ỗi người có một cảm giác khi, lần đầu tiên trong đời, bước vào phòng giam của nhà tù. Cảm giác của tôi là sợ hãi. Anh phải nhớ rằng nhà tù và trại cải tạo khác nhau. Nếu tôi đã phục vụ quân đội như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên … tôi sẽ đóng một khoảng tiền ăn 10 ngày cho đơn vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai bà năm đầu, bộ đội quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh được làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một mình. Nỗi cô đơn của tôi không những chất ngất trên đường đời mà còn chất ngất trên đường tù. Và tôi sợ hãi nếu tôi không gặp người quen trong cái phòng giam ở địa chỉ chung của chủ nghĩa, của những thứ chủ nghĩa đã đưa dân tộc tôi phiêu lưu quá xa khỏi tình tự đích thực của mình, từ 100 năm nay. May quá, tôi đã gặp văn hữu. Người đầu tiên, Hoàng Anh Tuấn. “Nhà văn nghệ cao nhất nước” của tôi mặc trần xì cái quần đùi xắn cao tít lên thành một kiểu xì-líp … xã hội chủ nghĩa. Phòng giam chật ních gần 80 tù nhân, không khí nồng nặc mùi mồ hôi, mùi hôi nách, mùi nước đái và mùi khói thuốc. Tuy đã khuya và tuy cái quạt hút gió lắp ngược chạy xình xịch sát trần phòng, mồ hôi vẫn cứ chảy râm ran trên ngực phanh áo của Tuấn. Anh ta vỗ vai tôi, mỉm cười: - Sao mày đến muộn thế? Anh em đợi mày mỏi cả mắt! - Vì hôm nay họ mới hỏi thăm. - Lạ nhỉ, mãi hôm nay nó mới vồ mày. Bấy giờ, tôi hơi hơi lạ. Sau này, tôi hết lạ. Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kip vô bìa, thì Sàigòn mất, và cơ sở ấn loát Nguyễn Bá Tòng bị tiếp quản liền. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn… lên đường trực chỉ Sở Công An. Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ. Hôm sau, cả Sàigòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra 2 khách là nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, 2 khách công an đã phóng ra vỉa hè. “Nó đến bắt Mai Thảo.” Côn nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo. Công an không bắt được Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo. Như thế, có thể, tôi vuột luôn với Mai Thảo, họ bèn chấm dứt trò chơi và đưa tôi vào ngục. - Ừ, lạ thật. Tôi nói. Sau Hoàng Anh Tuấn, tôi nhận ra Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí (Chóe), Văn Kha, Đằng Giao, Hồ Nam… Hoàng Anh Tuấn thuyết trình: - Quần hào đã tụ tập hết ở Quang Minh Đỉnh! Bên cạnh chúng ta có Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Lê Xuyên. Trước mặt chúng ta có Doãn Quốc Sỉ, Nguyễn Mạnh Côn, Trần Dạ Từ, Thế Viên, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh… Hoàng Anh Tuấn lúc nào cũng có thể vui được. Những ngày ở sở Công An, nguồn vui của Tuấn là tranh luận với Thân Trọng Kỳ về điện ảnh. Tuấn chê Thân Trọng Kỳ chẳng hiểu điện ảnh tí gì, dù đã du học bên Mỹ. Tôi sẽ quên Hoàng Anh Tuấn nhiều thứ, kể cả những bài thơ thật bồng bế, những đóa hoa trên 10 ngón tay họ Hoàng, nhưng có 2 thứ tôi khong bao giờ quên Tuấn, 2 thứ quá đơn giản mà rất người. Thứ nhất, Tuấn nhường chỗ trên bục xi măng cho tôi nằm cạnh Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, tình nguyện vác chiếu xuống ngủ sát lối vào cầu tiêu. Luật lệ bất thành văn của bất cứ nhà tù ở bất cứ một chế độ Việt Nam nào là, hễ anh mới bước chân vào một phòng mới, anh đành chịu “tạm trú” ở nơi hẩm hiu nhất. Nơi hẩm hiu nhất của đêm tù đầu tiên của đời tôi là nền căn phòng ẩm ướt gần khít cửa vô nhà xí. Tù nhân, ngót 80 tù nhân, đêm như ngày, sẽ bước qua tôi, bước qua “nhà văn của tuổi trẻ,” bước qua cha đẻ của Trần Đại, James Dean Hùng, Hoàng Guitar, Dzũng Dakao để đi đái, đi ỉa! Hoàng Anh Tuấn không nỡ nhìn tôi nằm co ro khốn khổ. Tôi từ chối. Tuấn nói Tuấn thức suốt đêm, Tuấn chẳng cần ngủ. Thứ hai, Tuấn ngồi xếp bằng tròn “diện bích”, trân trọng lần chuỗi và đọc kinh. Lucifer cầu nguyện Chúa! Tuấn trả lời anh em: “Chúa không đến với tôi ngoài đời. Nhưng tôi biết ông theo tôi vào tủ. Và tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi cảm giác ấm áp vì có ổng trên tôi.” - Mấy hôm đầu, bị cơn ghiền hành hạ, ông Nguyên Mạnh Côn rên rỉ khiếp lắm. Đằng Giao nói. Vợ của Giao, Chu Thị Thủy – con gái Chu Tử – và đứa con sơ sinh cũng bị bắt. Chủ nghĩa cộng săn thù hằn cả sản phụ lẫn hài nhi! Thế mà người ta vẫn khoe khoang chế độ người ta ưu việt. Và thế giới vẫn bị huyễn hoặc bởi sự ưu