Đang nói chuyện hôm ấy Tống Giang vào trong trướng nghị bàn việc quân, các tướng đứng vòng tay chờ lệnh. Những quân sĩ giữ việc bắn pháo hiệu, đánh chiêng trống, vẫy cờ cùng đầu mục chỉ huy các doanh lần lượt đến dưới trướng xếp hàng chỉnh tề chờ nghe hiệu lệnh. Sau một hồi trống điểm, quan tuyên lệnh đọc chiến lệnh xong, các đầu lĩnh chỉ huy các trại đều lần lượt cúi đầu nghiêng mình nhận lệnh, rồi đứng xếp hàng hai bên. Quân tuần tra giũ cờ xanh quỳ nghe lệnh:- Những ai hò reo không đều, hàng ngũ lộn xộn, làm ồn ào, ra trận chần chừ không tiến đều phải bắt về nghiêm trị. Các viên kỳ bài tả hữu mỗi bên hai mươi người, Tống tiên phong đích thân ra lệnh:- Các ngươi trở về doanh trại đốc thúc quân sĩ ra trận, kẻ nào chần chừ lui bước không nghe lệnh thì cứ bắt về trị tội. Các viên kỳ bài tuân lệnh, ai nấy trở về bản doanh nổi hiệu chiêng trống, sắp xếp đội ngũ đợi lệnh lên đường. Sau cùng Tống Giang truyền lệnh cho các đầu lĩnh thủy bộ, đợi kèn nổi hiệu lần thứ nhất chỉnh điểm đội ngũ, lần thứ hai giương cờ, lần thứ ba các đội quân tiến ra khỏi trại lên đường ra trận. Chiêng trống nổi vang, cờ ngũ phương phấp phới, đại pháo nổ rung trời. Đúng là:- Vang trời chiêng nổi rung đầu núi Rực đất cờ bay át quỷ thần.Lính thủy quân Tưởng Sĩ Văn, Nhân Thế Sùng đã sai đi xa, Vương Khánh giao cho Lưu Dĩ Kính, nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Vân An làm chánh tiên phong, giao cho Thượng Quan Nghĩa nguyên là đô giám chỉ huy quân mã châu Đông Xuyên làm phó tiên phong; thống quân châu Nam Phong là Lý Hùng và Tất Tiên chỉ huy cánh quân bên tả; thống quân châu An Đức là Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy cánh quân bên hữu; giao cho thống quân đại tướng Đoàn Ngũ chỉ huy đội hậu quân; ngự doanh sứ Khâu Tường làm phó chỉ huy; giao cho quan khu mật Phương Hàn làm vũ dực đội trung quân. Vương Khánh đích thân thống lĩnh đội trung quân, dưới quyền có nhiều ngụy quan thượng thư, ngự doanh kim ngô, vệ giá tướng quân, hiệu úy và bọn tướng tá giúp rập, tất cả đến mấy chục tên. Lý Trợ được phong làm nguyên súy. Đội quân người ngựa mười phần chỉnh tề, Vương Khánh tự mình đốc suất và giám chiến. Tướng sĩ đeo đai khoác giáp lên ngựa, quân sĩ giương cung kéo dây, nghe ba hồi trống lệnh tất cả đều rời trại xuất phát.Quân tiến chứa đầy r~lười dặm, từ xa trong đám bụi mù đã thấy đội tiền tiêu bên quân Tống tiến đến mỗi lúc một gần, tiếng đạc ngựa mỗi lúc một rõ, thấp thoáng chừng hơn ba chục quân thám mã, tất cả đều chít khăn chóp xanh, phía sau cắm lông trĩ, mặc áo màu lục, bờm ngựa tết tua hồng, hai bên hông đeo vài chục chiếc lục lạc, tay cầm giáo dài sáng quắc, vai đeo cung tên nhẹ. Viên tướng đi đầu là Hổ kỵ tướng quân Một vũ tiễn Trương Thanh vừa được Đạo quân hoàng đế ban sắc mệnh cho được giữ chức cũ. Trương Thanh đầu quấn khăn chóp xanh giát vàng, mặc chiến bào xanh thẫm thêu hoa, thắt đai lụa màu tía, đi giày thơm da mềm, cưỡi ngựa yên mầu ánh bạc. Bên trái là Trinh Thuận nghi nhânQuỳnh Anh quận chúa, đầu đội mũ gió mầu tía giát vàng khảm ngọc, mặc chiến bào tía thêu hoa, thắt đai lụa nhiều màu, đi giày đỏ mui cong thêu hoa, cưỡi tuấn mã bờm trắng.Đi phía sau bên phải là Nghĩa bộc chánh bài quân Diệp Thanh.Đội tiền tiêu của Trương Thanh tiến thẳng tới quân Lý Trợ, cách chừng hơn trăm bước thì ghìm ngựa quay về. Bên quân Vương Khánh, tiên phong đội tiền quân Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa giật ngựa đuổi đánh. Trương Thanh lao ngựa đến, nâng ngọn thương bạch lê hoa chặn đánh Trương Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa. Quỳnh Anh múa cây phương thiên họa kích thúc ngựa ra trợ chiến. Bốn tướng quần thảo hơn mười hiệp. Trương Thanh, Quỳnh Anh đỡ gạt mấy đường rồi quay ngựa chạy. Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bèn thúc ngựa đuổi theo, quân tả hữu gọi lớn:- Tiên phong chớ đuổi theo? Hai người ấy có túi đá sau yên ngựa, thường vẫn ném trăm phát trăm trúng.Lưu Dĩ Kính, Thượng Quan Nghĩa nghe vậy bèn ghìm ngựa lại Vừa lúc ấy từ phía sau núi Long Môn tiếng trống trận nổi vang rồi năm sáu trăm quân bộ xông ra. Bốn tướng đi đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ. Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ.Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn phăng phăng dẫn đoàn quân ập tới. Năm sáu trăm quân bộ dàn hàng chữ nhất dưới chân núi, quân đao thuẫn đứng hai bên.Khi quân giặc đánh tới, Lý Quỳ, Phàn Thụy liền chia quân làm hai cánh, tất cả đều chúc khiên xuống đất, đi vòng ra sau núi. Đại quân của Vương Khánh và Lý Trợ vừa tiến đến, thấy bóng quân Tống liền đuổi gấp. Bọn Lý Quỳ, Phàn Thụy thúc quân chạy như bay lên núi, vượt đèo, xuyên rừng rồi mất hút.Lý Trợ truyền lệnh cho quân sĩ dàn thế trận trên khoảng đất bằng dưới chân núi. Bỗng từ phía sau núi tiếng pháo nổ vang, một đội quân mã do ba viên tướng dẫn đầu từ phía nam phi nhanh tới:- Chính giữa là Nụy cước hổ Vương Anh, bên trái là Tiêu úy Trì TônTân, bên phải là Thái viên tử Trương Thanh. Ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã cắt đường ruổi đến. Vương Khánh định sai tướng thủ hạ tiến lên đón đánh, bỗng lại nghe một tiếng pháo nữa nổ vang, rồi từ phía bắc một đội quân mã khác vùn vụt lao tới, đi đầu là ba nữ tướng:- Chính giữa là Nhất trượng thanh Hỗ Tam Nương, bên trái là Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, bên phải là Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương, ba tướng thống lĩnh năm nghìn quân mã vừa đuổi gấp tới thì gặp cánh quân giặc bên phải do Liễu Nguyên và Phan Trung chỉ huy chặn lại. Quân của bọn Vương Anh cũng bị cánh quân giặc bên trái do Lý Hùng, Tất Tiên chỉ huy chặn đánh. Các tướng đôi bên đánh nhau hơn mười hiệp thì ở cánh qu tây đợi quân giặc kéo đến. Chẳng bao lâu quân giặc ở Củng Châu do bọn Xúy Tam Tư và Nghê Tập chỉ huy, dưới cờ có hơn mười viên phó tướng, hiên ngang hùng hổ đem quân tiến đến dưới thành. Bọn Tam Tư, Nghê Tập thấy cổng thành mở toang, trên lầu thành có ba viên quan và một viên tú tài đang ngồi uống rượu, xung quanh đàn sáo nổi vang, thướt tha gấm lụa, nhìn quanh bốn phía tịnh không thấy một bóng cờ. Xúy Tam Tư lấy làm lạ, không dám cho quân tiến lên. Nghê Tập nói:- Trong thành đã sẵn sàng nghênh chiến, chúng ta phải rút ngay kẻo bị trúng kế của địch.Xúy Tam Tư liền ra lệnh lui quân. Bỗng nghe trên lầu thành một tiếng pháo nổ vang, rồi quân sĩ bốn phía hò reo vang trời, chiêng trống dậy đất. Không biết bao nhiêu cờ to, cờ nhỏ di động qua lại phía trong tường thành. Quân lính nghe hai vị chủ tướng nói chuyện với nhau đã lấy làm nghi ngờ kinh sợ, bây giờ lại càng hoảng hốt, không đánh mà rối loạn. Từ trong thành Tuyên Tán và Hách Tư Văn nhanh chóng dẫn quân đánh thốc ra. Quân giặc đại bại, vứt bỏ cờ xí, chiêng trống, giáo mác, ngựa chiến, giáp trụ nhiều vô kể, số bị chém đầu đến hơn một vạn tên. Xúy Tam Tư và Nghê Tập đều bị loạn quân giết chết. Quân sĩ còn lại tán loạn tìm đường chạy trốn. Tuyên Tán, Hách Tư Văn đắc thắng thu binh dẫn quân về thành. Trần an phủ trước đó đã trở về súy phủ.ở phía bắc, bọn Hoa Vinh, Lâm Xung đã giết được hai tướng Khuyết Chữ và ông Phi, đánh tan quân giặc từ Quân Châu kéo đến, chỉ riêng Mi Sảnh trốn thoát. Bọn Hoa Vinh thắng trận đem quân trở về, khi sắp vào thành thì nghe tin quân giặc từ hai đường đánh tới:- Giặc ở phía tây trúng kế Tiêu Nhượng đã phải rút lui, còn giặc ở phía nam thì bọn Lã Phương, Quách Thịnh đang chặn đánh, chưa biết thắng bại ra sao. Bọn Hoa Vinh liền truyền lệnh cho quân sĩ ruổi ngựa tiến gấp về phía nam. Bấy giờ Lã Phương và Quách Thịnh đang hợp sức giao chiến với tướng giặc. Lâm Xung, Hoa Vinh thấy vậy liền thúc ngựa đến hỗ trợ. Quân giặc bị đánh tan số bị chém đầu tại trận và bắt sống nhiều không đếm xuể.Như vậy trong ngày hôm ấy cả ba cánh quân của Vương Khánh bị chết đến hơn ba vạn tên. Số bị thương không tính hết, khắp nơi thây chết đầy đồng, máu chảy ngập ruộng. Các tướng Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh thu quân về thành, cùng với Tuyên Tán, Hách Tư Văn đến báo công trước trướng của Trần an phủ. Trần Quán, Hầu Mông, La Tiễn đều vui mừng khen ngợi diệu kế của Tiêu Nhượng, biểu dương anh em bọn Hoa Vinh dũng cảm anh hùng. Các tướng dạ ran, khiêm nhường không dám nhận. Trần an phủ sai bày tiệc lớn khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi công cho bọn Tiêu Nhượng, Lâm Xung, một mặt truyền lệnh cho quân sĩ giữ vững thành trì, chuyện không nói nữa.Lại nói Đoàn Nhị sai bọn Mi Sảnh đe ai quân ra khỏi thành, đêm hôm sau Đoàn Nhị đứng trên.lầu thành nhìn về phía quân Tống. Bấy giờ sắp đến rằm tháng tám, vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng như ban ngày. Đoàn Nhị thấy bên quân Tống các loại cờ hiệu di động lộn xộn, rồi từ từ lui về hướng bắc. Đoàn Nhị nói với viên phó tham mưu:- Có lẽ Tống Giang biết tin Uyển Châu nguy cấp nên đành rút lui.Phó tham mưu nói:- Hẳn đúng thế. Chúng ta phải điều ngay quân thiết kỵ ra ngoài thành đuổi đánh.