứu hoả, ngôi nhà đã bị cháy từ đầu cho chí cuối, Rosie và Tom Needler đứng bất lực gần đấy. Khi ông chỉ huy đội cứu hoả từ trên xe nhảy xuống, Rosie chạy đến, vừa khóc nức nở vừa nói lớn với ông ta: - Chị… chị tôi trong ấy. Chắc chị ấy ở trong nhà. Xin ông làm ơn cứu giúp. Xin ông làm ơn! - Được rồi! Thưa cô, được rồi! - Ông ta nhìn ngôi nhà lắc đầu. - Chúng tôi sẽ làm những gì, có thể làm được. Ngày hôm sau, khi ngôi nhà còn âm ỉ cháy, người ta tìm ra thi thể của Beatrice dưới cửa sổ phòng ngủ. Cô ta nằm lẫn trong một số xà nhà bị cháy thành than. Báo chí đăng hàng tít lớn, tường thuật chuyện bi thảm của người chồng và người vợ. Người phóng viên, ngoài việc tường thuật vụ cháy cặn kẽ, còn tiết lộ một tin rất hấp dẫn là trong lúc ngôi nhà cháy, Bác sĩ Falconer đang nằm bán sống bán chết ở bệnh viện.