việt lợm giọng ấy. Nếu có những vĩ đại lãnh tụ cộng sản tự hào về thành tích tù đầy của mình từ thiếu niên tranh đấu thì con trai út của Đằng Giao, sau này, xứng đáng tự hào hơn. Vì mới sinh ra đời 3 ngày, sinh ra giữa đời hòa bình thống nhất tổ quốc, đã can tội phản động, phải theo bố mẹ vào tù. Và nếu thế giới có bỉ thử chúng ta rằng, tại sao nước anh có nhiều tướng lãnh đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng thế, thì chúng ta còn chỗ dựa vớt vát: Nước tôi còn có vị anh hùng vĩ đại nhất loài người, mới 3 ngày đã nằm tù cộng sản! Một vết son của chế độ hay một dấu ấn dơ bẩn hằn lên chủ nghĩa? Câu trả lời dành cho lương tri của nhân loại. - Nguyễn Sĩ Tế nằm cachot. Nhã Cả nằm cachot. Lần lượt tới bọn mình. Linh mục Hoàng Quýnh về nước Chúa tháng trước, ở cachot. Linh mục Trần Hữu Thanh bị tê liệt, mới rời phòng nầy hôm kia. Cứ bình tĩnh. Như Phòng nói: - Tớ sẽ khước từ mọi khai báo. Tớ không vợ con nên có quyền cù nhầy. Các cậu đừng noi gương tớ. Chỉ đàn anh Trung Quốc mới cứu nổi chúng mình. Quân sư Phải Gió, nhà tiên đoán thời cuộc chơi bạo hơn Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Lúc ấy, tôi cho rằng Như Phong nói phét. Sau này, Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, tôi mới phục tài Như Phong. - Tớ lạ nhất trường hợp thằng Chóe. Chóe, hỗn danh của Nguyễn Hải Chí, giai cấp nông dân và có thể xếp vào hàng ngũ bần cố nông. Sinh quán ở Long Xuyên. Cha bỏ đi phiêu lưu từ nhỏ. Sống với mẹ. Ngày ngày đóng vai “cowboy” bên kinh rạch và hát bài tủ “Ai bảo chăn trâu là khổ”! Chiến tranh dẫn Chí lên Sàigòn, đăng lính, đeo lon hạ sĩ, phục vụ tại Tống Tham Mưu. Hạ sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp nghìn lần Cao Văn Viên. Khi đại tướng tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lịnh nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng giam của Cục An Ninh quân đội. Trước ngày tổng thống anh minh Nguyễn Văn Thiệu tự vặn ốc đinh bù loong khỏi cặp đùi rời ghế rồng chừng 3 tháng, đám cầy cáo Hoàng Đức Nhã, Đặng Văn Quang đã bắt một số ký giả chống “độc diễn” năm xưa và thường xuyên diễu cợt Thiệu. Một cái chảo to tướng chụp lên đầu Sức Mấy, Chóe: Cộng sản. Chóe bị bắt cùng lúc với vài tên ký giả nằm vùng. Vì Chóe gốc quân đội nên Chóe về nằm ấp Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dịp này, Tổng Nha Cảnh Sát cũng bắt Mặc Thử, Vũ Bằng không phải lý do chính trị mà do nhà tỷ phú Phạm Quang Khai gài bẫy! Chiều 30-4-1975, các thư cục lớn nhỏ trong cái Cục An Ninh chuồn đâu mất tích. Một mình Chóe mở cửa nhà giam đi về nhà thơ thới hân hoan. Rồi Chóe về chỗ nhật báo Tin Sáng của bọn thời cơ chủ nghĩa Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Bình, Hồ Ngọc Nhuận, ký biệt hiệu Ta. Rồi Chóe được mời làm thư ký toà soạn cho tuần báo Lao Động Mới của công đoàn thành phố, dưới trướng đồng chí Nguyễn Hộ, ăn lương biên chế cán bộ. Và rồi, công an bảo vệ chính trị đem còng tới tận nhà Chóe đưa Chóe vào nhà lao. Người ta đã phẩm bình Chóe rằng tại sao Chóe cộng tác với chế độ mới và đả kích chế độ cũ. Người ta không chịu tìm hiểu cuộc đời Chóe. Chế độ cũ cho tài năng số 1 về hí họa của đất nước cái gì? Một cái lon hạ sĩ và những tháng tù đầy! Cộng sản rất gian ác nhưng đã không ngu. Nó nhìn rõ tài năng hiếm có của Chóe. Nó biết Barry Hilton đã in tập hi hóa của Chóe. Hilton bị áp lực của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nên không đem phát hành tập hí họa. (Vì trong tập hí họa nầy, Chóe lố bịch Nixon va Kissinger rất điêu luyện và rất độc địa. Barry Hilton là công chức của Bộ Ngoại Giao. Người ta đặt 2 điều kiện. Một: Rời khỏi ngành ngoại giao thì phát hành tập hí họa của Chóe. Hai: Ở lại ngành ngoại giao thi hủy tập hí họa đi. Hilton chọn điều kiện thứ 2.) Do đó, thế giới chưa biết tài năng của Chóe. Nếu tập hí họa của Chóe được phát hành, thế giới đã ồn ào can thiệp cho Chóe, khỏi cần đợi mãi đến cuối năm 1983, người ta mới đi hỏi vung vít khắp nơi về lý lịch một họa sĩ trứ danh tên là Nguyễn Hải Chí. Nó biết hoàn cảnh sống hiện tại của Chóe. Nó biết giai cấp xã hội của Chóe. Nó biết mức độ và ảnh hưởng chống đối trước đây của Chóe. Và nó xử dụng Chóe. Nó xử dụng Chóe để thu hút những tài năng khác còn cay cú, ngờ vực nó. Nó cần Chóe một giai đoạn nào đó thôi. Chóe chưa có kinh nghiệm cộng sản, Chóe