Đoàn Nhị bèn ra lệnh cho hai tướng Tiền Tân, Tiền Nghi điều hai vạn quân mã đuổi theo quân Tống. Hai tưởng vâng lệnh đi ngay. Đoàn Nhị nhìn về phía tây, thấy dòng Tương Thủy ở ngoài thành lăn tăn lấp lánh ánh trăng, đoàn chiến thuyền bốn năm trăm chiếc cũng đi dần lên phía bắc. Đoàn Nhị ngày thường đã quen cướp phá, đêm nay thấy một đoàn thuyền lương đông như thế, lại không có thủy quân đi kèm, mỗi thuyền chỉ có chừng sáu bẩy tay chèo, bèn ra lệnh mở cửa sông phía tây thành, sai thủy quân tổng quản Chư Năng dẫn năm trăm chiến thuyền đuổi theo đoạt đoàn thuyền lương.Quân Tống thấy chiến thuyền của Đoàn Nhị tiến đến liền hạ lệnh cho thuyền ghé vào bờ, các thủy thủ đều nhẩy lên bộ.Vừa lúc đoàn thuyền của Chư Năng đến gần, bỗng nghe bên phía thuyền quân Tống tiếng phèng la nổi lên vang trời, liền đó hơn một trăm chiếc thuyền nhỏ, mỗi thuyền có hai người chèo, ba bốn người cầm thương giơ thuẫn, vun vút lao tới.Chư Năng ra lệnh cho thủy quân bắn hỏa pháo và tên lừa chặn đánh. Quân trên các thuyền nhỏ không chống cự nổi, kêu la inh ỏi rồi nhảy ào xuống nước. Quân giặc đắc thắng đoạt lấy đoàn thuyền lương. Chư Năng ra lệnh cho các thủy thủ đem hết số thuyền đó vào thành. Chiếc đi đầu vừa qua khỏi cửa sông thì có lệnh từng thuyền một phải khám xét, rồi mới được vào thành. Chư Năng sai quân khám xét chiếc thuyền đã qua cửa sông. Hơn mười tên lính nhẩy lên mở cửa thuyền nhưng không thể mở được vì cửa khoang đã bị đóng chặt bằng một tấm gỗ. Chư Năng cả sợ'nói:- Trúng gian kế của địch rồi!Nói xong ra lệnh đem búa đến phá chốt mở khoang thuyền.Một mặt ra lệnh:- "Những thuyền còn ở bên ngoài hãy thong thả chưa được vào". Chư Năng chưa dứt lời thì thấy bên ngoài ba bốn chiếc thuyền lương không có người chèo, nhưng dẫn theo dòng nước trôi nhanh như buồm gặp gió. Chư Năng biết bị mắc mưu, vội sai lôi ngay những thuyền ấy vào bờ. Đúng lúc ấy, từ dưới nước nhô lên hơn chục người, ai nấy đều ngậm dao lá răm ngang miệng. Đó chính là tám vị anh hùng thủy quân:- Lý Tuấn, hai anh em họ Trương, ba anh em họ Nguyễn, hai anh em họ Đồng. Chư Năng hạ lệnh cho quân sĩ cầm giáo đâm xuống, Lý Tuấn bèn đặt tay lên miệng huýt còi. Bấy giờ các đ~ u lĩnh quân bộ nấp trong khoang thuyền tay lăm lăm khí giới, bật cửa hò hét xông ra. Đấy là bọn hai mươi tám đầu lĩnh:- Bao Húc, Hạng Sung, Lý Cổn, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn) Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Vương Định Lục, Bạch Thắng, Đoàn Cảnh Trụ, Thời Thiên, Thạch Dũng, Lăng Chấn cùng hơn một nghìn quân bộ ào ạt nhẩy lên bờ, xông vào chém giết. Quân giũ thành không chống cự nổi, tán loạn tìm đường chạy trốn. Chư Năng bị Đồng Uy chém đn thiết kỵ. Quân mã của Đằng Kham đầu đội mũ sắt dầy, khoác giáp nặng, chỉ hở đôi mắt, ngựa chiến cũng khoác giáp, đeo mặt nạ, chỉ chừa bốn vó. Hôm qua Lý Hoài thấy nữ tướng bên quân Tống có tài ném đá rất lợi hại, đã sát thương một tướng bên mình, Lý Hoài nghĩ bụng hôm nay nếu xảy ra như thế thì dù có ném đá cũng chẳng làm gì nổi. Bấy giờ năm nghìn quân mã của Đằng Kham cứ hai tay cung thủ hỗ trợ một tên quân đánh giáo mà tiến đánh. Quân bộ đi theo sau chia làm hai cánh đánh ốp vào. Quân Tống chống cự không nổi, phải lùi về phía sau. Tống Giang vội truyền lệnh bắn pháo hiệu. Mấy trăm quân sĩ đẩy xe bị quân Lý Hoài bắn sát thương, may có nhữngchiếc xe ngựa chặn đường nên quân thiết kỵ của Lý Hoài không tiến lên được. Những xe phía sau tuy có ky binh đi kèm nhưng cũng không tiến lên được. Đang lúc nguy cấp bỗng nghe tiếng súng liên châu nổ vang sau núi, rồi bọn Lỗ Trí Thâm dẫn quân trèo núi vượt đánh xông lên.ở sơn trại của giặc chỉ có bốn nghìn tên già yếu, do một viên tướng chỉ huy, bị giết sạch không còn một mống. Anh em trí Thâm liền đoạt lấy sơn trại. Bọn Lý Hoài thấy sau núi òề biến vội cho quân lui về, bị hai cánh quân do bọn Hoàng Tính và Lý ưng đánh úp vào. Tống Giang lại lệnh cho các pháo thủ nhằm vào quân thiết kỵ của giặc mà bắn. Quân Lý Hoài thua lớn, tan rã bỏ chạy. Bọn Lỗ Trí Thâm, Lý Qùy mười bốn đầu lĩnh dẫn quân bộ từ trên núi đánh bạt xuống, quân giặc bị giết nhiều như ngả rạ, số sống sót tán loạn tìm đường bỏ chạy. Tiếc thay cho Viên Lãng là viên mãnh tướng giờ đây bị giết bởi làn đạn lửa? Lý Hoài chạy sau, bị Lỗ Trí Thâm giết chết, Mã Kinh, Đằng Kham bị giết trong đám loạn quân, chỉ một mình Mã Cương trốn thoát. Quân Tống Giang thu được giáp trụ, chiêng trống, ngựa chiến nhiều vô kể. Hơn ba vạn quân Lý Hoài chết trận đến quá nửa. Khắp nơi trên núi, dưới đồi từ thi chất đống. Tống Giang truyền lệnh thu quân, điểm lại quân sĩ mới biết thiệt hại đến hơn nghìn người.Bấy giờ cũng vừa lúc trời sắp tối, Tống Giang bèn cho quân đóng lại nghỉ ngơi ở phía bắc núi Kỷ Sơn. Ngày hôm sau Tống Giang dẫn tướng sĩ lên núi sai quân thu thập vàng bạc, lương thảo của bọn Lý Hoài, phóng hỏa đốt trại của chúng rồi khao thưởng ba quân tướng sĩ, ghi thứ tự công lao cho bọn Lỗ Trí Thâm mười lăm người và nữ tướng Quỳnh Anh. Xong việc, Tống Giang lại đốc suất quân sĩ lên đường. Vượt qua Kỷ Sơn, đại binh của Tống Giang dừng lại đóng trại cách thành Kinh Nam mười lăm dặm. Tống tiên phong bàn bạc với quân sư Ngô Dụng để sắp xếp điều khiển các tướng sửa soạn tiến đánh thành Kinh Nam. Chuyện ấy bất tất phải kể đến.Chuyện kể tiếp sau đây theo hai đường:- Hãy quay lại nói việc Lư Tuấn Nghĩa đem quân tiến đánh Tây Kinh, quân đi đến đâu bạt núi mở đường, bắc cầu qua sông suối. Quân giặc đóng ở Bảo Phong, và các nơi khác trên đường đại quân đi qua đều đầu hàng qui thuận, chong đèn đốt đuốc, dâng hương hoa tiến nộp thành trì, xin hàng triều đình. Lư Tuấn Nghĩa ôn tồn úy lạo phủ dụ, vẫn giao cho các hàng tướng tiếp tục cai quản thành trì. Các hàng tướng vì thế cảm động ứa nước mắt, đều bầy tỏ ý nguyện cải tà qui chính.Từ đó bọn Lư Tuấn Nghĩa không phải lo lắng mạn phía nam, ngày đêm dẫn quân mã ruổi dài thẳng tiến.Chẳng bao lâu đại quân của Lư Tuấn Nghĩa đã đến phía nam thành Tây Kinh ba mươi dặm. Lư Tuấn Nghĩa xuống lệnh cho quân đóng trại ở núi Y Khuyết. Quân thám mã đi dò tin tức, trở về báo tin chủ súy giặc là ngụy tuyên phủ sứ Cung Đoan cùng các viên thống quân Hề Thắng và mấy viên mãnh tướng đóng trong thành. Riêng tướng thống quân Hề Thắng là người khá am hiểu trận pháp. Lư Tuấn Nghĩa cùng phó quân sư Chu Vũ định bàn nghị kế sách tiến đánh Tây Kinh. Phó quân sư nói:- Chu Vũ tôi được biết Hề Thắng là kẻ hiểu biết binh pháp.Chắc hắn sẽ tìm cách đương đầu với bọn ta. Vậy bên ta nên bầy trước trận thế, đợi bọn hắn đem quân đến sẽ từ từ tiến ra khiêu chiến.Lư Tuấn Nghĩa nói:- Lời bàn của quân sư rất phải.Nói đoạn hạ lệnh đưa quân mã xuống bãi núi phía nam dàn thành thế trận Tuần hoàn bát quái.Đang chờ thì thấy quân giặc ở Tây Ninh chia ba đường trung quân giương cờ đỏ, tả quân giương cờ xanh, hữu quân cũng giương cờ đỏ cùng lúc tiến đến. Hề Thắng thấy quânTống dàn thế trận trước bèn truyền lệnh chò hai cánh quân tả hữu dừng lại đóng trại. Hề Thắng tự mình lên chòi cao quan sát trận Tuần hoàn bát quái của quân Tống rồi nói:- Thế trận này chẳng lấy gì làm cao lắm. Đợi đó sẽ cho chúng biết trận pháp của ta?Nói đoạn Hề Thắng sai quân gióng ba hồi trống, lên đứng trên tướng đài, hai tay phất hai cờ hiệu để điều khiển quân sĩ hai bên tả hữu dàn trận thế. Dàn thế trận xong, Hề Thắng bước xuống, gọi tướng giữ kỳ môn mở cửa trận rồi thúc ngựa đến trước trận nói lớn:- Ngươi bầy trận Tuần hoàn bát quái định che mắt ta sao?Lư Tuấn Nghĩa thấy Hề thắng muốn đối đáp trận pháp bèn cùng Chu Vũ lên chòi quan sát nhìn sang. Trận thế của giặc cứ ba người kết thành một tiểu đội, hợp ba tiểu đội thành một trung đội, hợp năm trung đội thành một đại đội, xếp theo thế ngoài vuông trong tròn, lấy trận lớn bao trận nhỏ để hỗ trợ liên lạc với nhau. Chu Vũ nói với Lư Tuấn Nghĩa:- Đấy là phép trận Lục hoa của Lý Dược S~l), Lý Dược Sư (#1)dựa vào Bát trận đồ của Vũ Hầu Gia Cát Lượng, cắt xén thành trận Lục hoa. Quân giặc khinh ta không biết thế trận đó, mà chẳng hay rằng đó cũng chỉ là trận bát quái, biết tám tám thành sáu tư. Như vậy phép bát trận đồ của Gia Cát Lượng có thể phá được trận Lục hoa.Lư Tuấn Nghĩa bèn ra trước trận quát to:- Trận Lục hoa của ngươi cũng chẳng có gì lạ?Hề Thắng nói:- Ngươi có dám đánh vào không?Lư Tuấn Nghĩa cả cười nói:- Thế trận của ngươi nhỏ bé, đánh có khó gì~ Nói đoạn thúcg, mặc giáp mềm xếp vảy kỳ lân, thân cao hơn trượng, lẫm liệt uy phong; đó là Hiểm đạo thần ục Bảo Tứ. Hai bên là hai tướng hộ kỳ cưỡi ngựa chiến và trang phục giống như Chánh kỳ thủy:- Đó là Mao đầu tinh Khổng Minh và Độc hỏa tinh Khổng Lượng.Trước sau cửa súy hai mươi bốn tên quân sĩ mặc giáp sắt, vác lang nha côn dàn thành hàng. Sau cờ súy là hai lá cờ lĩnh chiến bằng gấm thêu, hai bên dàn hai mươi bốn quân sĩ vác thiên phương họa kích hộ vệ hai viên kiêu tướng, bên trái là Tiểu ôn hầu Lã Phương, bên phải là Trại nhân quý Quách Thịnh. Hai viên kiệu tướng tay cầm họa kích dừng ngựa đứng hai bên. Phía trong hàng họa kích là đội quân sĩ vác đinh ba do hai viên bộ quân kiêu tướng Lưỡng đầu xà Giải Trân và Song vĩ yết Giải Bảo cầm đinh ba hoa sen chỉ huy quân sĩ bảo vệ trung quân. Cưỡi hai chiến mã yên cương gấm đứng sau, phía bên trái là Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng, bên