còn trẻ, Chóe vừa mang thương tích chế độ cũ. Chóe bèn trả thù 3 tháng năm tù oan ức ở Cục An Ninh quân đội bằng cách giao du với cộng sản. Rồi Chóe lại bị cộng sản bắt giam. Lần này lâu quá, đã 9 năm rồi đấy. 9 năm tức là 108 tháng! Người ta cứ thích phẩm bình và phẩm bình. Chưa thấy ai đem tiền bạc nuôi Chóe và bảo Chóe đừng công tác với cộng sản. Và, hình như, vẫn chưa thấy ai gởi quà về trại Gia Trung tặng Chóe, ngoài vợ con của Chóe 1. Nhưng người ta đã thấy, trên các tạp chí màu sắc lòe loẹt, vài anh đại tá hạng bét, học đòi mang tâm sự Mã Chiếm Sơn, dâng hoa tặng gái hoa hậu, cười toe toét. Và nhận những tràng pháo tay. Khi ấy, Phan Nhật Nam quạnh hiu ở Thanh Hóa, Văn Quang rã rượi ở Sơn La, Tô Thùy Yên mệt mỏi ở Hàm Tân, Thảo Trường phờ phạc ở Vĩnh Phú.. Đó là sự lạ lùng của Như Phong. - Hôm qua có chuyện vui lắm, Đằng Giao nói, nếu ông vô cùng lượt tôi, cuộc chơi sẽ vui hơn. Anh em bị bắt từ 2-4, trừ Nguyễn Hữu Hiệu và Dương Nghiễm Mậu trầm lặng, thường tụ tập gần cửa sắt chấn song đan khit nhìn thẳng sang khu cachot, cũng là lối dẫn tù mới vào 2 phòng A, B, xem đến lượt thằng nhà văn, nhà thơ nào … nhập Cõi. Hồ Nam đến trước tôi một hôm. Khi Hồ Nam thấp thoáng, Đằng Giao kể, trong phòng đã chuẩn bị đón chàng. Đạo diễn hò hét: Thằng Trưởng phòng Thu ngồi xếp bằng tròn trên bục, lẹ đi. Mặt mày phải thật cô hồn. Mày không cần hỏi han gì cả. Cứ ngậm miệng. Hai đứa khác quạt, 2 đứa khác đấm bóp cho nó. Cấm cười. Tất cả nghiêm trang, sợ hãi. Thủ Trưởng phòng to xác, can tội dắt tàn quân vô bưng biền tìm đơn vị cũ. Hồ Nam lọt cõi B. Anh em mừng quá. Chàng ký giả biết cả những điều mình không biết lơ lơ láo láo. Chàng thấy 4 nhà văn, nhà báo gồ ghề đang phục vụ Trưởng phòng thì chàng bèn hình tượng vua tù và tù con so của chế độ cũ. Chàng rét. Chàng đứng trơ trơ. Đạo diễn ra hiệu. Một tên nhà văn phục dịch Trưởng phòng hất đầu: “Chào Trưởng phòng đi, Hồ Nam.” Hồ Nam quýu lưỡi: “Xin chào ông Trưởng phòng”. Trưởng phòng nín khe. “ Mày có thuốc là không?” Hồ Nam móc bị hành lý ra 2 gói Bastos de Luxe, trịnh trọng để lên bục. Anh em nhào tới, xé ra, mời nhau hút. Và cười rộ. Hồ Nam cười theo. Hú vía! Sau Đằng Giao là Dương Nghiễm Mậu kể những giây phút công an ập vào nhà mình. Mậu thở dài: “Tôi chỉ tiếc mấy tập bản thảo viết từ tháng 5, 1975. Họ tịch thu hết”. Tôi hỏi: “Cậu viết về cái gi?” Mậu đáp: “Về sự hấp hối của Sàigòn trọn ngày 30-4 mà tôi nhìn rõ, nghe rõ”. Mai Thảo, có lần nói với tôi, trước chiến dịch 2-4-1976: “Cần 20 thằng nhà văn cự phách mới có nổi đại tác phẩm Sàigòn, ngày dài nhất”. Mai Thảo nói đúng. Tôi nghĩ Mậu đã viết và Mai Thảo đã nghĩ tới, chắc chắn, nhiều anh em khác đã viết, đã nghĩ tới. Nhưng bao giờ thế giới mới được đọc Sàigòn, ngày dài nhất, ngày dài nhất cho kẻ chiến thắng lẫn người chiến bại, cho cả đồng mình phản phúc lẫn thế giới toa rập, cho cả thủ đoạn hân hoan mất Sàigòn của Mỹ lẫn âm mưu dơ bẩn không muốn mất Sàigòn của Liên Xô, Trung Quốc… Sàigòn, ngày dài nhất của nhà văn Việt Nam, của những tâm hồn đích thực Việt Nam, không phải của bọn nhà báo Mỹ đê tiện vừa ngửa tay lãnh tiền CIA vừa ngửa tay lãnh tiền KGB. Thế giới, nhất là thế giới thứ 3, và đặc biệt các nước đang diễn trò quân ta giết quân mình bằng ý thức hệ cộng sản, tư bản, bằng bom đạn Mỹ, hỏa tiễn Nga cần học tập kinh nghiệm Sàigòn, ngày dài nhất, ngày dài nhất của hậu quả 20 năm khốn khổ nhất của lịch sử chiến tranh nhân loại. Và sau ngày dài nhất ấy là năm tháng dài nhất của đói rách, ngu dốt, hận thù, trại tập trung, nhà tù. Và vẫn chiến tranh! Hình như thế giới vẫn bị mê hoặc trong sương mù chiến tranh ý thức hệ. Thực ra trò chơi của ý thức hệ đã chấm dứt. Ngày nay không còn ý thức hệ vô sản chơi nhau với ý thức hệ tư bản và các ý thức hệ khác nữa. Chủ nghĩa của Marx, Angel đã bị phôi pha từ sự “sáng tạo” của Lenine, từ sự thoát lý của Tito, từ sự tách rời của Mao Trạch Đông. Bây giờ, chỉ còn là sự tranh chấp quyền lực, tranh chấp ảnh hưởng giữa 2 thế lực mạnh nhất, dã man nhất, đê tiện nhất, xảo quyệt nhất. Hai thế lúc ấy, tạm dùng chữ nghĩa của Hồ Hữu Tường, là văn minh chính ủy và văn minh cơ khí. (Nếu Hồ Hữu Tưởng còn sống và đang có mặt ở Mỹ, ở Âu, ông sẽ sửa văn minh cơ khi thành văn minh bấm nút.) Ngày nay, không một thế lực nào dám mở miệng nói về chính nghĩa, về lý tưởng nữa. Hay mở