phải là Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên. Phía sau hai tướng ấylà đội quân áo tía vác đao ma tra tua tủa như rừng, giữa là hai tướng chỉ huy quân đao phủ:- Đằng trước là Thiết tí bác Sái Phúc, đằng sau là Nhất chi hoa Sái Khánh. Hai bên sườn là hai đội kim thương và ngân thương do hai viên đại tướng chỉ huỵ Chỉ huy đội kim thương là Kim thương thủ Từ Ninh, chỉ huy đội Ngân thương là Tiểu lý quảng Hoa Vinh. Tiếp sau là lính cẩm y xếp hàng đôi, mũ hoa áo gấm tầng tầng lớp lớp, cờ mao tiết việt phướn đỏ lọng vàng. Đi đầu là ba vị anh hùng:- Bên phải là Nhập vân long Công Tôn Thắng, bên trái là Trí đa tinh Ngô Dụng, vị tướng cưỡi trên ngựa chiến dạ ngọc sư tử là Chinh tây bình khấu chánh tiên phong Sơn Đông Cập thời vũ HÔ bảo nghĩa Tống Công Minh nai nịt chặt chẽ, tay cẩm bảo kiếm Côn Ngô chỉ huy đội trung quân đích thân ra trận giám chiến. Trước ngựa Tống Giang, phía trái là Thần hành thái bảo Đái Tôn chuyên việc phi báo truyền lệnh điều binh khiển tướng; phía phải là Lãng tử Yến Thanh quen giúp việc cơ mật ở trung quân. Phía sau là một đội ba mươi lăm viên phó tướng cầm kích lớn, giáo dài đeo cung tên ngồi trên chiến mã phủ yên gấm. Tiếp sau là đội nhạc binh đeo tù và, khoác kèn trống. Hậu quân đặt hai đội du binh mai phục hai bên để hộ vệ các cánh trung quân:- Đội bên trái do Thạch tướng quân Thạch Dũng và Cửu vĩ quy Đào Tông Vượng chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Đội bên phải do Một già lan Mục Hoẵng và Tiểu già lan Mục Xuân chỉ huy ba nghìn quân mã bộ. Thế trận thật chỉnh tề chặt chẽ. Đúng là:- Quân sư đa lược súy khôi hoẵng, Sĩ dũng tì hưu mã khóa long.Chỉ huy yếu kiến bình tây tích, Suất sá tư thành đãng khấu công.Quân sư mưu lược tướng anh hùng Sĩ tốt hùm beo ngựa vượt rồng.Dưới trên những muôn bình Tây tặc Quát thét đua tài lập chiến công. Lúc ấy Vương Khánh cùng Lý Trợ lên tướng đài dựng giữa trận xem xét kỹ tình hình binh mã của Tống Giang. Chỉ trong chốc lát quân Tống đã thay đổi vị trí, xếp thành thế trận Cửu cung bát quái, tướng sĩ dũng mãnh anh hùng, quân phong chỉnh tề, nghiêm túc, thương sắc đao bén. Vương Khánh thấy vậy sợ hãi lo lắng, buột miệng kêu lên:- Bọn chúng lợi hại như thế hèn gì quân ta cứ thua mãi? Bỗng nghe bên quân Tống trống trận nổi vang như sấm.Vương Khánh, Lý Trợ rời tướng đài lên ngựa, hai bên tả hữu có các tướng kim ngô hộ vệ, phía sau là đám đông quân cận vệ theo hầu. Vương Khánh truyền lệnh cho tướng tiền bộ tiên phong xuất trận. Quân Tống và quân ngụy triều Vương Khánh đối trận đúng vào ngày mộc theo cách tính của thuật số ngũ hành. Từ dưới cờ tướng phương chính nam, bên quân Tống, Báo tử đầu Lâm Xung phi ngựa ra trận. Quân hai bên hò reo vang trời. Lâm Xung dừng ngựa cầm ngang cây bát xà mâu quát to:- Lũ phản nghịch điên cuồng ngu ngốc, quân thiên triều đã đến đây, không cởi giáp quy hàng còn đợi đến bao giờ? Lúc thịt nát xương tan hối thì đã muộn?Bên quân Vương Khánh, Lý Trợ vốn là gã thầy bói hiểu được phép ngũ hành tương sinh tương khắc, liền truyền lệnh cho hai viên chỉ huy cánh quân bên trái là Liễu Nguyên và Phan Trung dẫn đội quân cờ đỏ xông trận. Hai tướng tuân lệnh phóng ngựa vẫy quân tiến lên. Trống trận cả hai bên khua dồn, quân sĩ hò reo không ngớt. Lâm Xung chặn đánh Liễu Nguyên, bốn cánh tay cùng vung khí giới, tám vó ngựa chồm tung. Hai tướng đằng đằng sát khí quần thảo trong đám bụi mù, bên qua bên lại, vòng phải vòng trái, đấu đến hơn năm mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Phan Trung thấy Liễu Nguyên là viên tướng dũng mãnh mà cũng khó thắng nổi, bèn vung đao thúc ngựa đến trợ chiến. Lâm Xung một mình địch lại hai tướng. Bất ngờ Lâm Xung quát vang một tiếng, uy phong phấn khích, vọt tới đưa ngang ngọn mâu đâm Liễu Nguyên lăn nhào xuống ngựa. Phó tướng của Lâm Xung là Hoàng Tín, Tôn Lập cũng phi ngựa tiến đến. Hoàng Tín tuốt thanh tang môn kiếm nhằm Phan Trung chém xuống.Chỉ thấy một tia máu phọt lên, chiếc đầu đội mũ đâu mâu lăn lông lốc.Thấy Phan Trung lăn ngựa, quân sĩ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, chân trận(l) bên quân Vương Khánh bắt đầu nao núng.Thủ hạ của Phan Trung vội phi báo vào trung quân. Vương Khánh nghe tín bị mất hai tướng, vội truyền lệnh cho lui quân. Bỗng nghe bên quân Tống một tiếng pháo lệnh nổ vang, rồi quân mã ào ào chuyển động:- Cờ trắng dẫn quân đen, cờ đen dẫn quân xanh, cờ xanh dẫn quân đỏ, biến thành thế trận trường xà, các đội quân chuyển quanh xoay vòng cuộn thắt lại. Vương.Khánh, Lý Trợ vội sai tướng điều quân chặn đánh các phía, nhưng quân Tống vững chắc như bức thành đồng, quân Vương Khánh không sao phá nổi vòng vây. Đó là trận đại chiến của quan quân Tống Giang với tặc'quân Vương Khánh.Sau lúc hỗn chiến, quân giặc đại bại quân Tống Giang thắng lớn, Vương Khánh truyền lệnh lui quân về đại nội ở thành Nam Phong tìm cách đối phó. Bỗng nghe tiếng súng nổ từ phía hậu quân rồi thám mã đến báo:- Thưa đại vương, phía sau cũng có quân Tống Giang đánh đến.Viên đại tướng anh hùng cầm ngang cây điểm cương thương, cưỡi ngựa dẫn đầu đội quân ấy chính là Phó tiên phong Hà Bắc Ngọc Kỳ lân Lư Tuấn Nghĩa. Vị hảo hán cầm phác đao đi bên trái là Bệnh Quan Sách Dương Hùng, người cầm phác đao đi bên phải là Phanh mệnh tam lang Thạch Tú. Đội quân 1 Nguyên văn là "trận cước", chỉ hàng quân đầu tiên trong thế trận dàn hàng ngang.Này gồm một vạn tinh binh, tinh thần phấn khích, ào ạt xông tới chém giết. Dương Hùng chém rơi đầu Đoàn Ngũ, Thạch Tú đâm chết Khêu Tường, quân sĩ ùa theo đuổi đánh, quân giặc thua to tan chạy. Đang lúc Vương Khánh hoảng hốt lo sợ, lại nghe một tiếng súng nổ vang. Phía bên trái là tám vị đầu lĩnh dũng mãnh:- Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lý Quỳ, Tiết Vĩnh, Hạng Sung, Lý Cổn, Phàn Thuỵ, vung thiền trượng, giới đao, búa lớn, phác đao, tang môn kiếm, phi đao, tiêu thương, khiên thuẫn dẫn một nghìn quân bộ xông đến chém giết quân của bọn Lý Hùng, Tất Tiên như băm rau bổ dưa. Phía bên phải là bốn đôi vợ chồng anh hùng:- Trương Thanh, Vương Anh, Tôn Tân, Trương Thanh, Quỳnh Anh, Hỗ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương dẫn một nghìn quân kỵ múa hoa lê thương, tiêu cương thương, phương thiên họa kích, nhật nguyệt song kiếm, cương thương, đoản đao, xông đến đánh tan cánh quân bên trái của Vương Khánh, khí thế như xô cành khô, đạp gỗ mục, quân giặc bị cắt đứt thành bốn năm mảng, tan tác tìm đường tháo chạy. Lư Tuấn Nghĩa, Dương Hùng, Thạch Tú đánh thẳng vào trung quân. Phương Hàn vừa chống cự liền bị Lư Tuấn Nghĩa đâm chết. Bọn Lư Tuấn Nghĩa tả xung hữu đột đánh tan đội vũ dực trung quân, rồi thúc ngựa đuổi gấp vào bắt Vương Khánh. Vừa lúc ấy Kim kiếm tiên sinh Lý Trợ phóng ngựa đến chặn đường. Tên Lý Trợ vốn có kiếm thuật, từ xa vung kiếm vù vù loang loáng như chớp tiến đến. Đang lúc Lư Tuấn Nghĩa lúng túng chưa kịp đối phó thì đội trung quân của Tống Giang vừa đánh tới. Nhập vân long Công Tôn Thắng thấy Lý Trợ dùng kiếm thuật đánh Lư Tuấn Nghĩa, vội nhấm thần chú rồi quát:- "Mau?". Thanh kiếm của Lý Trợ liền rời khỏi tay hắn rơi xuống đất. Lư Tuấn Nghĩa phóng ngựa tới gần, vươn tay túm đai lưng Lý Trợ giật mạnh, kéo sang ngựa mình, rồi vứt xuống giao cho quân sĩ trói gô lại. Lư Tuấn Nghĩa lại nâng thương thúc ngựa tiến lên phía trước bắt sốngvương Khánh, dũng mãnh như phim eắt bắt én, như hổ dữ vồ dê non. Quân giặc quẳng chiêng bỏ trống, vứt đao thương, hoảng sợ kêu la tìm đường chạy trốn. Quân Vương Khánh hơn mười vạn bị chém giết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, máu chảy đỏ sông, số đầu hàng hơn ba vạn. Những tên sống sót phần nhiều đều bị thương thập tử nhất sinh, nằm gục la liệt, lại bị đại quân người ngựa băng đến xéo nát như bùn.thương vong không đếm xuể. Hai mãnh tướng Lưu Dĩ Kính và Thượng Quan Nghĩa bị Tiêu Đĩnh chém ngựa, ngã nhào rồi bị giết. Lý Huỳnh bị Quỳnh Anh ném ngã và đâm chết.Tất Tiên đang tìm đường trốn thì Hoạt thiểm bà Vương Định Lục đột ngột xông đến lia một phác đao hất xuống ngựa, lại thêm một nhát vào giữa ngựa, kết liễu đời hắn. Các tên ngụy thượng thư, khu mật, điện súy, kim ngô tướng quân đều không kịp trốn, chỉ một mình Vương Khánh chạy thoát, không biết trốn đằng nào. Quân Tống đại thắng.Tống Giang eho khua chiêng thu quân về thành Nam Phong, giao cho Trương Thanh, Quỳnh Anh dẫn năm nghìn quân mã đi trước dò đường. Lại sai Thần hành thái bảo Đái Tôn đi nghe ngóng tình hình bọn Tôn An đánh úp thành Nam Phong.