mắt hướng về việt Nam! Hãy nhìn rõ cái lý tưởng giải phóng dân tộc bị trị của công sản! Hay hỏi xem 10 năm ròng rã kháng chiến chống thực dân Pháp được cái gì và mất những gì? Được cái lớn nhất và vĩ đại nhất là sự nghiệp “cứu nước” của ông Hồ Chí Minh, là tên tuổi danh vọng của ông Võ Nguyên Giáp, là nền độc lập cưa đôi xử sở, là tiếng thơm “dân tộc anh hùng” viễn vông, là … Hồ Chí Minh muôn năm! Cái mất lớn nhất, vĩ đại nhất là 1 triệu 500 ngàn dân Việt Nam chết ghê rợn bằng 1 triệu 500 ngàn cách giết, kiểu giết, lối giết của cháu yêu của ông Hồ trong mùa liên hoan máu Cải Cách Ruộng Đất năm 1956 và kế tiếp là mùa liên hoan máu sửa sai, thêm 500 ngàn cháu yêu của ông Hồ “tình nguyện” chết bằng 500 ngàn mẫu chết khiếp đảm nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nhân dân. Chưa kể một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam và hàng chục ngàn trí thức tinh hóa của đất nước vùi xác ở chiến trường và rừng già thủ tiêu ròng rã 10 năm kháng chiến đánh bóng cho Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản. Hãy mở mắt hướng về Mã Lai, một nước vô danh tiểu tốt, một nước đói kém văn hóa, văn hiến, một nước hiếm hoi anh hùng! Mã Lại gần Việt Nam lắm, cũng nô lệ 100 năm đấy, cũng Nhật đến đuổi Anh, cùng cộng sản nhi nhô. Thế mà, chẳng cần 10 năm kháng chiến, chẳng cần tiêu thổ kháng chiến, chẳng cần quy định giai cấp, chẳng cần đấu tố, chẳng tốn một giọt máu nào, Mã Lai vẫn độc lập. Độc lập trong hòa bình và đoàn tụ. Độc lập theo kiểu độc lập nước nhỏ. Đừng đòi hỏi độc lập toàn vẹn cho bất cứ một nước nhỏ nào trên thế giới, ở thời đại của chúng ta. Mày độc lập chính trị thì tao áp đặt nô lệ kinh tế lên đầu xứ sở máy. Dân tộc mày cứ chống tao đi, không sao, tao nắm cổ bọn thống trị thôi. Mày ái quốc cách mấy cũng khó thoát khỏi lưới thép thực dân mới, thoát khỏi móng vuốt đô la! Đó, nhìn rõ chưa? Chính nghĩa và lý tưởng cộng sản đã rực rỡ trên một nửa bản đồ hình chữ S. Chưa hết đâu, lý tưởng giải phóng còn tiến xa, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến sâu vào tội ác thêm hai mươi năm nữa. Hai mươi năm sáng danh “chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng” ở Việt Nam, ở toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, được cái gì và mất những gì? Nói về cái mất trước. Hàng mấy thế hệ thanh niên, cả 2 miền Nam Bắc, chết thê thảm, chết văng chân lên trời, chết cắm đầu xuống đất bởi bom Mỹ, hỏa tiễn Nga. Dọc Trường Sơn, trên đường mòn Hồ Chí Minh, xương khô và xương khô, lóng tay và đầu lâu ngỗn ngang như đất cục, như củi mục! Không đếm xuể mồ mả của dân lành vô tội được hóa kiếp bởi bom napal, bom bi, bom B52 tư bản, đạn đại bác, hỏa tiễn vô sản. “Vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì Đảng cộng sản, quân đội ta tiến lên!” Quân đội ta chết nhiều quá. Những sư đoàn lừng lẫy Điện Biên Phủ năm xưa chỉ còn cái tên, người đã bị nướng hết. Thôn quê miền Bắc hết sạch thanh niên trên 17 tuổi. Đảng vay tuổi – ôi chủ nghĩa cộng sản! – thiếu niên. Vì lý tưởng, nhãi ranh 15 tuổi nhập ngũ. Vì lý tưởng, không, vì hết lính hứng bom Mỹ cho lý tưởng, nhi đồng 15 tuổi bị võ trang bằng thù hận, bằng mồi thơm dũng sĩ, bằng AK và một tuần tập bắn rồi bị tung vào chiến trường. Và thành liệt sĩ. Và thành thương phê binh. Số ít sống sót thành chiến sĩ anh hùng quanh năm ăn cơm gạo hẩm trộn khoai sắn với rau muống già luộc chấm nước muối. Cả chục ngàn dân bị chôn sống ở Huế mùa Tổng Công Kích Mậu Thân. Rồi buồn vì lính vô sản chết nhiều mà chôn sống dân lập thành tích quá ít, lại thua đau, mất luôn chủ tịch vĩ đại Hồ Chí Minh. Trước khi nhắm mắt để vào hòm kính, Hồ Chí Minh muôn năm đã phát điên. Lăng của chủ tich là một sự cười đùa trên nỗi khổ của nhân dân. Chỗ nằm của xác chết giá trị bằng lương thực nuôi cả dân miền Bắc một năm! Có thể hai, ba năm. Tiến nhanh, tiến mạnh, lý tưởng giải phóng tự thiêu quân mình và nướng dân mình ở Bình Long, ở Quảng Trị, ở Quy Nhơn, ở Kontum. Cái lý tưởng giết người của chủ nghĩa cộng sản đã mê hoặc bọn lãnh tụ Việt Nam. Họ chấp nhận mọi lạc hậu về khoa học, kỹ thuật, họ thản nhiên bắt dân đói khổ, ngu dốt, họ khích lệ tuổi trẻ nhảy xuống vực thẳm chiến tranh mù mịt, lao vào họng súng tư bản, đứng giữa trời hứng bom đế quốc để thỏa mãn sự ưu việt của chủ nghĩa và óc sáng tạo của lãnh tụ. Họ đã chiến thắng