Đái Tôn tuân lệnh, trổ phép thần hành vượt cả Trương Thanh, Quỳnh Anh, chẳng bao lâu đã từ thành Nam Phong trở về báo tin:- Tôn An vâng lệnh Tống tiên phong chõđóng giả làm quân Vương Khánh đi vào thành, bị giặc phát giác. Bọn chúng đào hố sập ở phía trong cửa thành rồi mở cửa phía đông đưa người ngựa đi ra. Bẩy phó tướng của Tôn An là bọn Mai Ngọc, Kim Xước, Tất Tiệp, Phan Tấn, Dương Phương, Phùng Thăng, Hồ Mại vội đưa năm trăm quân sĩ vào thành, cả người lẫn ngựa bị lăn hết xuống hố. Quân giặc mai phục hai bên nhất tề vùng dậy dùng giáo dài, kích nhọn đâm xuống. Hơn năm trăm quân sĩ của bọn Mai Ngọc đều chết hết. Tôn An đi sau thừa thế tiến vào thành đánh giết quân giặc, một mặt sai quân sĩ lấp hố. Một mình Tôn An dẫn quân đánh vào, quân giặc chống cự không nổi. Tôn An liền hô quân ào lên chiếmcửa thành phía đông. Sau đó quân giặc từ bốn phía kéo đến, người ngựa của bọn Tôn An hiện bị bao vây trong thành. Tiếu đệ nghe được tin này, vội về phi báo. Dọc đường gặp vợ chồng Trương tướng quân, hai người biết chuyện đang eho quân ruỏl gấp đến cứu Tôn An".Tống Giang nghe xong liền đốc thúc quân sĩ tiến đánh Nam Phong. Bấy giờ Trương Thanh, Quỳnh Anh đã đem quân vào cửa đông. Tôn An được giao giữ eừa, còn Trương Thanh, Quỳnh Anh tự mình đốc quân giao chiến với giặc. Tống Giang cho đại quân người ngựa theo lối cửa đông tiến vào chiếm thành, đánh tan quân giặc, dựng cờ hiệu quân Tống trên khắp bốn mặt thành. Bọn Phạm Toàn và nhiều ngụy quân văn võ khác đều bị giết sạch. Nghe tin quân Tống vào chiếm thành, chính phi của Vương Khánh là Đoàn Tam Nương vội nai nịt lên ngựa dẫn hơn năm trăm quân hầu ai nấy đều mang khí giới, rời cung điện đi về phía sau nội uyển ra cửa tây, định chạy về châu Vân An. Vừa lúc Quỳnh Anh dẫn quân vào đến nội uyển, Đoàn Tam Nương múa bảo đao, thúc ngựa liều chết xông vào đánh Quỳnh Anh. Quỳnh Anh vung tay ném đá trúng giữa trán Đoàn Tam Nương máu chảy đầm đìa lăn xuống ngựa, quân sĩ ùa tới bắt sống, lính hầu thì bị giết không còn một tên. Quỳnh Anh dẫn quân vào nội cung. Cáe cung tần mỹ nữ của Vương Khánh nghe tin quân Tống chiếm thành, kẻ treo cổ, đập đầu, người nhảy xuống giếng tự sát đến quá nửa. Quỳnh Anh cho quân sĩ trói bắt sốeòn lại đem nộp trước doanh. Tống tiên phong cả mừng, sai giam bọn Đoàn thị, chờ bắt được Vương Khánh sẽ cùng giải về kinh. Một mặt sai quân chia đi bốn hướng tìm bắt Vương Khánh.Lại nói Vương Khánh dẫn vài trăm quân thiết kỵ vừa đánh vừa chạy vượt vòng vây về phía đông thành Nam Phong. Thấy quân Tống đã lọt vào đánh phá thành, Vương Khánh khiếp sợ hồn xiêu khánh lại. Vừa lúc ấy đại binh của Tống Giang từ phía sau ập tới, Vương Khánh ehỉ còn biết nhằm hướng bắc thúc ngựa chạy trốn. Vương Khánh ngoái nhìn hai bêntả hữu thấy chỉ còn mấy trăm người, ngoài ra vô số quân tướng ngày thường được sủng ái, nay thấy tình thế nguy ngập đều đã cao chạy xa.baỵ Bọn Vương Khánh lthằm phía châu Vân An mà chạy. Dọc đường Vương Khánh nói với viên hầu cận:- Quả nhân còn giữ được các thành Vân An, Đông Xuyên, An Đức, há chẳng phải là "Giang Đông tuy nhỏ cũng đủ xưng vương" đó sao? Có điều đáng giận là bọn quan viên đại thần thường ngày được quả nhân cho hưởng bổng cao lộc hậu, nay có sự biến, lũ khăn ấy đã theo nhau bỏ trốn. Đợi khi hưng binh đánh lui quân Ương, ta sẽ bắt hết đem về băm vằm làm mắm.Bọn Vương Khánh không kịp cho ngựa nghỉ chân, chạy miết đến lúc trời sáng. Từ xa nhìn thấy thành Vân An, Vương Khánh ngồi trên ngựa vui mừng nói:- Tướng sĩ của ta đóng giữ thành này rất nghiêm mật. Xem ra cờ quạt khí giới trên thành vẫn chỉnh tề, nghiêm túc.Nói đoạn Vương Khánh vẫy quân mã phi gấp vào thành.Trong số quân hầu có người biết chữ, bỗng nói to:- Thưa đại vương, nguy rồi! Trên mặt thành chỉ thấy toàn cờ hiệu quân Tống?Vương Khánh nghe nói liền ngước nhìn, quả nhiên thấy lá cờ đại dựng trên cửa thành phía đông có thêu dòng chữ vàng lớn "Ngự tây Tống tiên phong mao hạ thủy quân chánh tướng Hỗn giang...", tiếp sau còn mấy chữ nữa bị gió lay che khuất không đọc được. Vương Khánh kinh sợ rụng rời, đứng chết lặng hồi lâu, nghĩ bụng:- "Đúng là quân Tống từ trên trời rơi xuống". Bấy giờ trong thủ hạ của Vương Khánh có một viên hầu cận vốn là người khá hiểu biết, liền nói:- Thưa đại vương, mọi việc không nên chậm trễ. Đại vương mau thay ngự bào, chạy gấp về Đông Xuyên, nếu để dân trong vùng nhìn thấy sẽ sinh biến loạn.Vương Khánh đáp:- Khanh nói rất phải? Rồi tự tay tháo bỏ khăn xung thiên, ngự bào thêu hình nhật nguyệt đai vàng khảm ngọc châu, hia thêu kim tuyến,thay bằng khăn chít, áo ngắn, giày mềm. Bọn hầu cận đi theo cũng lần lượt cởi thay quần áo. Cả bọn cắm đầu chạy theo đường tắt chạy qua thành Vân An về châu Đông Xuyên. Dọc đường cả bọn đói khát, người ngựa đều mỏi mệt rã rời. Dân chúng bị giặc giết hại, lại nghe đại binh của triều đình đến đánh, nên ở những nơi đường sá giao thông quan yếu mọi người đã dời hết đi nơi khác. Khắp nơi vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người, không một tiếng gà, ngay cả nước cũng không có uống, nói gì đến rượu thịt? Bấy giờ bọn thủ hạ đi theo Vương Khánh, kẻ mượn cớ này, người tìm kế khác bỏ trốn đến sáu bẩy chục.Vương Khánh dẫn hơn ba chục tên quân kỵ chạy miết đến chiều tối mới đến huyện Khai Châu thuộc châu Văn An. Đến đây thì bị con sông chặn đường. Sông này bắt nguồn từ đầm Vạn Khoảnh ở Đạt Châu, nước sông trong vắt, nên có tên là Thanh Giang. Vương Khánh nói:- Tìm đâu ra thuyền mà qua sông bây giờ?Tên quân hầu đứng sau chỉ tay nói:- Thưa đại vương, có mấy chiếc thuyền câu ở chỗ bến lau vắng vẻ đằng kia. Vương Khánh nhìn theo rồi cùng bọn quân hầu đi ra bờ sông. Bấy giờ đã là tháng đầu đông, trời mới se lạnh. Trên sông, vài chục chiếc thuyền con đang buông câu thả lưới, có vài chiếc lững lờ giữa dòng, mấy người trên thuyền đang hoa tay múa chân cười nói uống rượu vui vẻ. Vương Khánh thở dài nói:- Bọn chài lưới kia hôm nay làm gì mà vui thế nhỉ? Chúng vốn là thần dân của ta, chẳng biết ta đang khốn khổ lại còn vui vẻ thế Tên quân hầu gọi to:- Mấy ông chài kia, đem thuyền vào cho sang sông, bọn ta sẽ hậu tạ?Hai ông chài nghe tiếng vội bỏ rượu, lướt mái chèo ràn rát đưa thuyền vào bờ. Ông chài đứng đầu mũi thuyền cầm sào, những thuyền áp bờ đưa mắt nhìn Vương Khánh từ đầu đến chân rồi nói:- Hay lắm, đang còn rượu thịt đây. Mời xuống? Mời xuống!Tên quân hầu dìu Vương Khánh xuống ngựa. Vương Khánh ngước mắt thấy ông chài thân hình cao lớn, mày rậm mắt to, da mặt đỏ au, râu ngạnh trê đen nhánh, giọng nói sang sảng như chuông đồng. Người ấy một tay cầm sào, một tay đỡ Vương Khánh xuống thuyền, rồi chống sào dún mạnh, chiếc thuyền con liền rời khỏi bờ đến hơn một trượng. Bọn quân hầu của Vương Khánh đứng trên bờ nháo nhác đồng thanh gọi to:- Quay thuyền lại đã? Bọn chúng tôi cũng cần qua sông!ông chài trừng mắt quát:- Xuống đây! Đi đâu mà vội? Nói đoạn buông sào, bất ngờ thụp nghe áo rồi du mạnh Vương Khánh ngã xuống sàn thuyền. Vương Khánh đang cố giãy giụa vùng dậy thì người cầm chèo vội bỏ tay chèo nhảy tới giúp sức ghì trói Vương Khánh. Những người đang phơi lưới trên eáe thuyền gần đó thấy Vương Khánh bị bắt vội nhẩy lên bờ chặn đường bắt giặc. Bọn quân hầu của Vương Khánh hơn ba mươi tên đều bị trói eổ.Nguyên ông chài kia không ai xa lạ mà chính là Hỗn long giang Lý Tuấn, người cầm chèo là Xuất động giao Đồng Uỵ Những người đánh cá, phơi lưới cũng phần nhiều là các đầu lĩnh thủy quân cả?Trước đó, Lý Tuấn vâng lệnh Tống tiên phong đã đem chiến thuyền đến đánh một trận lớn với thủy quân của Vương Khánh ở eo sông Cù Đường, giết chủ súy thủy quân là đô đốc Tưởng Sĩ Văn và Nhân Thế Sùng, bắt sống phó tướng Hồ Tuấn, quân giặc đại bại. Lý Tuấn thấy Hồ Tuấn tưởng mạo khác thường bèn tha chết. Hồ Tuấn eảm kính, bầy mưu cho Lý Tuấn lừa giặc mở cửa sông thành Vân An rồi đưa thuyền vào phiếm thành. Tướng trấn thủ của giăm là bọn Thi Tuấn đều bị giết. Hỗn long giang Lý Tuấn đã tính trước:- Quân giặc giao chiến với đại binh, nếu tan vỡ tất phải tìm đường nhạy về sào huyệt, vì vậy đã sai Trương Hoành Trương Thuận ở lại đóng giữ thành, tự mình cùng bọn Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn các đầu lính thủy quân đóng giả làm người đánh cá chèo thuyền trên sông để thám thính. Lại sai ba anh em họ Nguyễn đóng giả làm người Dán cá đến gò Diệm Dự, sông Mân và bến cá để nghe ngóng tin tức Vừa nãy, Lý Tuấn trông thấy từ xa có một người cưỡi ngựa đi đầu, theo sau eo nhiều người hộ vệ, đoán ngay là một tên đầu mục nào đó của giặc, nhưng không biết đích xác là ai. Tra hỏi bọn tùy tùng biết khánh là Vương Khánh, Lý Tuấn vỗ tay reo mừng, trói gô Vương Khánh áp giải về thành Vân An. Một mặt sai người báo cho anh em họ Nguyễn và anh em họ Trương ở lại giữ thành Vân An, còn tự mình cùng hàng tướng Hồ Tuấn tiếp tục giải bọn Vương Khánh đến quân doanh của Tống tiên phong. Dọc đường nghe tin Tống Giang đã hạ thành Nam Phong, bọn Lý Tuấn bèn đi thẳng vào thành, giải Vương Khánh đến súy phủ. Lúe ấy Tống Giang nghe tin báo đã bắt được Vương Khánh thì vui mừng khôn xiết. Lý Tuấn vào trong trướng yết kiến Tống tiên phong. Tống Giang khen:- Công này của hiền đệ quả là không nhỏ!Rồi lại hỏi tên hàng tướng Hồ Tuấn và bảo bọn Hồ Tuấn kể cho nghe kế lừa giặc để lấy thành Vân An như thế nào. Tống Giang xuống lệnh vỗ về khen thưởng tướng sĩ, rồi cùng các tướng bàn kế tiến đánh hai thành Đông Xuyên và án Đức. Hàng tướng Hồ Tuấn thưa:- Xin tiên phong chớ lo nghĩ nhiều, Hồ Tuấn tôi có một kế lấy hai thành đó dễ như trở bàn taỵ Tống Giang cả mừng, đứng dậy đến bên Hồ Tuấn hỏi mưu kế. Hồ Tuấn cúi người nói nhỏ với Tống Giang mấy câu. Chỉ biết rằng:Một tên không mất, thành liền ha. Ba quân yên giữ, giặc đầu hàng.Chưa biết Hồ Tuấn nói mưu kế gì, xem hồi sau sẽ rõ.