đế quốc Mỹ ở Việt Nam, sau 20 năm gặm khoai đánh giặc. Nhưng được gì? Một quê hương hòa bình thống nhất, tan nát, rã rượi, chia lìa. Một mảnh đất đầy dẫy nhà tù, trại tập trung. Một vùng trời ngút ngàn thù hận anh em. Người Việt Nam trả thù người Việt Nam. Chẳng còn vấn đề thực dân, đế quốc nữa. Bây giờ là nanh vuốt Việt Nam khống chế Việt Nam. Và chủ nghĩa, và lý tưởng giải phóng đứng chót vót đỉnh cao thành công. Và người ta bảo đó là độc lập, tự do tìm thấy sau hai mươi năm chiến đấu gian khổ! Hãy mở mắt hướng về Mã Lai! Dân tộc ấy hòa bình trong chiến tranh triền miên của Việt Nam. Dân tộc ấy không được vinh dự thường xuyên đặt tít hàng đầu trên báo Mỹ, báo Pháp, báo Nhật, báo Đức… Về tỷ tỷ tấn bom rơi. Về triệu triệu người chết. Về Huế Mậu Thân. Về Mỹ Lai thảm sát. Không, dân tộc ấy bình thường. Do đó, đất nước Mã Lại thiếu một hố bom B52 nhưng thừa nhiều thành phố mới xây dựng, thừa lúa gạo, thừa cao su, thừa thiếc, thừa dầu hỏa. Và, hiện nay, Mã Lai, cái nước vớ vẩn ấy lại đóng vai trò quyết định số phận cả vùng Đông Nam Á, quyết định luôn cả số phận dân tộc anh hùng 20 năm chống Mỹ cứu nước! Nhìn rõ để thức tỉnh. Để nhận chân giá trị của lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cái lý tưởng giải phóng dân tộc bị trị đã vậy còn cái lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ cho các nước chậm tiến của người quân tử Hoa Kỳ ra sao? Người quân tử Hoa Kỳ, bằng kinh nghiệm Việt Nam, ngày nay chúng ta có thể gọi là ngụy quân tử mà không sợ mình thiên kiến. Người Mỹ đến với các nước chậm tiến như một tên trọc phú đến với dân nghèo. Họ ồn ào thi ân, bố đức vì họ đã ngắm trước được những thứ họ sẽ thu về. Bọn lái buôn nào cũng tính toán kỹ lưỡng. Trong tác phẩm Một người Nga ở Saigon, tôi đã nói về người Mỹ ở Việt Nam. Và tôi khẳng định rõ rệt: Chính sách của nước Mỹ cư xử với dân tộc tôi không phải là dân tộc Mỹ. Tôi chống chính sách của chính phủ Mỹ, không chống dân tộc Mỹ. Bởi vì, suy nghĩ cho cùng, cái sự đầu tắt mặt tối, nợ đầm nợ đìa, đến chết vẫn chưa trả hết nợ cho nhà cửa, cho xe cộ, cho đủ mọi tiện nghi; đến chết vẫn chưa hiểu hạnh phúc đơn sơ, hạnh phúc thung dung của người phương Động của dân chúng Mỹ cũng là do thứ chính sách nó lệ hóa con người phóng ra từ một thứ chủ nghĩa đê tiện, thứ văn minh bấm nút. Tôi nói tiếp về lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ và sự có mặt của người Mỹ, chính sách Mỹ ở nước tôi. Trước hết, lý tưởng ấy được khai phóng một cách trịch thượng, xấc láo và đốn mạt. Nó khỏi sự bằng 2 bàn tay thân hữu. Rồi không thân hữu nữa. Vì nó không muốn kết bạn với nước nhỏ. Nó có đầy tớ. Nó rút bàn tay biểu tượng trên nên cờ sao sọc khỏi bàn tay nước nhỏ. Để nắm cổ nước nhỏ! Muốn nắm cổ nước nhỏ mà thao túng, nó phải tiêu diệt thần tượng của nước nhỏ, nó phải gạt loài người công chính mà đem mồi phú quý nhữ lũ cầy cao tay sai. Và nó đã chơi trò bẩn y hệt Nhạc Bất Quần cộng sản. Nếu cộng sản phát động quần chúng để chôn sống các giai cập đối nghịch thì người Mỹ cũng xúi bẩy các phong trào quần chúng vùng dậy bắn bỏ lãnh tụ của họ, kẻ đối nghịch với quyền lợi Mỹ. Cộng sản trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của nhân dân. Người Mỹ trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của các phong trào đối lập muốn có tự do, dân chủ thật sự! Về thủ thuật giết người ái quốc nước nhỏ, chỉ khoái xử dụng đầy tớ ngoan ngoãn, cộng sản và tư bản giống nhau. Tư bản tệ hơn cộng sản ở điểm, đã tình nguyện làm đầy tớ cho nó mà nó vẫn không bênh vực tận tình. Hà Nội và Sàigòn là sự so sánh chính xác nhất. Không hề thấy báo chí Liên Xô phê bình cuộc chiến đấu chống Mỹ của Hà Nội. Nghệ thuật tuyên truyền của Liên Xô đã kích thích cả ông già sắp chết, con nít còn hôi mùi sữa ủng hộ nước bạn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đến Simonov, nhà thơ kích thước của Liên Xô, còn chi một bài thơ ca ngợi sự hứng bom Mỹ của Hà Nội và lên án Mỹ kịch liệt. Ngoài Liên Xô, trước 30-4-1975, không hề thấy bảo chí Đông Âu nói xấu người anh em cộng sản Việt Nam. Không hề thấy một lời ngắn nào của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa công kích Hà Nội. Fidel Castro, người hùng của Mỹ Châu La Tinh, đã ca ngợi Hồ Chí Minh và cuộc chiến đấu ăn cướp của Hà Nội hết lời. Fidel Castro đã đánh bóng Hà Nội, đã huyễn hoặc các nước Nam Mỹ và Phi Châu. Chỉ Fidel Castro mới dám tạc tượng Nguyễn Văn Trỗi và xuất bản sách viết về anh hùng Nguyễn Văn Trỗi! Vân vân … Ngoài mặt, cộng sản nó cưu mang nhau lắm, nó “hữu nghị” thắm thiết lắm. Trong lòng nó, dĩ nhiên, bẩn thỉu, bẩn thỉu như lòng đàn anh nước lớn tư bản. Thế giới cộng sản nó chơi với nhau, thế đấy. Còn thế giới tự do chơi với nhau ra sao? Thế giới tự do luôn luôn ngoác cái miệng vinh tôn “Sàigòn là tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”, “Nam Việt Nam là thành trì bảo về tự do thể giới” nhưng cũng luôn luôn uốn lưỡi bôi nhọ Sàigòn đủ cách, đủ kiểu, mặc dù, đại diện của cái thế giới nhỏ mọn, bất công ấy đã làm giàu trong chiến tranh tủi nhục 20 năm của Sàigòn. Nhật Bản là con kên kên dơ dáy và vô liêm sỉ nhất. Nó tiêu biểu cho tinh thần giả đạo đức của thế giới tự do. Nó phơi bày nguyên vẹn tâm hồn lái buôn tư bản gian dối. Xoá bỏ cái thế giới tự do mù lòa đi, chỉ nói về ông chủ Mỹ thôi. Và hãy nói cái bề ngoài của ngụy quân tử Mỹ. Này, anh thế giới thứ 3, anh nước nhỏ chậm tiến, anh nên sưu tầm những câu thuộc loại “xú ngôn” phọt ra từ những cái miệng gang thép của quý vị nghị sĩ, dân biểu bọ cú về Saigon để suy gẫm. Nhiều lắm. Tôi xin đan cử một vị tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc Hoa Kỳ thôi. Vị này, ngài Fullright (Nếu tôi viết đúng càng tốt, viết sai cũng tốt luôn vì tôi có thể dịch rất bồi: Fullright là nghị sĩ của lẽ phải đầy nồi chân, là nghị sĩ công chính tràn trề, là nghị sĩ lụt lội lẽ phải, là nghị sĩ đầy quyền, vân vân …) đã nằm ngủ ở Hoa Thịnh Đốn, trong chiêm bao, ngài ú ớ: “Sàigòn là một ổ điểm!”. Anh thấy vị nghị sĩ tinh hoa của văn mình 200 năm Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ này có mặt dầy, vô giáo dục không? Kẻ thù của Mỹ là Liên Xô. Kẻ thù hung hãn nhất thời đó là Việt Cộng mà không dám sủa: “Washington là một ổ lưu manh!” Những đồng minh Mỹ đã xất xược ví thủ đô “nước bạn”, thủ đô của văn hóa, của văn học nghệ thuật, của mọi cơ cấu quốc gia, của anh hùng dân tộc Việt Nam là “ổ điếm” thì, quả thật, miệng ông ta và công ty có gang có thép. Nghị sĩ Mỹ chơi nước nhỏ kỹ lắm. Báo chí Mỹ chơi nước nhỏ kỹ hơn. Tôi không nói tất cả báo chí Mỹ. Điều này hồ đồ. Tôi chỉ nói cái số báo Mỹ đã chơi nước nhỏ mà Sàigòn là nạn nhân thê thảm của họ. Anh hãy đến thư viện nước Mỹ, bất cứ một thư viện lớn của tiểu bằng nào, lục lại các báo đã xuất bản năm 1954, trước ngày chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh mà đọc. Anh đừng quên đọc chuyện Mỹ du của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà báo chí Mỹ đã thắp hào quang rực rỡ chung quanh thân thế và sự nghiệp vị lãnh tụ anh minh của Nam Việt Nam. Đọc kỹ, anh nhé, chuỗi ngày dẹp sứ quân, chuỗi ngày xây dựng ấp chiến lược. Đủ rồi, anh lại tìm đọc, vẫn những tờ báo đã ca ngợi chí sĩ Diệm, bởi nhờ ông quyết liệt, xả láng, xuất bản năm 1963, trước ngày ông bị tay sai của Mỹ bắn chết trong xe bọc sắt của Mỹ. Họ đã khạc đờm xuống vỉa hè rồi họ hạ mình cúi liếm những bãi đờm họ đã khạc! Chữ nghĩa có 2 tiếng phản tỉnh vừa dễ yêu vừa ghê tởm. Những kẻ trót “bốc thơm” người khác, trót đánh bóng, mạ kền người khác vì những quyền lợi nào đó, khi cảm thấy mình hố hay khi cảm thấy quyền lợi mới beo bở hơn thì “thối” hóa “thơm” vá “thơm” hóa “thối”. Ngụ ngôn Tây phương đã có chuyện Cái lưỡi. Khổng Tử cũng đã luận về hạng người này. Và ở nước Mỹ, một vị tổng thống (tôi quên tên) đã nói thẳng vào mặt họ, đại ý: Bảo chỉ có thể bẩn thỉu, vô liêm sỉ, nhưng vẫn cần thiết có báo chí và tự do báo chí. Dĩ nhiên, tổng thống Mỹ luận về báo chí Mỹ. Vậy thì họ có quyền tự do khạc đờm rồi liếm lại đờm đã khạc trong 2 nghĩa bốc thơm, bốc thối. Chẳng sao, phản tỉnh là động từ tuyệt diệu để vỗ về lương tâm. Cũng còn để bán rẻ lương tâm nữa. Cái số báo chí đã nhục mạ quân đội của Sàigòn: “Chết bị xe cán nhiều hơn là chết bị Việt Cộng giết”, chắc chắn, chưa hề đọc “Nghĩa vụ luận” nghề nghiệp. Họ không ưa ông tướng Phan Trọng Chinh, họ bênh cố vấn của họ bị ông Chinh khinh thường thì họ cứ “bốc thối” ông Chinh, việc gì họ phải hèn hạ xuyên tạc lính của Sư đoàn 25? Nước tôi có một số nhỏ thông tín viên chuyên bán tin mật cho các báo Mỹ, các hãng thông tấn ngoại quốc. Những thằng này chỉ cần tiền nhảy đầm, đánh bạc mà moi móc tin bẩn của các nhà lãnh đạo Sàigòn và vợ con họ để cung cấp cho báo Mỹ. Và báo Mỹ đã không phê bình cá nhân các nhà lãnh đạo, mà nó cứ ra rả miệt thị chế độ Sàigòn. Báo chí Mỹ là lũ cán bộ tuyên truyền cấp xã của cộng sản Hà Nội. Đại khái vài nét đan thanh của cái gọi là khai phóng tự do, dân chủ của ngụy quân tử Hoa Kỳ. Dân tộc ta được những gì, mất những gì từ chính sách tân biên cương của trọc phú Mỹ. Trước hết, về cái được. Ngôn ngữ của chúng ta giàu có thêm nhờ những danh từ “ôkê sa lem, năm bờ oăn, chích cun đai, pho ren, yét nô, ốp lai mít, xăn ốp bít” vân vân… Sĩ giới thì phong phú bằng các thầy thông ngôn, các cô bán bar xuất thân từ những English courses. Chúng ta có cả một chuồng tiến sĩ các kiểu tốt nghiệp ở Mỹ. Nông dân của chúng ta được nghĩ làm ruộng vì phi công Mỹ cần chỗ dội bom. Chúng ta được ăn gạo Mỹ hột tròn, gạo Thái Lan. Rừng đồi của chúng ta được thay mầu vì thuốc khai hoang của Mỹ. Phụ nữ của chúng ta được công khai làm điếm. Bọn lưu manh được làm giàu bằng chiến tranh. Tuổi trẻ của chúng ta được chết hết ở chiến trường. Chúng ta được ăn nhiều đạn đại bác và các bà tướng được ăn cắp vỏ đạn đồng bán cho lái buôn nước ngoài kiếm đô la gửi ngân hàng Thụy Sĩ. Các thành phố lớn của chúng ta được mở sì-nách-ba, sòng bạc, nhà thổ. Chúng ta được bán hàng Mỹ lậu ở chợ trời. Kinh tế của chúng ta được ngưng sản xuất. Xã hội của chúng ta được xuống dốc. Văn hóa của chúng ta được để tóc dài. Chính trị của chúng ta được thao túng bởi lũ vai u thịt bắp. Quốc hội của chúng ta được buôn bán lich cởi truồng. Và, vĩ đại nhất từ lập quốc, chúng ta được suy tôn thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ! Tóm lại, chúng ta được quá nhiều đến nỗi không thể kể hết. Nhưng chúng ta cũng mất vô tả. Một nỗi mất dài dài, dài bằng lịch sử 200 năm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là nỗi mất nước. Về nỗi mất này, chúng ta đành chịu vì chúng ta khờ khạo, chúng ta không nhìn rõ cái gian manh của chính nghĩa 20 năm chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ. Và chúng ta không nhìn rõ lịch sử của chúng ta. Chúng ta cũng chẳng tiên đoán nổi những khúc rẽ oan nghiệt của lịch sử thế giới trong tương lai. Đừng bao giờ tự đặt chúng ta ở vào hoàn cảnh của Nam Triều Tiên hay Tây Đức. Nếu vị thế địa dư của chúng ta như ở Tây Đức thì dù lãnh đạo của chúng ta có ngu dốt, tham nhũng hơn nữa, Sàigòn vẫn cứ tồn tại. Và nếu Tây Đức hoán chuyển vị thế cho chúng ta, Tây Đức cũng sẽ bị dẹp đúng chu kỳ 20 năm. Sự có mặt của người Mỹ ở Việt Nam cùng với cuộc chiến mà người ta tưởng là “sa lầy” nhằm 3 mục đích rõ rệt: Một: Tạo dựng mâu thuẫn để chia rẽ Liên Xô và Trung Quốc. Hai: Thử vũ khí, đo vũ khí và thao dượt quân đội. Ba: Ngăn Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á. Mục đích thứ nhất thành công. Liên Xô và Trung Quốc đã biến thành cựu thù, thế lực của cộng sản giảm đi, ảnh hưởng của Cẩm Linh yếu dần, người Mỹ mở cửa vào Bắc Kính bằng xương máu lính Mỹ và lính Việt Nam cả 2 miền. Mục đích thứ 2 thành công. Ngay từ khi đắc cử tổng thống, ông Kennedy đã hứa với ông Hồ Chí Minh là “không xóa bỏ chế độ Hà Nội”. Vụ tàu Maddox dưới triều đại ông Johnson chỉ là cái cớ để không quân Mỹ học tập tránh né Sam-3, Sam-6 của Liên Xô. Hà Nội rêu rao Mỹ muốn xâm lược miền Bắc cũng chỉ nhằm khích động quân dân của mình và làm sáng “chính nghĩa” đánh Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam. Ông tướng Vĩnh Lộc, khi bị “biếm” về trường Cao Đẳng Quốc Phòng, có lần, dở trang báo Pháp chụp nguyên vẹn thành phố cảng Hải Phòng và buồn bã nói với tôi: “Ông xem, không tập dài dài, bao nhiêu phi vụ, bao nhiêu tấn bom mà Hải Phòng co sứt sát gì đâu. Họ đổ bom xuống núi!” Không lực Mỹ chỉ muốn đùa với lực lượng phòng không của công sản Hà Nội. Các kiểu máy bay oanh kích của họ đã vùng vẫy trên vùng trời miền Bắc. Chưa hề thấy một tên đảng viên cấp huyện nào chết vì bom Mỹ. Mà chỉ thấy dân vô tội chết oan, nhà cửa cháy rụi, mồ mà tổ tiên chúng ta bị khai quật. Vụ B52 “ta pi” bom xuống khu phố Khâm Thiên cũng không nhằm giải quyết chiến tranh. Đó là đòn của kẻ mạnh bắt kẻ yếu ngoan ngoãn, vì đã đến lúc … triệt buộc trong ván domino. Hà Nội cứ nói phét “Mỹ cút”. Mỹ cứ yên lặng để Hà Nói nói phét. Thế giới ghét Mỹ cứ hoan hô sự nói phét của Hà Nội. Tình báo Mỹ đã điều nghiên kỹ lưỡng. Khả năng chịu đựng B52 của Hà Nói không quá 12 ngày. Mỹ “ta pi” bom đúng 12 ngày thôi. Hà Nội vào bàn hội nghị nghiêm chỉnh. Nếu Mỹ đội bom thêm 1 ngày nữa, chỉ cần một ngày nữa thôi, Hà Nội đã đầu hàng, dân chúng miền Bắc đã hả hê và lịch sử Việt Nam đã khác hẳn. Nhưng sức mấy Mỹ thích Hà Nội tan rã. Bắc tiến là khẩu hiệu hò hét cho sướng miệng. Mỹ nuôi dưỡng chiến tranh Việt Nam, nuôi dưỡng cộng sản Việt Nam. Để dùng cộng sản Việt Nam làm “tiền đồn” ngăn Trung Quốc bành trướng thế lực khắp vùng Đông Nam Á. Mỹ nghiên cứu lịch sử Việt Nam tường tận. Những trang sử quật khởi làm nên bởi Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ cho Mỹ một bài học: Chỉ có dân tộc Việt Nam mới đủ khả năng bịt lối nam tiến của anh khổng lồ Trung Hoa. Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện không hề bị Trung Quốc đô hộ là nhờ cái nút Việt Nam đóng thật chặt. Nhật Bản muốn vùng vẫy ở Đông Nam Á cũng đã phải dùng Việt Nam làm bàn đạp. Mỹ đã hòa hoãn với Trung Quốc nhưng vẫn sợ Trung Quốc bành trướng. Đã đánh nhau với Hà Nói rồi, biết người biết mình rồi, Mỹ bỏ rơi Sàigòn và khoán cho Hà Nói làm phú-lít canh giữ không cho Trung Quốc xuống phía Nam. Lịch sử sang trang dễ dàng sau 20 năm âm mưu đê tiện. Mỹ giả vờ thua đau để gây phẫn nộ cho dân chúng, để chuẩn bị một khí thế dìều hâu y hệt vụ Trân Châu Cảng. Và ngân sách quốc gia dưới triều đại Jimmy Carter lên vọt. Và B-1 thay thế B52. Và bom sạch. Và vân vân … Và mới nhất Liban thê thảm. Mà không ai chửi chiến tranh dơ bẩn nữa! Mỹ xúi Việt Nam giải phóng Kampuchia. Tại sao? Vì sợ Kampuchia lọt vào tay bọn lãnh tụ tay chân của Bắc Kinh. Để Pol Pot va Iang Sary thủ tiêu hết bè lũ thân Liên Xô, để Pol Pot va Iang Sary dấn sâu vào tội ác và để hai tên đồ tể quá khích này phát động chiến tranh khắp biên giới Việt Miên, tràn qua lãnh thổ Việt Nam, khí thế đằng đằng, yêu sách hỗn xược, Mỹ mới bật đèn xanh cho Việt Nam. Và Việt Nam giải phóng Kampuchia cái rụp, ngon ơ, dưới cặp mắt sững sờ rồi nổi giận của Đặng Tiểu Binh. Không chiếm Kampuchia để Trung Quốc ép Việt Nam rồi thao túng Đông Nam Á à? Đâu được. Đạo diễn Mỹ lại trổ thêm thủ thuật. Liên Hiệp Quốc làm nổi trò gì cứu dân tộc Kampuchia? Những ông thông dịch Việt-Miên của đài phát thanh Hà Nội đã biến thành những lãnh tụ vĩ đại của nước cộng hòa nhân dân Khmer. Ván đã đóng thuyền. Đã đóng thuyền cho cuộc chơi của chính sách toàn cầu của Mỹ. Nhà đạo diễn xúi Trung Quốc “cho Việt Nam một bài hoc”. Đặng Tiểu Binh đánh qua rồi rút lẹ, sợ để lâu sẽ có thêm một Thoát Hoan, một Tôn Sĩ Nghị! Cộng sản Việt Nam đã là một cái xác chết. Đấm đá xác chết chỉ tổ mỏi tay thôi. Cái xác chết được dựng lên bởi đạo diễn Mỹ. Muốn xác chết gục xuống, chỉ cần biết thọc nách đạo diễn Mỹ. Buồn thay, người ta, những người muốn tiêu diệt cộng sản Việt Nam, vẫn ngây thơ ôm chân Mỹ, trông cậy Mỹ sẽ có lần đưa mình về giải thoát xứ sở. Ông Ford đã dõng dạc tuyên bố: “Lịch sử đã sang trang”. Người Mỹ đã hết sứ mạng “khai phóng tự do, dân chủ” ở Việt Nam rồi! Lật lại lịch sử để hồi tưởng, để học tập chứ không để … “encore une fois”! Chắc chắn, người Mỹ chỉ làm lịch sử Mỹ. Làm lại lịch sử Việt Nam phải là người Việt Nam, phải là tâm hồn Việt Nam đích thực. Tóm tắt: Không còn chiến tranh ý thức hệ nữa. Quá độ của thứ chiến tranh này là sự chia vùng ảnh hưởng của hai thế lực bất lương, bất nhân. Ngày kia, chúng sẽ diệt lẫn nhau. Và nhân loai mơ ước cả 2 thế lực sẽ bị dìm sâu dưới đại hồng thủy. Để con người xứng đáng làm người. Nhưng mỗi con người, trước đó, cần truy nã thân phận mình, cần phải nhớ rằng, làm đấy tớ cho cộng sản thì khổ, lắm đấy tớ cho tư bản thì nhục. Nỗi khổ và nỗi nhục nhìn rõ ở Việt Nam, từ Sàigòn, ngày dài nhất. Đêm đầu tiên trong cuộc đời tù đầy của tôi là đêm đầu tiên ở Một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Tôi đã nằm trên bục xi măng, cố nhắm mắt mà không sao ngủ nổi. Tự nhiên, tôi nhớ miếng bìa đỏ ghi họ và tên của một người quen ghim vào tấm các-tông lớn treo trên tường văn phòng Hai Phận. Họ và tên của những người khác ghi trên bìa xanh. Tại sao họ và tên người quen tôi, người dính líu với tôi những vấn đề mới nhất lại bìa đỏ? Tôi nằm không yên. Tôi ngồi dậy, ra cửa hút thuốc lá với Hoàng Anh Tuấn. Và tôi bắt đầu nghĩ đến sự tra tấn. Tôi sợ … Chú thích: Đã được trả tự do khoảng 1986 - Chú thích của nhà xuất bản.